24/05/2018, 18:44

Nội dung công tác quản lý tiền lương và tiền công trong doanh nghiệp

Bất cứ doanh nghiệp nào khi thực hiện tính lương cho công nhân đều phải dựa vào một số văn bản, nghị định, quy định của Nhà nước. - Căn cứ vào Nghị định 26/CP ngày 25/5/1993. - Căn cứ vào Nghị định của Chính phủ ngày 18/11/1997 về mức lương tối ...

Bất cứ doanh nghiệp nào khi thực hiện tính lương cho công nhân đều phải dựa vào một số văn bản, nghị định, quy định của Nhà nước.

- Căn cứ vào Nghị định 26/CP ngày 25/5/1993.

- Căn cứ vào Nghị định của Chính phủ ngày 18/11/1997 về mức lương tối thiểu số 10.2000.

- Căn cứ vào Nghị định số 28/CP ngày 28/3/1997.

- Căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của từng ngành mà các công ty hay doanh nghiệp có thể lựa chọn và xây dựng phương án trả lương của mình.

Theo khoản 4 điều 5 Nghị định số 114/2002/NĐ-CP, doanh nghiệp tiếp tục áp dụng thang lương bảng lương quy định tại Nghị định số 25/CP, NĐ số 26/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ quy định tạm thời chế độ tiền lương mới của công chức, viên chức... Việc xây dựng thang lương, bảng lương được xác định theo các trình tự sau:

* Phân tích công việc:

- Tiến hành thống kê đầu tư các công việc theo từng chức danh đang sử dụng trong doanh nghiệp.

- Thu thập những thông tin chi tiết về từng vị trí công việc cụ thể để xác định nhiệm vụ chính, nhiệm vụ phụ, các mối quan hệ của từng chức danh công việc và xác định các yêu cầu chuyên môn về trình độ học vấn, kinh nghiệm làm việc, kiến thức, kỹ năng, thể chất, điều kiện làm việc cần thiết của từng công việc.

* Đánh giá giá trị công việc:

Trên cơ sở phân tích công việc, tiến hành đánh giá giá trị công việc để xác định những vị trí công việc tương tự nhau có thể được tập hợp thành nhóm làm cơ sở xác định thang lương, bảng lương cho mỗi nhóm.

Các bước đánh giá giá trị công việc như sau:

- Lập danh sách các yếu tố công việc theo nhóm yếu tố công việc chủ yếu về: kiến thức, kỹ năng, trí lực, thể lực và cường độ lao động, môi trường, trách nhiệm. Trong mỗi nhóm yếu tố công việc, doanh nghiệp xác định cụ thể các yếu tố thành phần theo các mức độ từ thấp đến cao. Các yếu tố công việc là cơ sở để so sánh giữa các vị trí công việc trong doanh nghiệp.

- Lựa chọn các vị trí để đánh giá: trên cơ sở danh sách các yếu tố công việc, đánh giá giá trị công việc cho từng vị trí riêng biệt trong doanh nghiệp, đồng thời so sánh các yêu cầu chuyên môn của từng vị trí.

- Đánh giá và cho điểm các mức độ của các yếu tố để đánh giá và cho điểm các yếu tố thành phần theo các mức độ, trên cơ sở đó xác định thang điểm cho các yếu tố phù hợp với công việc.

- Cân đối thang điểm giữa các yếu tố nhằm đánh giá mức độ phức tạp hay giá trị của mỗi yếu tố trong tổng thể các yếu tố cấu thành công việc từ đó điều chỉnh lại thay đổi cho hợp lý.

* Phân ngạch công việc

Sau khi phân tích, đánh giá giá trị từng công việc, tiến hành nhóm các công việc có cùng chức năng và yêu cầu kiến thức, kỹ năng tương tự nhau. Mỗi nhóm công việc được quy định thành một ngạch công việc tùy theo tầm quan trọng của nhóm công việc theo trình tự phân ngạch công việc tiến hành theo các bước sau:

- Tập hợp các công việc riêng lẻ thành các nhóm công việc.

- Thiết lập các mức ngạch công việc và tiêu chuẩn phân ngạch.

- Quy định một ngạch công việc cho mỗi nhóm công việc.

