25/05/2018, 10:01

Thiết lập mối liên hệ giữa cha mẹ và con

Quan hệ cha mẹ-con là mối liên hệ pháp lý giữa một người (gọi là con) và một người khác (gọi là cha hoặc mẹ): tùy theo người khác đó là nam hay nữ quan hệ được thiết lập là quan hệ cha-con hoặc quan hệ mẹ-con. Quan hệ cha mẹ-con có thể được ...

Quan hệ cha mẹ-con là mối liên hệ pháp lý giữa một người (gọi là con) và một người khác (gọi là cha hoặc mẹ): tùy theo người khác đó là nam hay nữ quan hệ được thiết lập là quan hệ cha-con hoặc quan hệ mẹ-con. Quan hệ cha mẹ-con có thể được xác lập một cách tự nhiện từ sự kiện thành thai và sinh nở (gọi là quan hệ cha mẹ-con ruột) hoặc một cách nhân tạo từ việc nhận con nuôi.

Đặt vấn đề.

Việc làm rõ quan hệ cha mẹ-con ruột không chỉ cần thiết trong trường hợp có tranh cãi về tư cách cha, mẹ, con của một người, khi thẩm phán, theo yêu cầu, phải có trách nhiệm thẩm định các bằng chứng chống lại nhau. Một người nào đó đến cơ quan công chứng và tự xưng rằng mình là con ruột của một người đã chết và di sản đang được thanh toán; cơ quan công chứng phải kiểm tra tư cách “con” của người tự xưng đó trước khi người này tham gia vào việc chuyển giao và thanh toán di sản. Một người chưa thành niên chưa đủ 15 tuổi có hành vi gây thiệt hại cho một người khác; Toà án gọi cha của người gây thiệt hại ra Toà để giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại; một trong những điều kiện để phiên Toà diễn tiến bình thường là người được gọi ra Toà phải thực sự là cha của người gây thiệt hại...

Các cách thức xác định quan hệ cha mẹ-con ruột, tùy theo tính chất, có thể được xếp vào hai nhóm chính: xác định quan hệ cha mẹ-con như là quan hệ tự nhiên và xác định quan hệ cha mẹ-con như là quan hệ pháp lý.

Xác định quan hệ cha mẹ-con như là quan hệ tự nhiên

Tạm gọi là có tính chất tự nhiên, quan hệ cha mẹ-con ràng buộc những người có liên quan một cách tự nhiên và được người thứ ba nhìn nhận mà không cần sự can thiệp của luật, không cần dựa vào các quy tắc pháp lý. Với tính cách là quan hệ tự nhiên, quan hệ cha mẹ-con có thể được xác định dựa vào một trong hai yếu tố hoặc cả hai yếu tố: sinh học và xã hội học.

Yếu tố sinh học

Thành thai và sinh sản.

Con ruột của cha và mẹ là con do người mẹ sinh ra từ một bào thai do người mẹ cưu mang và bào thai đó là kết quả của sự phối hợp xác thịt của cha và mẹ. Đối với người mẹ, yếu tố sinh học được xây dựng quanh sự kiện sinh sản: người phụ nữ sinh ra đứa trẻ là mẹ của đứa trẻ ấy. Đối với người cha, yếu tố sinh học lại được xây dựng quanh sự kiện thành thai: người có quan hệ xác thịt với người phụ nữ và dẫn đến việc người sau này mang thai là cha của đứa trẻ sinh ra từ bào thai ấy. Giả sử ngày sinh của con được xác định; làm thế nào để xác định ngày thành thai của con? Luật viết chưa trả lời câu hỏi này. Trước khi có Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, một số văn bản lập quy của cơ quan hành chính hoặc cơ quan xét xử có ghi nhận các quy tắc về việc suy đoán khoảng thời gian mà trong khoảng thời gian đó ngườìi phụ nữ có thể mang thai. Các quy tắc ấy không giống nhau ( Ví dụ. Thông tư số 733/BYT/TT nói rằng thời gian mang thai của người phụ nữ dài nhất là 285 ngày, ngắn nhâtú là 200 ngày. Thông tư số 15/DS ngày 27/9/1974 của Toà án nhân dân tối cao lại cho rằng thời gian mang thai dài nhất là 300 ngày và ngắn nhất là 180 ngày) và hầu như không được áp dụng một cách phổ biến trong thực tiễn.

