Thương mại điện tử
là một sự kết hợp giữa các công nghệ và dịch vụ tạo điều kiện cho quá trình tự động hoá của các giao dịch thương mại và các thông tin liên quan trong một công ty và giữa công ty với khách hàng và nhà cung cấp của mình. Định nghĩa về ...
là một sự kết hợp giữa các công nghệ và dịch vụ tạo điều kiện cho quá trình tự động hoá của các giao dịch thương mại và các thông tin liên quan trong một công ty và giữa công ty với khách hàng và nhà cung cấp của mình.
Định nghĩa về thương mại điện tử cũng được nhiều tổ chức quốc tế khác nhau đưa ra. Theo nghĩa rộng rãi nhất thì thương mại điện tử là việc sử dụng các phương pháp điện tử để làm thương mại; nói chính xác hơn, thương mại điện tử là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử, mà nói chung là không cần phải in ra giấy trong bất cứ công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch.
Thông tin trong định nghĩa này có thể là bất cứ gì có thể truyền tải bằng kĩ thuật điện tử như thư từ, tệp tin văn bản, các cơ sở dữ liệu, bản vẽ thiết kế, hình vẽ, đơn hàng, hoá đơn, biểu giá, hợp đồng......
Uỷ ban Liên Hợp Quốc về luật thương mại quốc tế đã thảo ra Đạo luật mẫu về thương mại điện tử và đã được Liên Hợp Quốc thông qua:
Thuật ngữ “thương mại”(Commerce) cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề nảy sinh ra từ mọi mối quan hệ mang tính chất thương mại, dù có hay không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính chất thương mại (Commercial) bao gồm, nhưng không phải chỉ bao gồm, các giao dịch sau đây: “bất cứ giao dịch nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá dịch vụ, thoả thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý thương mại, uỷ thác hoa hồng, cho thuê dài hạn, xây dựng các công trình; tư vấn;kĩ thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thoả thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh và các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hoá hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hay đường bộ.”
Theo tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình, cả các sản phẩm được giao nhận cũng như những thông tin được số hoá thông qua mạng Internet.
Do vậy thương mại trong thương mại điện tử không chỉ buôn bán hàng hoá và dịch vụ theo cách hiểu thông thường, mà bao quát một phạm vi rộng hơn nhiều, và do đó việc áp dụng thương mại điện tử sẽ làm thay đổi hình thái hoạt động của hầu hết các hoạt động kinh tế. Theo ước tính, đến nay có tới trên 1300 lĩnh vực ứng dụng thương mại điện tử, trong đó, buôn bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một lĩnh vực;
mở ra các hoạt động hiệu quả cho kết quả trong những khoảng thời gian ngắn hơn, cải thiện sự phản hồi với khách hàng và làm giảm chi phí điều hành. Hầu hết các công ty đang đầu tư vào thương mại điện tử ngày nay mong muốn có một hệ thống quản lý được các giao dịch thương mại nội bộ và qua các kênh phân phối. Một kênh phân phối có thể bao gồm các tổ chức bán hàng và marketing, các nhà sản xuất, các nhà thầu phụ, các nhà cung cấp nguyên vật liệu, những người bán lẻ, các nhà sản xuất thiết bị đầu tiên và những người tiêu dùng. Trong kênh phân phối còn có các cơ quan Chính Phủ để kiểm soát thuế quan và các nhu cầu an ninh, các công ty bảo hiểm để bảo vệ hàng tồn kho, các công ty phân phối và hậu cần để vận chuyển hàng hoá và cuối cùng là các ngân hàng để cho quá trình thanh toán.