* Thiết lập thang lương, bảng lương cho từng ngạch công việc

Thiết lập thang lương bảng lương trên cơ sở các thông tin thu thập được và các yếu tố ảnh hưởng đã xem xét, việc thiết lập thang lương, bảng lương được tiến hành theo trình tự sau:

- Xác định các ngạch lương trong doanh nghiệp thông qua việc lấy thông tin từ khâu phân ngạch công việc.

- Xác định số bậc lương trong mỗi ngạch căn cứ vào việc tính các điểm ưu thế theo kết quả làm việc và xem xét mức độ phức tạp cần có đối với thang lương, bảng lương.

- Quy định mức lương theo ngạch và theo bậc.

Khái niệm quỹ tiền lương

Quỹ tiền lương là tổng số tiền dùng để trả lương cho cán bộ công nhân viên chức do doanh nghiệp (cơ quan quản lý sử dụng) bao gồm:

- Tiền lương cấp bậc (còn được gọi là bộ phận tiền lương cơ bản hoặc tiền lương cố định).

- Tiền lương biến đổi: gồm tiền thưởng và các khoản phụ cấp như: phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp lưu động, phụ cấp độc hại...

Trong năm kế hoạch mỗi đơn vị phải lập ra quỹ tiền lương kế hoạch và cuối mỗi năm có tổng kết xem quỹ lương báo cáo đã thực chi hết bao nhiêu.

Quỹ lương kế hoạch là tổng số tiền lương dự tính theo cấp bậc mà doanh nghiệp, cơ quan dùng để trả lương cho công nhân viên chức theo số lượng và chất lượng lao động khi họ hoàn thành kế hoạch sản xuất trong điều kiện bình thường. Quỹ tiền lương kế hoạch là cơ sở để xây dựng đơn giá tiền lương.

Quỹ tiền lương báo cáo là tổng số tiền thực tế đã chi, trong đó có những khoản không được lập trong kế hoạch nhưng phải chi cho những thiếu sót trong tổ chức sản xuất, tổ chức lao động hoặc do điều kiện sản xuất không bình thường mà khi lập kế hoạch chưa tính đến.

Cách xác định quỹ tiền lương

* Xác định quỹ lương kế hoạch: quỹ lương kế hoạch được xác định theo công thức sau:

Trong đó:

VKH Tổng quỹ tiền lương năm kế hoạch

Lđb Lao động định biên: được tính trên cơ sở định mức lao động tổng hợp của sản phẩm dịch vụ hoặc sản phẩm dịch vụ quy đổi.

TLmin DN Mức lương tối thiểu điều chỉnh trong doanh nghiệp, do doanh nghiệp lựa chọn trong khu quy định

Hcb Hệ số cấp bậc công việc bình quân: được xác định căn cứ vào tổ chức sản xuất, tổ chức lao động, trình độ công nghệ, tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ và định mức lao động.

Hcp Hệ số các khoản phụ cấp lương bình quân được tính trong đơn giá tiền lương.

Vvc Quỹ tiền lương của bộ máy gián tiếp mà số lao động này chưa tính trong định mức lao động tổng hợp.

* Xác định quỹ lương báo cáo:

Quỹ lương báo cáo được xác định theo công thức:

Trong đó:

VBC Tổng quỹ tiền lương năm báo cáo

VDG­ Đơn giá tiền lương do cơ quan có thẩm quyền giao

CSXKD Chỉ tiêu sản xuất kinh doanh theo tổng sản phẩm hàng hóa thực hiện hoặc doanh thu

Vpc Quỹ các khoản phụ cấp lương và các chế độ khác không tính trong đơn giá theo quy định, tính theo số lao động thực tế được hưởng với từng chế độ.

VBS Quỹ tiền lương bổ sung, chỉ áp dụng với doanh nghiệp được giao đơn giá tiền lương theo đơn vị sản phẩm. Quỹ này gồm: quỹ tiền lương nghỉ phép hàng năm, nghỉ việc riêng, ngày lễ lớn, tết...

VTG Quỹ tiền lương làm thêm giờ được tính theo số thực tế làm thêm nhưng không vượt quá quy định của Bộ luật lao động.