Trường hợp sinh sản nhân tạo.

Nghị định số 12-CP ngày 12/02/2003 về sinh con theo phương pháp khoa học chỉ ghi nhận trường hợp người vợ mang thai, nhưng bào thai là kết quả của sự phối hợp giữa trứng và tinh trùng của người khác hoặc trứng của người vợ và tinh trùng của người khác. Theo Điều 20 khoản 2 của Nghị định thì con được sinh ra trong trường hợp này coi như có cha và mẹ ruột là người chồng và người vợ đó. Tất nhiên, lai lịch của người cung cấp yếu tố vật chất bổ khuyết không được công bố cho vợ và chồng biết, cũng như bản thân người cung cấp yếu tố vật chất bổ khuyết không biết lai lịch của vợ và chồng muốn có con bằng con đường thụ tinh nhân tạo.

Nếu sự thụ tinh là kết quả sự phối hợp giữa các yếu tố vật chất của vợ và chồng, nhưng việc mang thai lại do một người phụ nữ khác thực hiện, thì thực tiễn có xu hướng thừa nhận rằng trẻ sinh ra có cha và mẹ là chồng và vợ đó, người mang thai hộ chỉ đóng vai trò người hỗ trợ cần thiết cho sự ra đời của trẻ ấy.

Yếu tố xã hội học

Cha, mẹ, con trước hết là những quan hệ xã hội.

Giả thiết được hình dung như sau: một người thứ ba đứng trước hai người - A và B. A giới thiệu với người thứ ba rằng B là con ruột của mình. Người thứ ba ghi nhận sự tồn tại của mối quan hệ cha-con giữa hai người đối diện không chỉ thông qua lời giới thiệu mà còn qua thái độ cư xử của hai người đối với nhau. Ta nói rằng sự tồn tại của quan hệ cha mẹ-con được xác định nhờ những biểu hiện bên ngoài của mối quan hệ ấy, được người thứ ba ghi nhận. Một người mang thân phận “con” là người sống và cư xử theo những chuẩn mực tương ứng với thân phận ấy, do xã hội đặt ra, với điều kiện người được cư xử như cha (mẹ) có phản ứng thuận lợi khi được cư xử như thế. Ta nói rằng quan hệ cha mẹ-con được ghi nhận nhờ sự bộc lộ yếu tố xã hội học của quan hệ ấy.

Một cách tổng quát, quan hệ cha mẹ-con được xác định về phương diện xã hội, như là kết quả của sự hội tụ của ba yếu tố nhỏ: danh xưng, thái độ và dư luận.

Danh xưng. Con của một người mang họ của người đó. Thông thường, con sinh ra từ quan hệ hôn nhân mang họ cha; con sinh ra từ quan hệ chung sống như vợ chồng cũng thường mang họ cha. Cá biệt, có trường hợp những người có quan hệ hôn nhân hợp pháp hoặc chung sống như vợ chồng chấp nhận tập tục của cộng đồng dân tộc ít người mà họ có xuất xứ, theo đó, con sinh ra phải mang họ mẹ. Con của một người phụ nữ độc thân thường mang họ của chính người phụ nữ đó. Bằng chứng về việc mang họ có thể là giấy khai sinh hoặc bất kỳ giấy tờ gì khác được thiết lập một cách chính thức (chứng minh thư, hộ chiếu, sổ hộ khẩu, thậm chí lý lịch có xác nhận, bằng cấp, chứng chỉ,...).