- Thư điện tử (Electronic mail hay E-mail)
- Trao đổi dữ liệu điện tử EDI-(Electronic Data Interchange)
- Thanh toán điện tử (Electronic-Payment)
- Trao đổi các sản phẩm số hoá
- Bán lẻ hàng hoá hữu hình
giữa các doanh nghiệp không phải là mới mẻ, từ cuối những năm 1970, các doanh nghiệp đã bắt đầu gửi, nhận các đơn hàng, hoá đơn và các thông báo chuyển hàng bằng điện tử thông qua EDI (trao đổi dữ liệu điện tử ). Mặc dù đã có khoảng 100.000 công ty trên khắp thế giới sử dụng EDI nhưng đa số những đối tượng được EDI hỗ trợ là những tập đoàn lớn, chính phủ.... Nguyên nhân là do tính phức tạp, kém khả năng phổ biến, chi phí lắp đặt và quản lý quá cao .
Ngày nay, với các ứng dụng của Internet, các doanh nghiệp dù ở qui mô nào cũng có thể liên hệ với nhau bằng điện tử thông qua web, một thế giới các mạng liên kết bao gồm: mạng toàn cầu (Internet ), mạng nội bộ (Intranet), mạng ngoại bộ(Extranet) và các mạng giá trị gia tăng (VAN- Value Added Network). Các mạng thương mại điện tử quản lý sự trao đổi các giao dịch, nó quản lý các đơn đặt hàng, thông báo chuyển hàng, các hoá đơn bán hàng và tất cả các tài liệu cần thiết cho công việc kinh doanh. Trong thương mại điện tử, các giao dịch chuyển đi giữa các ứng dụng 24 giờ một ngày, bảy ngày trong một tuần tuỳ theo các sự việc hoặc các lịch hẹn trước.
Ta có thể thấy rằng thương mại điện tử có một số đặc điểm cơ bản sau:
- Chi phí đầu tư thấp, phù hợp với mọi qui mô doanh nghiệp,
- sử dụng kĩ thuật số trong toàn bộ quá trình giao dịch,
- Giao dịch diễn ra liên tục, không có thời gian trễ,
- Thông tin chính xác do luôn cập nhật,
- Tự động hoá trong các giao dịch người – máy,
- Quá trình thanh toán thực hiện bằng điện tử thông qua các ứng dụng của thương mại điện tử,
- Quá trình giao hàng thực hiện bằng điện tử với các mặt hàng số hoá,
Để thấy rõ hơn đặc điểm của thương mại điện tử, ta có thể xem xét một quá trình mua hàng cho một doanh nghiệp trong hai điều kiện có thể ứng dụng thương mại điện tử và truyền thống (xem bảng 2). Ta có thể thấy nhiều bước trong hai hình thức này giống nhau, nhưng phương pháp nhận và truyền thông tin trong cả hai chu trình lại rất khác nhau. Rất nhiều phương tiện truyền tin được sử dụng trong hình thức thương mại truyền thống làm cho sự phối hợp trở nên khó khăn hơn và làm tăng thời gian cần thiết cho cả quá trình. Nhưng khi ứng dụng thương mại điện tử, các bước đều sử dụng đến kĩ thuật số, chỉ có các ứng dụng khác nhau để chuyển và xử lý dữ liệu trong suốt quá trình. Hiệu quả trong quá trình tăng hơn hẳn do ta có thể có toàn bộ các thông tin ngay lập tức và cũng có thể mua hàng ngay với chỉ một loại phương tiện truyền tin.
Đây chính là lợi ích mà thương mại điện tử sẽ mang lại. Tuy hàng hoá thông thường thì không thể chuyển qua Internet, nhưng ngày càng có nhiều hàng hoá và dịch vụ (như: phần mềm chương trình máy tính, trò chơi, thông tin ...) cho phép ta truyển tải bằng điện tử làm cho thương mại điện tử thực sự trở nên mạnh mẽ và cần thiết hơn bao giờ hết.