Việc xác định đơn giá tiền lương được tiến hành theo các bước:

+ Xác định nhiệm vụ năm kế hoạch để xây dựng đơn giá, doanh nghiệp có thể chọn chỉ tiêu tổng sản phẩm, tổng doanh thu, tổng lợi nhuận...

- Xác định tổng quỹ lương kế hoạch.

- Xây dựng đơn giá (lựa chọn phương pháp)

Các phương pháp xây dựng đơn giá: (4 phương pháp):

+ Đơn giá tiền lương trên đơn vị sản phẩm

Vđg = Vgiờ x Tsp

Trong đó:

Vgiờ Tiền lương giờ

Tsp Mức lao động của đơn vị sản phẩm.

+ Đơn giá tính trên doanh thu

Vđg =

Trong đó:

VKH Quỹ tiền lương kế hoạch

DTKH Doanh thu kế hoạch

+ Đơn giá tính trên tổng thu trừ tổng chi

VĐG =

+ Đơn giá tính trên lợi nhuận.

VĐG =

Trong đó:

LNKH Lợi nhuận kế hoạch

Căn cứ theo 4 phương pháp xây dựng đơn giá tiền lương, cơ cấu tổ chức và đặc điểm riêng của từng đơn vị, doanh nghiệp tiến hành xây dựng đơn giá tiền lương theo quy định (Thông tư số 13/BLĐTB&XH ngày 10//1997). Các doanh nghiệp có các đơn vị hạch toán phụ thuộc thì xây dựng một đơn giá tiền lương tổng hợp, với doanh nghiệp gồm cả thành viên hạch toán độc lập và hạch toán phụ thuộc thì một hay nhiều đơn giá tùy thuộc vào loại hình sản phẩm dịch vụ là có thể quy đổi được hay không.

Các hình thức trả lương được thực hiện thông qua các chế độ tiền lương. Hiện nay ở nước ta có 2 loại chế độ tiền lương là chế độ tiền lương cấp bậc và chế độ tiền lương chức vụ. Chế độ tiền lương cấp bậc là quy định của Nhà nước mà doanh nghiệp áp dụng trả cho người lao động theo chất lượng và điều kiện lao động khi họ hoàn thành một công việc nào đó. Trong chế độ tiền lương cấp bậc bao gồm thang lương, bảng lương, hệ số lương và mức lương.

Chế độ trả lương theo chức vụ là những quy định của Nhà nước áp dụng để trả lương cho cán bộ và nhân viên thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.

Dựa trên những chế độ trả lương đó có các hình thức trả lương sau:

Hình thức trả lương theo thời gian

Tiền lương trả theo thời gian chủ yếu áp dụng đối với người làm công tác quản lý, còn đối với công nhân sản xuất chỉ áp dụng ở những bộ phận lao động bằng máy móc thiết bị là chủ yếu hoặc những công việc không thể tiến hành định mức một cách chặt chẽ và chính xác hoặc vì tính chất của sản phẩm sẽ không đảm bảo được chất lượng của sản phẩm, sẽ không đem lại hiệu quả thiết thực.

Hình thức trả lương theo thời gian gồm 2 chế độ:

- Chế độ trả lương theo thời gian giản đơn

Chế độ trả lương theo thời gian giản đơn là chế độ trả lương mà tiền lương nhận được của mỗi công nhân do mức lương cao hay thấp và thời gian thực tế làm việc nhiều hay ít quyết định. Chế độ trả lương này áp dụng ở những nơi khó xác định mức lao động chính xác, khó đánh giá công việc chính xác.

Công thức tính như sau:

LTT = LCB x T

Trong đó:

LTT Lương thực tế người lao động nhận được.

LCB Lương cấp bậc tính theo thời gian

T Thời gian lao động thực tế

Có 3 loại lương theo thời gian giản đơn là:

- Lương giờ: Tính theo mức lương cấp bậc giờ và số giờ làm việc.

- Lương ngày: Tính theo mức lương cấp bậc ngày và số ngày làm việc thực tế trong tháng.

- Lương tháng: tính theo mức lương cấp bậc tháng.

Chế độ tiền lương này có nhiều hạn chế vì tiền lương không gắn với kết quả lao động, nó mang tính chất bình quân, không khuyến khích sử dụng hợp lý thời gian làm việc, tiết kiệm nguyên vật liệu, tập trung công suất của máy móc thiết bị để tăng năng suất lao động.