Thái độ. Việc cha, mẹ cư xử với tư cách đó trong quan hệ với con thể hiện một cách chung nhất qua việc cha mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục, gây dựng tương lai của con. Việc con cư xử với tư cách đó trong quan hệ với cha mẹ thể hiện một cách chung nhất qua việc con tỏ ra kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng, tuân theo lời khuyên của cha mẹ. Khác với khá nhiều thứ tiếng, tiếng Việt có các từ dùng để xưng hô cho phép người thứ ba nhận biết được quan hệ cha-con, mẹ-con giữa các đương sự.

Dư luận. Thái độ xử sự của người thứ ba cũng có tác dụng làm rõ mối quan hệ cha mẹ-con của các đương sự: ông bà gọi cha mẹ đến để góp ý về cách giáo dục con; nhà trường gọi cha mẹ đến để họp bàn về việc học của con; Toà án triệu tập cha mẹ đến để tham gia vào vụ án huỷ hoại tài sản của người khác mà con chưa thành niên là thủ phạm;... Trong tất cả những trường hợp đó, người thứ ba cũng như quyền lực công cộng thừa nhận tư cách của người tự xưng là cha hoặc mẹ chỉ trên cơ sở ghi nhận sự hội tụ của những yếu tố xã hội học đặc trưng của quan hệ ấy giữa các đương sự. Người thứ ba cũng như quyền lực công cộng trong các trường hợp ấy không bao giờ yêu cầu cha mẹ xuất trình bằng chứng đặc thù về quan hệ cha mẹ-con.

Xác lập yếu tố xã hội học.

Thực ra, yếu tố xã hội học có thành phần cấu tạo rất phức tạp chứ không chỉ gồm có ba yếu tố nhỏ trên: trao đổi thư từ, giữ gìn những kỷ vật,... cũng có thể được coi là biểu hiện của yếu tố xã hội học. Hơn nữa, sự hội tụ của tất cả các yếu tố nhỏ ấy không phải là điều kiện bắt buộc cho sự thành lập hoàn chỉnh yếu tố xã hội học. Nói chung, có thể thừa nhận rằng gọi là có yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con một khi có đủ các dấu hiệu cho người thứ ba thấy sự hiện diện của mối quan hệ đó như là một thành phần của tổng hoà các mối quan hệ của gia đình mà các đương sự là thành viên. Vậy cũng có nghĩa rằng thái độ cư xử giữa các đương sự là thành phần chính của yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con.

Liên tục, chắc chắn và không mập mờ.

Yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con phải được ghi nhận một cách rõ nét và liên tục trong thời gian. Đó là một cách (một thái độ) sống nhất quán và được ghi nhận như một phần tiểu sử của một con người xem xét ở góc độ quan hệ gia đình. Tuy nhiên, sự liên tục của yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con không nhất thiết là sự liên tục theo nghĩa đen: hàng ngày, hàng giờ, thậm chí hàng giây, hai người gọi là cha và con phải biểu lộ mối quan hệ cha-con của họ trước người thứ ba. Thông thường những người cư xử với nhau như cha-con, mẹ-con sống chung với nhau dưới cùng một mái nhà, nhất là chừng nào người được gọi là con chưa đến tuổi thành niên. Nhưng đó không phải là điều kiện bắt buộc cho sự hình thành và duy trì quan hệ cha mẹ-con về mặt xã hội. Trong nhiều trường hợp, sự quan tâm của một người cha và thái độ tích cực của một người con trong việc tiếp nhận sự quan tâm đó, được bộc lộ ở một thời điểm nhất định, cũng đủ để nuôi dưỡng mối quan hệ giữa hai người và khiến cho yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con được ghi nhận.

Xác định quan hệ cha mẹ-con như là quan hệ pháp lý

Truy tầm sự thật sinh học.

