21/02/2018, 09:37

Thuyết minh về quần thể lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh – Văn hay lớp 8

Thuyết minh về quần thể lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh – Bài làm 1 Chiến tranh đă di qua gần nửa thế kỉ nhưng nỗi xót thương và niềm yêu kính của mỗi người dân Việt Nam dành cho Bác Hồ – vị Cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam – chưa bao giờ nguôi cạn. Nhớ đến người, nhưng dòng ...

Thuyết minh về quần thể lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh – Bài làm 1

Chiến tranh đă di qua gần nửa thế kỉ nhưng nỗi xót thương và niềm yêu kính của mỗi người dân Việt Nam dành cho Bác Hồ – vị Cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam – chưa bao giờ nguôi cạn. Nhớ đến người, nhưng dòng người hướng về lăng Bác tưởng như không bao giờ dừng lại.

Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và quần thể lăng gồm quảng trường Ba Đình, khu nhà sàn, vườn cây,… sau hai năm xây dựng, ngày 19/8/1975 đã được khánh thành.

Mặt chính của lăng nhìn ra hướng đông là Quảng trường Ba Đình. Lăng gồm ba lớp với chiều cao 21,6 mét. Lớp dưới kết cấu bậc nhiều cấp, có lễ đài dành cho đoàn chủ tịch khi mít tinh. Phần giữa là kết cấu trung tâm của lăng, gồm phòng thi hài, hành lang, cầu thang lên xuống. Phần trên là mái lăng được tạo dáng cách điệu bông sen nở. Mặt chính lăng có dòng chữ “Chủ tịch Hồ Chí Minh” bằng đá hồng ngọc màu mận chín.

Lăng là nơi lưu giữ thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh, người Cha già dân tộc, người đã được UNESCO tặng danh hiệu Danh nhân Văn hóa thế giới và Anh hùng giải phóng dân tộc nhân kỷ niệm 100 ngày sinh (1890 – 1990).

Công trình lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là kết quả lao động sáng tạo của nhiều nhà khoa học và công nhân hai nước Việt Nam – Liên Xô tỏ lòng tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh và là sản phẩm của tình hữu nghị Việt – Xô.

Lăng Bác quay về hướng Đông để đón ánh mặt trời, trước cửa lăng là quảng trường Ba Đình lịch sử, nơi đây, ngày 2 tháng 9 năm 1945 đã chứng kiến những giờ phút thiêng liêng nhất của dân tộc khi Hồ Chí Minh đứng trước quốc dân đồng bào đọc "Tuyên ngôn Độc lập" công bố với thế giới nền độc lập lâu bền của dân tộc Việt Nam ta. Quảng trường Ba Đình dài 320m, rộng 100m, chia thành 240 ô cỏ xanh tươi là hình tượng những chiếc chiếu trải trên sân đình ở các làng quê Việt Nam xưa, là nơi nhân dân đến dự các buổi lễ trọng thể. Phía tây của Quảng trường là khu lưu niệm Hồ Chủ tịch. Tại đây còn có Bảo tàng Hồ Chí Minh, ngôi nhà sàn là nơi ở của Người, hồ cá, vườn cày, rặng dừa, những hàng rào dâm bụt.. Tất cả đã đi vào thơ ca Việt Nam:

"Anh dẫn em vào cõi Bác xưa

Vườn xoài hoa trắng nắng đu đưa

Có hồ nước lặng sôi tôm cá

Có bưởi cam thơm mát bóng dừa".

(Tố Hữu)

Trong khu vườn rộng sau Phủ Chủ tịch, có một con đường hẹp trải sỏi, hai bên trồng xoài dẫn tới một ngôi nhà sàn nhỏ nhắn bình dị, nằm giữa những vòm cây. Hàng rào dâm bụt bao quanh nhà, cổng vào kết bằng cành cây đan xen nhau. Đó là ngôi nhà Bác Hồ ở và làm việc từ ngày 17-5-1958 cho tới khi Người qua đời. Tầng dưới nhà sàn là nơi Bác thường họp với Bộ Chính trị. Tầng trên là hai phòng nhỏ, nơi Bác làm việc và phòng ngủ với những vật dụng đơn sơ giản dị. Trước nhà là ao cá Bác nuôi, bên bờ ao là các loài hoa phong lan nở quanh năm.

Sau nhà là vườn quả với hàng trăm loài cây quý do các địa phương đưa về trồng, như cây vú sữa của đồng bào miền Nam gửi biếu Bác nàm 1954, bưởi Phúc Trạch, Biên Hòa, Mê Linh; cam Hải Hưng, Xuân Mai, Vần Du, Xã Đoài; quýt Hương Cần, Lý Nhân; táo Thiện Phiến, Ngọc Hồ, song mai Đông Mỹ; hồng Tiên Điền (quê hương nhà thơ Nguyễn Du). Trong vườn còn có cả những loại cây từ nước ngoài như ngàn hoa, cây bụt mọc quanh ao, cây cau vua gốc từ Caribê…

Nhân dân từ mọi miền đất nước cũng như du khách quốc tế đến thủ đô Hà Nội, ai cũng muốn đến viếng lăng, thăm nhà ở của Bác và đi dạo quanh Quảng trường Ba Đình lịch sử. Nhắc đến lăng Bác, lòng người lại rưng rưng trong niềm thương nhớ:

"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dăng bảy mươi chín mùa xuân"

("Viếng lăng Bác" — Viễn Phương)

Thuyết minh về quần thể lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh – Bài làm 2

Ngày 29-8-1975 đã làm lễ khánh thành Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Công trình Lăng chính thức khởi công ngày 2-9-1973 trên vị trí lễ đài Ba Đình cũ. Công trình do các kiến trúc sư Việt Nam và Liên Xô cùng tham gia thiết kế.