- Chế độ trả lương theo thời gian có thưởng

Chế độ trả lương này là sự kết hợp giữa chế độ trả lương theo thời gian và tiền thưởng khi đạt được những chỉ tiêu về số lượng và chất lượng đã quy định. Chế độ trả lương này thường được áp dụng đối với công nhân hụ làm công việc phục vụ như công nhân sửa chữa, điều chỉnh thiết bị... Ngoài ra, còn áp dụng đối với những công nhân chính làm việc ở những khâu sản xuất có trình độ cơ khí hóa, tự động hóa cao hoặc những công việc tuyệt đối phải đảm bảo chất lượng.

Tiền lương của công nhân được tính bằng cách lấy lương theo thời gian đơn giản (mức lương cấp bậc) nhân với thời gian làm việc thực tế sau đó cộng với tiền thưởng.

Hình thức trả lương theo sản phẩm

So với hình thức trả lương theo thời gian thì hình thức trả lương theo sản phẩm ngày càng chiếm được ưu thế và sử dụng rộng rãi với nhiều chế độ linh hoạt bởi vì nó mang lại hiệu quả cao hơn trong sản xuất kinh doanh.

Trả lương theo sản phẩm là hình thức trả lương cho người lao động dựa trực tiếp vào số lượng và chất lượng sản phẩm (hay dịch vụ) mà họ đã hoàn thành. Đây là hình thức trả lương được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp sản xuất chế tạo sản phẩm.

Hình thức này có những ưu điểm và ý nghĩa sau:

- Quán triệt tốt nguyên tắc trả lương theo lao động vì tiền lương mà người lao động nhận được phụ thuộc vào số lượng và chất lượng sản phẩm đã hoàn thành. Điều này sẽ tác dụng làm tăng năng suất lao động của người lao động.

- Trả lương theo sản phẩm có tác dụng trực tiếp khuyến khích người lao động ra sức học tập, nâng cao trình độ lành nghề, tích lũy kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng, phát huy sáng tạo để nâng cao khả năng làm việc và năng suất lao động.

- Trả lương theo sản phẩm còn có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao và hoàn thiện công tác quản lý, nâng cao tính tự chủ, chủ động trong làm việc của người lao động.

Để hình thức trả lương theo sản phẩm thực sự phát huy tác dụng của nó, các doanh nghiệp cần phải đảm bảo được các nguyên tắc sau đây:

+ Phải xây dựng các định mức lao động có căn cứ khoa học.

+ Đảm bảo phục vụ tốt nơi làm việc.

+ Giáo dục tốt ý thức và trách nhiệm của người lao động.

Tiền lương trả theo sản phẩm là một hình thức cơ bản đang được áp dụng trong các khu vực sản xuất vật chất hiện nay. Việc tính lương cho người lao động được căn cứ vào đơn giá, số lượng, chất lượng sản phẩm.

LSP = ĐG x MH

Trong đó:

LSP Lương trả theo sản phẩm

ĐG Đơn giá sản phẩm

MH Số lượng sản phẩm thực tế sản xuất trong kỳ

So với hình thức trả lương theo thời gian thì hình thức trả lương theo sản phẩm có ưu điểm hơn hẳn. Quán triệt đầy đủ nguyên tắc trả lương theo số lượng và chất lượng lao động, gắn tiền lương với kết quả sản xuất kinh doanh của mỗi người. Do vậy, kích thích người lao động nâng cao chất lượng lao động, khuyến khích họ học tập về văn hóa, kỹ thuật, nghiệp vụ để nâng cao trình độ lành nghề của mình. Trả lương theo sản phẩm giúp cho cán bộ quản lý công nhân và kết quả sản xuất kinh doanh dễ dàng hơn, góp phần thúc đẩy công tác quản lý, rèn luyện đội ngũ lao động có tác phong làm việc tốt.

Dưới đây là các chế độ trả lương của hình thức trả lương theo sản phẩm:

* Chế độ trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân.