Bảng 2. So sánh thương mại điện tử và thương mại truyền thống
| Các bước | Thương mại truyền thống (sử dụng nhiều phương tiện truyền tin) | (sử dụng một phương tiện truyền tin duy nhất) | Ưu điểm của thương mại điện tử |
| Thu thập thông tin về sản phẩm | Tạp chí, tờ rơi, quyển catalog sản phẩm | Các trang Web | Thông tin sản phẩm luôn được cập nhật hơn |
| Yêu cầu một loại hàng | Mẫu yêu cầu, thư yêu cầu | Thư điện tử | Phản hồi nhanh hơn |
| Nhận thông tin | Bưu chính, trực tiếp | Thư điện tử, trang Web | Thu nhận thông tin nhanh hơn |
| Xem chi tiết sản phẩm, giá cả | Các quyển catalog | Các catalog điện tử trực tuyến | Thông tin chi tiết, hình ảnh phong phú hơn |
| Kiểm tra khả năng cung cấp và giá cả | Điện thoại, FAX | Thư điện tử | Cho kết quả nhanh hơn |
| Lập đơn đặt hàng | Mẫu in sẵn | Thư điện tử, Web | Không phải in ấn |
| Giử đơn hàng (mua)Nhận đơn hàng (bán | Fax, bưu điện | Thư điện tử, EDI | Nhanh, chính xác |
| Kiểm tra kho hàng | Mẫu in sẵn, Điện Thoại, Fax | Cơ sở dữ liệu trực tuyến | Số liệu chính xác do luôn cập nhật |
| Lập lịch giao hàng | Mẫu in sẵn | Thư điện tử, Cơ sở dữ liệu trực tuyến | Có khả năng tự động hoá |
| Viết hoá đơn | Mẫu in sẵn | Cơ sở dữ liệu trực tuyến | Tự động |
| Chuyển hàng | Người chuyển hàng | Người chuyển hàngInternet | Gần như tức thời đối với SP số hoá |
| Giấy báo đã nhận hàng | Mẫu in sẵn | Thư điện tử | Nhanh |
| Gửi hoá đơn (bán)Nhận hoá đơn (mua) | Bưu điện | Thư điện tử, EDI | Nhanh |
| Lập lịch thanh toán | Mẫu in sẵn | EDI, Cơ sở dữ liệu trực tuyến | Có khả năng tự động hoá |
| Trả tiền (người mua)Nhận tiền (người bán) | Tiền mặt, chuyển khoản | Trao đổi dữ liệu điện tử | Có khả năng tự động hoá |
là yếu tố hợp thành của nền kinh tế tri thức; thương mại điện tử đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ do lâu nay có rất ít cơ hội giao dịch, thiếu thông tin, thiếu đối tác. sẽ đẩy nhanh hơn tiến độ toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Vì vậy các nước đang phát triển như Việt Nam nếu biết tận dụng tốt những lợi ích của thương mại điện tử sẽ có cơ hội rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước phát triển trên thế giới. Mặc dù đạt được những hiệu quả nhất định, nhưng thương mại điện tử mới chỉ là khởi đầu, điểm xuất phát của một sự khởi đầu trong những năm tới. Phần lớn các trang Web hiện nay chưa sinh lời nhiều, nhưng các doanh nghiệp đều hy vọng chỉ trong một vài tháng các văn phòng này sẽ tạo ra những khoản lợi nhuận lớn cho họ. Rõ ràng có những cơ hội lớn chưa từng có cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vào cuộc cách mạng thương mại điện tử. Tuy nhiên, cần phải xử lý một số vấn đề về chính sách và kỹ thuật ở cấp quốc gia để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tham gia đầy đủ vào thương mại điện tử
Sự lớn mạnh nhanh chóng của thương mại điện tử giữa các doanh nghiệp thực hiện được là nhờ:
- Chi phí mua hàng thấp hơn
- Giảm chi phí tồn kho
- Chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị thấp hơn
- Tận dụng được các cơ hội kinh doanh
- Vận tải hậu cần có hiệu quả hơn
- Dịch vụ khách hàng phong phú hơn
- Chu kỳ kinh doanh ngắn hơn