Việc xác định quan hệ cha mẹ-con về phương diện pháp lý chịu sự chi phối của những quy tắc đặc thù, được xây dựng tùy theo việc xác định được thực hiện trong hay ngoài thủ tục tư pháp. Các yếu tố đặt cơ sở cho việc thiết lập quan hệ tự nhiên giữa cha mẹ và con được pháp lý hoá và trở thành chất liệu chính xây dựng chứng cứ của quan hệ cha mẹ-con. Tiêu chí đánh giá chứng cứ là sự phù hợp giữa chứng cứ và sự thật; và, không kể các trường hợp sinh sản nhân tạo hoặc vô tính, nội dung của sự thật về quan hệ cha mẹ-con chỉ có thể là: một người sinh ra từ sự phối hợp xác thịt giữa một người đàn ông và một người đàn bà, thì là con ruột của hai người này. Ta gọi đó là sự thật sinh học. Một cách duy lý, sự thật sinh học phải dựa trên các yếu tố sinh học - có quan hệ xác thịt, có sự thành thai như là hệ quả của quan hệ xác thịt đó và có sự sinh sản từ sự thành thai đó. Tuy nhiên, trên thực tế sự việc lại rất không đơn giản: sự thật sinh học về quan hệ cha mẹ-con như là quan hệ pháp lý phải được xây dựng từ kết quả sự phối hợp giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội học của sự thật đó. Yếu tố xã hội học đóng vai trò bổ sung trong điều kiện yếu tố sinh học thường bị che lấp bởi tính chất không công khai (và không thể công khai) của quan hệ xác thịt.

Cách chứng minh chung

Chứng minh bằng giấy khai sinh

Khái niệm. Giấy khai sinh là chứng thư hộ tịch được lập nhằm ghi nhận các yếu tố đặc trưng của sự kiện một người nào đó, xác định, được sinh ra. Trong đa số trường hợp, trên giấy khai sinh, tên họ của cha và mẹ được ghi nhận.

Giá trị chứng minh của giấy khai sinh đối với quan hệ cha mẹ-con ruột. Từ lâu, thực tiễn dân gian vẫn thừa nhận việc sử dụng giấy khai sinh để chứng minh quan hệ cha mẹ-con trong nhiều trường hợp. Trong suy nghĩ lành mạnh phù hợp với tâm lý của dân cư, giấy khai sinh là bằng chứng về việc có một người được sinh ra vào ngày tháng năm được ghi nhận trên giấy đó; người này có cha và mẹ lần lượt được ghi tên ở các mục tương ứng trong giấy khai sinh. Ngay cả trong trường hợp những người được khai là cha và mẹ của đứa trẻ không có đăng ký kết hôn hợp lệ, thì tư cách cha và mẹ cũng có thể được chứng minh bằng cách dựa vào các chi tiết được ghi nhận trên giấy khai sinh. Điều gần như chắc chắn: giấy khai sinh là bằng chứng về việc người mẹ có sinh con. Ta nói “gần như chắc chắn”, bởi không loại trừ khả năng con bị đánh tráo với một trẻ khác.

Song, dù trong trường hợp nào, giấy khai sinh tự nó không phải là bằng chứng độc lập về sự tồn tại của quan hệ cha mẹ-con. Bởi vậy, đáng lý ra một người “bị” khai là cha (mẹ) của một đứa trẻ, theo giấy khai sinh, dù không biết đứa trẻ đó là ai, không chỉ vì có lời khai đó mà ở trong tình trạng “được nhận là cha (mẹ) của một người” theo nghĩa của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 64 và do đó, không cần phải kiện ra Toà án để xin xác định người được khai sinh không phải là con mình ( Đúng là sẽ rất phiền cho một người nào đó, không có quan hệ vợ chồng hoặc quan hệ chung sống như vợ chồng với người mẹ, lại được khai là cha của đứa trẻ được sinh ra, dù không muốn. Cho đến nay, nhờ có ý thức xã hội (đặc biệt là ý thức tự trọng của người mẹ) mà người không phải là cha của một đứa trẻ thường không được khai là cha của đứa trẻ ấy. Nhưng bảo đảm cuộc sống yên lành của một người khác chỉ bằng ý thức xã hội rõ ràng là sự bảo đảm chưa đầy đủ, nếu không muốn nói là mong manh. Có lẽ nên chính thức thừa nhận rằng quan hệ cha-con ngoài giá thú không thể được chứng minh bằng giấy khai sinh, nếu người khai sinh không đồng thời là người được khai là cha.).