Chế độ trả lương này được áp dụng khi người lao động làm việc mang tính chất tương đối độc lập, có thể định mức và kiểm tra nghiệm thu sản phẩm một cách cụ thể và riêng biệt. Tiền công của người lao động được tính theo công thức sau:

ĐG = hoặc ĐG = L x T

Trong đó:

ĐG Đơn giá sản phẩm

L Lương theo cấp bậc công việc

Q Mức sản lượng

T Mức thời gian

Tiền công công nhân nhận được là:

Ltt = ĐG x Qtt

Trong đó:

Ltt Tiền lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân

ĐG Đơn giá tiền lương một đơn vị sản phẩm

Qtt Số sản phẩm công nhân đó làm ra

Ưu điểm:

- Dễ dàng tính được tiền lương trực tiếp trong kỳ.

- Khuyến khích công nhân tích cực làm việc để nâng cao năng suất lao động, tăng tiền lương một cách trực tiếp.

- Trả lương theo chế độ này thể hiện được rõ mối quan hệ giữa tiền công và kết quả lao động.

Nhược điểm:

- Dễ làm, công nhân chỉ quan tâm đến số lượng mà ít chú ý đến chất lượng của sản phẩm.

- Nếu không có thái độ và ý thức làm việc tốt, người lao động sẽ ít quan tâm đến tiết kiệm vật tư, nguyên liệu hay sử dụng hiệu quả máy móc thiết bị.

* Chế độ trả lương theo sản phẩm tập thể

Chế độ này áp dụng đối với những công việc cần một tập thể công nhân cùng thực hiện.

Đơn giá tiền lương tính theo công thức sau:

ĐG =

Trong đó:

ĐG Đơn giá tính theo sản phẩm tập thể

L Tổng số tiền lương tính theo cấp bậc công việc

Q Mức sản lượng

T Mức thời gian

Tổng số tiền lương của cả nhóm là:

Ltt = ĐG x Qtt

Trong đó:

Ltt Tiền lương sản phẩm tập thể của cả tổ, nhóm

ĐG Đơn giá một đơn vị sản phẩm tính theo tập thể

Qtt Số sản phẩm của cả tổ, nhóm trong tháng.

Ưu điểm:

Khuyến khích công nhân trong tổ, nhóm nâng cao trách nhiệm trước tập thể, quan tâm đến kết quả cuối cùng của cả tổ.

Nhược điểm:

Sản lượng của mỗi công nhân không trực tiếp quyết định tiền lương của họ, do đó không khuyến khích nâng cao năng suất cá nhân. Mặt khác do phân phối tiền lương chưa tính đến tình hình thực tế của công nhân về sức khỏe, thái độ lao động... nên chưa thực hiện đầy đủ theo nguyên tắc phân phối theo số lượng và chất lượng lao động.

* Chế độ trả lương theo sản phẩm gián tiếp

Chế độ này thường áp dụng đối với công nhân phụ mà công việc của họ ảnh hưởng nhiều đến kết quả sản xuất của những công việc chính hưởng lương theo sản phẩm.

Đơn giá được xác định theo công thức sau:

ĐG =

Trong đó:

M Mức phục vụ của công nhân

ĐG Đơn giá tính theo sản phẩm gián tiếp

L Lương cấp bậc của công nhân phụ

Q Mức sản lượng của công nhân chính.

Thu nhập của công nhân hưởng lương theo sản phẩm gián tiếp được tính như sau:

Lgt = ĐG x Q

Trong đó:

Lgt Lương của công nhân hưởng theo lương sản phẩm gián tiếp.

ĐG Đơn giá tính theo sản phẩm gián tiếp

Q Số sản phẩm mà công nhân chính sản xuất được.

Tiền lương của công nhân phụ cũng có thể tính bằng cách lấy % hoàn thành vượt mức sản lượng của công nhân chính với cấp bậc của công nhân phụ.

Ưu điểm:

Do tiền lương của công nhân phụ lệ thuộc vào mức năng suất của các công nhân chính mà người đó phục vụ, do đó đòi hỏi công nhân phụ phải có trách nhiệm và tìm cách phục vụ tốt cho công nhân chính hoàn thành nhiệm vụ.

Nhược điểm:

Tiền lương của công nhân phụ phụ thuộc vào sản lượng của công nhân chính nên nó phụ thuộc vào trình độ lành nghề, thái độ làm việc của công nhân chính. Vì vậy chế độ tiền lương này không đánh giá chính xác năng lực của công nhân phụ.