Lăng gồm ba lớp với chiều cao 21, 6 mét. Lớp dưới tạo dáng bậc thềm tam cấp, cấp dưới của bậc thềm là lễ đài dành cho Đoàn Chủ tịch các cuộc mít tinh tổ chức ở quảng trường. Lớp giữa là kết cấu trung tâm của lăng, gồm phòng thi hài và những hành lang, những cầu thang lên xuống. Quanh bốn mặt là những hàng cột vuông bằng đá hoa cương, nhìn từ mặt nào cũng thấy năm khoảng đều nhau gỢi nhớ ngôi nhà năm gian quen thuộc của mọi miền quê Việt Nam. Lớp trên cùng là mái lăng hình tam cấp. cấp dưới vát lên thanh thoát, hai cấp trên thẳng nét tạo mái bằng khép lại không gian đỉnh lăng, ở mặt chính lăng có dòng chữ: CHỦ TỊCH HỒ-CHÍ-MINH.

Bước vào phòng ngoài, trước mặt ta óng ánh trên tường đá hoa cương màu đỏ sẫm hàng chữ vàng ‘Không có gì quí hơn độc lập tự do’. Ở dưới là dòng chữ kí quen thuộc của Bác. Lên cầu thang là tới nơi Bác yên nghỉ. Trên nền tường ốp đá trắng gắn nổi hình cờ Đảng và cờ Tổ quốc. Đài hoa – nơi đặt hòm kính thi hài Bác – được ghép bằng đá huyền đen lấp lánh. Cách bố trí lối đi từ ba phía cho phép nhiều người được vào viếng Bác cùng lúc. Qua lớp kính trong suốt, Bác như vừa ngả lưng, chợp mắt trong chốc lát. vẫn bộ quần áo ka ki bạc màu, dưới chân Bác vẫn là đôi dép cao su giản dị của Người.

Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng của lòng tôn kính và biết ơn vô hạn của cả dân tộc đối với Người. Đây còn là một công trình kiến trúc có ý nghĩa chính trị và nghệ thuật lớn lao, thể hiện trí tuệ, tình cảm, tài ba và sức lực của các tầng lớp nhân dân ta. cả thiên nhiên nữa, dường như có ý dành cho ta nhiều loại đá quý nhất để xây lăng. Đá huyền đẹp Vĩnh Linh. Đá xanh màu mơ Sơn La. Đá vàng nâu đất Nghệ. Đá màu đỏ cờ xứ Thanh. Cao Bằng gửi về đá ngọc mận chín núi Piên để tạc dồng chữ Chủ tịch Hồ Chí Minh khảm trên mái lăng. Tuyên Quang cũng gửi về loại đá sỏi quý: nghìn vạn hòn như một, tròn và đều tăm tắp như hạt nhãn… Miền Nam, khi đó đang giữa cuộc chiến tranh, đã đánh vào tận sát căn cứ địch để lấy đá hoa gâm, đá mã não rồi do chính đường mòn Hồ Chí Minh gửi ra Bắc góp phần xây ngôi nhà vĩnh hằng của Người.

Chuyện gỗ cũng phong phú không kém chuyện đá. Chuyến xe đầu tiên chở gỗ quý miền Nam đến Hà Nội vào mùa xuân 1974. Gỗ lớn mấy sải tay ôm. Gỗ đinh lõi vàng vân trắng. Gỗ mun đen như than đá. Gỗ hương tía vần như ráng đỏ trời chiều. Gỗ nu có vân xoắn như lượn tơ tằm. Rồi còn gỗ của các rừng đại ngàn miền Bắc. Gỗ, đá ấy qua bàn tay và trí tuệ của công nhân, nghệ nhân, kĩ sư Việt Nam và cả chuyên gia Liên Xô nữa, đã trở thành lăng Bác Hồ, niềm tự hào chung của toàn thể dân tộc Việt Nam.

Cũng cần nói đến cây xanh quanh lăng. Hai cây đại ở hai bên cửa chính, dáng đẹp cổ kính, đơm hoa cánh trắng lòng vàng, hương ngát. Chạy dọc theo hai lễ đài phụ là hai dãy vạn tuế thân thẳng, lá tựa ô che trên ngọn. Đại và vạn tuế tượng trưng cho sự vĩnh hằng. Khép lại không gian hai phía lễ đài là hai bức lũy tre, trúc, luồng, mai ken dày, gợi nhớ tới xóm làng thân thuộc.

Sau lăng là những bồn hoa, những khóm cây tụ hội từ bốn phương đất nước. Hoa ban Tây Bắc, mai tứ quý, nguyệt quế, mai vàng của Nam Bộ, bưởi Biên Hòa, dừa Bình Định, quế Trà Mi, đào Nhật Tân, cả cây đào chiết từ gốc đào Tô Hiệu ở nhà tù Sơn La, hồng Bạch Hạc, táo Thiện Phiên và các loại hoa dâng hương tinh khiết như nhài, mộc, ngâu, dạ hương, ngọc lan v. v… với Việt Nam, lăng Bác Hồ là đài tưởng niệm lớn nhất của thế kỉ XX này

0