* Chế độ lương khoán

Chế độ tiền lương này áp dụng cho những công việc nếu làm riêng từng chi tiết, từng bộ phận công việc theo thời gian thì không có lợi về mặt kinh tế và thời gian không đảm bảo, đồng thời công việc đòi hỏi một tập hợp nhiều loại công việc khác nhau theo yêu cầu hoàn thành đúng thời hạn. Chế độ trả lương này áp dụng chủ yếu trong xây dựng cơ bản và một số công việc trong nông nghiệp. Đơn giá khoán có thể tính theo đơn vị công việc cần hoàn thành hoặc theo cả khối lượng hay công trình.

Ưu điểm:

Người công nhân biết trước được số tiền sẽ nhận được khi hoàn thành công việc, hoàn thành công việc trước thời hạn.

Nhược điểm:

Phải tính toán đơn giá hết sức chặt chẽ và tỉ mỉ để xây dựng đơn giá trả lương chính xác cho công nhân.

* Chế độ trả lương theo sản phẩm có thưởng

Thực chất của chế độ trả lương này là kết hợp giữa chế độ trả lương kể trên với các hình thức tiền thưởng. Khi áp dụng chế độ này, phần tiền lương được tính theo đơn giá cố định còn tiền thưởng sẽ căn cứ vào mức độ hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu về măt số lượng công việc.

Tiền lương trả theo chế độ này được tính theo công thức:

LTH = L +

Trong đó:

LTH Lương trả theo sản phẩm có thưởng

L Tiền lương trả theo sản phẩm với đơn giá cố định.

m % tiền thưởng cho 1% hoàn thành vượt mức chỉ tiêu thưởng

h % hoàn thành vượt mức chỉ tiêu thưởng

Yêu cầu cơ bản khi áp dụng chế độ trả lương này là phải quy định đúng các chỉ tiêu, điều kiện thưởng, tỷ lệ thưởng bình quân.

Ưu điểm:

Khuyến khích người lao động hoàn thành được mức chỉ tiêu được giao.

Nhược điểm:

Việc xác định tỷ lệ thưởng tương đối phức tạp.

* Chế độ tiền lương theo sản phẩm lũy tiến

Chế độ này được áp dụng ở những khâu trọng yếu trong sản xuất bởi vì giải quyết được công việc ở khâu này sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất ở những khâu khác có liên quan, góp phần hoàn thành vượt mức kế hoạch của doanh nghiệp.

Với chế độ này những sản phẩm nằm trong mức quy định được trả theo đơn giá cố định, những sản phẩm vượt mức được tính theo đơn giá lũy tiến. Đơn giá lũy tiến được tính dựa vào đơn giá cố định và có tính đến tỷ lệ tăng đơn giá. Công thức tính tỷ lệ tăng đơn giá được xác định theo công thức sau:

K = x 100

Trong đó:

K Tỷ lệ đơn giá hợp lý

DCD Tỷ trọng chi phí sản xuất gián tiếp cố định trong giá thành SP

TC Tỷ lệ về số tiền tiết kiệm về chi phí sản xuất gián tiếp dùng để tăng đơn giá.

D1 Tỷ trọng của tiền công công nhân sản xuất trong giá thành sản phẩm khi hoàn thành vượt mức 100%

Tiền lương của công nhân được tính theo công thức sau:

Trong đó:

L Tổng số tiền lương công nhân được hưởng lương theo sản phẩm lũy tiến

Q1 Sản lượng thực tế

Q0 Sản lượng đạt mức khởi điểm

P Đơn giá cố định tính theo sản phẩm

K Tỷ lệ đơn giá sản phẩm được nâng cao

Ưu điểm:

Hình thức trả lương này có tác dụng khuyến khích người lao động nhanh chóng hoàn thành vượt mức sản lượng, góp phần thúc đẩy sản xuất ở những khâu khác.

Nhược điểm:

Làm cho tốc độ tăng tiền lương bình quân nhanh hơn tốc độ tăng năng suất lao động bình quân, làm ảnh hưởng đến việc tái sản xuất và tích lũy của các doanh nghiệp.

*Trả thưởng:

Tiền thưởng thực chất là khoản tiền bổ sung cho tiền lương, là một trong những biện pháp khuyến khích người lao động tích cực và hoàn thành tốt công việc. Có nhiều hình thức thưởng nhưng thông thường người ta áp dụng các hình thức sau: thưởng hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất, thưởng tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, thưởng những sáng kiến cải tiến kỹ thuật…

-Thưởng hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất

Chỉ tiêu thưởng: thưởng hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất và đảm bảo chỉ tiêu về số lượng, chủng loại , chất lượng sản phẩm…theo quy định.

Điều kiện thưởng: đảm bảo mức độ hoàn thành vượt mức kế hoạch cả về số lượng lẫn chất lượng sản phẩm.

Nguồn tiền thưởng: là bộ phận tiết kiệm được từ chi phí sản xuất gián tiếp cố định ( đó là những chi phí không thay đổi khi sản phẩm tăng lên). Chi phí sản xuất gián tiếp cố định tính cho từng đơn vị sản phẩm giảm đi, do đó thu được một bộ phận tiết kiệm chi phí sản xuất gián tiếp cố định.

-Thưởng tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu:

Chỉ tiêu thưởng: hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu về tiết kiệm vật tư.

Điều kiện thưởng: tiết kiệm vật tư nhưng phải đảm bảo quy phạm kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, an toàn lao động. Làm tốt công tác thống kê, hoạch toán số lượng và giá trị vật tư tiết kiệm được.

Nguồn tiền thưởng: được lấy từ nhiên , nguyên vật liệu tiết kiệm được tích một phần, phần còn lại dùng để hạ giá thành sản phẩm.

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, ngoài các hình thức tiền thưởng trên còn có một số hình thức được áp dụng như: thưởng độ xuất, thưởng công ty…

* Quỹ bảo hiểm xã hội(BHXH)

Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành do việc trích lập theo tỷ lệ quy định trên tiền lương phải trả công nhân viên trong kỳ. Theo chế độ hiện hành, hàng tháng doanh nghiệp tiến hành trích lập quỹ BHXH theo tỷ lệ 20% trên tổng lương thực tế phải trả công nhân trong tháng. Trong đó 15% tính vào chi phí sản xuất kinh doanh của các đối tượng sử dụng lao động, 5% trừ vào lương của người lao động.

Quỹ BHXH được trích lập nhằm trợ cấp công nhân viên có tham gia đóng góp quỹ trong trường hợp họ bọ mất khả năng lao động, cụ thể:

-Trợ cấp nhân viên ốm đau, thai sản.

-Trợ cấp công nhân viên khi bị tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp.

-Trợ cấp công nhân viên khi về hưu, mất sức lao động.

-Trợ cấp công nhân viên về khoản tiền tuất.

-Chi công tác quản lý quỹ BHXH.

Toàn bộ số trích BHXH được nộp lên cơ quan quản lý quỹ BHXH để chi trả các trường hợp nghỉ hưu nghỉ mất sức lao động ở tại doanh nghiệp, hàng tháng doanh nghiệp trức tiếp chi trả quỹ BHXH cho công nhân viên bị ốm đau, thai sản…trên cơ sở các chứng từ hợp lệ. Cuối tháng (quý) doanh nghiệp phải thanh toán với cơ quan quản lý quỹ BHXH.

* Quỹ bảo hiểm y tế (BHYT)

Quỹ BHYT được hình thành từ việc trích lập theo tỷ lệ quy định trên tiền lương phải trả công nhân viên trong kỳ. Theo chế độ hiện hành, doanh nghiệp trích quỹ BHYT theo tỷ lệ 3% trên tổng số tiền lương thức tế phải trả công nhân viên trong tháng. Trong đó 2% tính vào chi phí sản xuất kinh doanh của các đối tượng sử dụng lao động, 1% trừ vào lương của người lao động.

Quỹ BHYT được trích lập để tài trợ cho người lao động có tham gia đóng quỹ trong các hoạt động khám, chữa bệnh. Toàn bộ quỹ BHYT được nộp lên cơ quan chuyên môn chuyên trách để quản lý và trợ cấp cho người lao động thông qua mạng lưới y tế.

* Kinh phí công đoàn

Được hình thành từ việc trích lập theo tỷ lệ quy định trên tiền lương phải trả công nhân viên trong kỳ. Hàng tháng doanh nghiệp trích 2% trên tổng số tiền lương thức tế phải trả công nhân viên trong tháng và tính hết vào chi phí sản xuất kinh doanh của các đối tượng sử dụng lao động.

Toàn bộ kinh phí công đoàn trích một phần nộp lên cơ quan công đoàn cấp trên, một phần để lại doanh nghệp để chi tiêu cho hoạt động công đoàn tại doanh nghiệp.

Kinh phí công đoàn được trích lập để chi tiêu phục vụ cho hoạt động của tổ chức công đoàn nhằm chăm lo, bảo vệ quyền lợi cho người lao động.

Xét theo yêu cầu của tổ chức tiền lương thì tiền lương và tiền công phải bảo đảm tái sản xuất, không ngừng nâng cao đời sống vật chất cho người lao động, tiền lương phải kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động.Tiền lương là thước đo sự cống hiến của người lao động. Vì vậy việc trả lương phải bảo đảm sự công bằng hợp lý giữa những người lao động, phải bảo đảm tính đơn giản, rõ ràng, dễ hiệu. Để làm được việc đó thì các doanh nghiệp đều phải trả lương cho công nhân dựa vào kết quả sản xuất kinh doanh của mình và phải dựa vào các chính sách tiền lương và tiền công trong doanh nghiệp được đưa vào áp dụng trong doanh nghiệp. Tiếp đó người quản lý phải xem xét sự biến động, sự phản hồi từ phía những người hưởng lương, hưởng công của doanh nghiệp thì mới biết được hệ thống tiền lương và tiền công đó có hợp lý không, có thật sự thúc đẩy được người lao động làm việc đưa doanh nghiệp phát triển lên hay không.

Việc áp dụng các hình thức trả lương, trả công phải quán triệt nguyên tắc trả theo số lượng và chất lượng lao động, phải khuyến khích người lao động ra sức học hỏi nâng cao trình độ lành nghề. Vì vậy để khai thác được mọi khả năng phục vụ cho sản xuất và áp dụng đúng các hình thức trả lương trả công cũng như yêu cầu của hình thức thì cần phải hoàn thiện hình thức trả lương trả thưởng và quản lý lương sao cho thật tốt. Người quản lý phải luôn theo dõi tình hình làm việc của công nhân, năng suất lao động của người lao động tăng hay giảm, tinh thần làm việc ra sao, có những khiếu nại gì về lương hay không. Về các biểu hiện trên là tốt thì chính sách tiền lương đã có lợi cho người lao động. Ngược lại, nếu có biểu hiện chưa tốt thì buộc người quản lý phải rà soát lại quá trình thiết lập thang lương, bảng lương của Công ty mình. Xem lại quy trình xác định tiền lương cho mỗi công việc có thống nhất không, việc phân tích giá trị công việc có đầy đủ và chính xác không, tiền lương và giá trị công việc có gắn liền với nhau một cách đầy đủ không. Mỗi vị trí thang lương có dựa trên khả năng và kinh nghiệm của nhân viên hay không, mức lương có công bằng không, mức lương của công ty mình so với các công ty khác cùng ngành có chênh lệch quá hay không.

Mục tiêu của tất cả các doanh nghiệp là phấn đấu đạt hiệu quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh. Việc trả lương, trả công tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Vì vậy nhà quản lý cần phải biết hệ thống tiền lương và tiền công của công ty mình có đáp ứng được nhu cầu của môi trường hiện tại hoặc kế hoạch tương lai của doanh nghiệp không, tổng quỹ lương là bao nhiêu, có công việc nào được trả lương quá cao hoặc quá thấp không, công việc nào chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng quỹ lương và tốc độ tăng lương so với tốc độ tăng năng suất lao động ra sao.Việc trả lương xứng đáng cho người lao động sẽ khuyến khích họ làm việc, tạo niềm tin cho bản thân họ, làm cho họ hết lòng vì công việc, tạo điều kiện cho họ tự khẳng định năng lực cá nhân của mình. Mặt khác nó sẽ nâng cao uy tín, củng cố vị trí của công ty trên thương trường , giúp công ty tồn tại và phát triển vững chắc trong xã hội cạnh tranh đầy gay go và quyết liệt.

0