Trong chừng mực nào đó, ta nói rằng trong trường hợp một người tìm cách xác định quan hệ cha mẹ-con với một người khác, thì giấy khai sinh có ghi lai lịch cha mẹ là manh mối truy tầm chứng cứ về quan hệ đó. Trong thực tiễn giao dịch ngoài thủ tục tư pháp, người tự xưng là con của một người khác và có giấy khai sinh ghi rõ tên họ của người khác đó ở các phần liên quan đến lai lịch của cha mẹ được phép tiếp tục bổ túc chứng cứ để khẳng định mối quan hệ cha mẹ-con đã được ghi nhận trên giấy khai sinh. Cách bổ túc chứng cứ không giống nhau, tùy theo quan hệ cha mẹ-con là quan hệ trong giá thú hay ngoài giá thú, như sẽ thấy sau đây.

Các cách chứng minh khác

Cho đến nay, vẫn còn rất nhiều người Việt Nam không có giấy khai sinh. Nhưng trong điều kiện không có tranh chấp, quan hệ cha mẹ-con có thể được thừa nhận trong thực tiễn nhờ có các bằng chứng khác không phải là giấy khai sinh.

Các trường hợp cần chứng minh quan hệ cha mẹ-con ruột.

Các trường hợp này khá đa dạng trong thực tiễn. Có thể hình dung hai trường hợp điển hình: khi cần lập khai sinh trễ hạn hoặc đăng ký lại khai sinh cho một người và khi cần xác định một người nào đó có quyền hưởng di sản của người chết với tư cách là con ruột và là ngườìi thừa kế theo pháp luật được gọi ở hàng thứ nhất của người chết. Trong trường hợp thứ nhất, yêu cầu xác định quan hệ cha mẹ-con, như đã nói, chỉ là hậu quả của sự ngộ nhận về giá trị chứng minh của giấy khai sinh đối với quan hệ đó.

Giải pháp của luật.

Luật có quy định (song khá đơn giản) về bằng chứng của quan hệ cha mẹ-con ruột trong trường hợp cần lập khai sinh trễ hạn (Nghị định số 83 đã dẫn Điều 61 khoản 1): phải có người khai sinh và người này phải nộp một hồ sơ có thành phần giống như trong trường hợp đăng ký khai sinh đúng hạn. Vậy nghĩa là đối với cơ quan đăng ký hộ tịch, lời khai của người khai sinh, giấy chứng sinh (nếu có ghi tên họ cha và mẹ) và lời khai của người làm chứng là nguồn thông tin về quan hệ cha mẹ-con. Tất cả các lời khai ấy thực ra đều dựa vào các yếu tố sinh học. Điều này, như đã nói, có thể hiểu được: đối với trẻ sơ sinh không thể có yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con. Dẫu sao, trong trường hợp người được lập khai sinh quá hạn đã có một số tuổi nhất định, thì nội dung của các lời khai còn có thể bao gồm các yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con.

Giải pháp của thực tiễn.

Thực tiễn hầu như không có giải pháp nguyên tắc áp dụng cho tất cả các trường hợp cần chứng minh quan hệ cha mẹ-con ruột ngoài thủ tục tư pháp, trong điều kiện không có giấy khai sinh hoặc giấy khai sinh không ghi nhận lai lịch của cha mẹ. Dẫu sao, giấy khai sinh chỉ được yêu cầu xuất trình trong một số trường hợp tiếp xúc với các thủ tục hành chính ( Khi lập sổ đăng ký hộ khẩu thường trú lần đầu tiên, cơ quan cảnh sát có thể chấp nhận giấy khai sinh hoặc giấy tờ khác, thậm chí lời khai của người đại diện của gia đình, như là cơ sở để ghi nhận các mối liên hệ vào cột “quan hệ với chủ hộ”. Trái lại, khi cần nhập hộ khẩu cho một trẻ mới sinh, cơ quan cảnh sát sẽ yêu cầu xuất trình giấy khai sinh và thủ tục nhập hộ khẩu chỉ được tiến hành, nếu theo giấy khai sinh, trẻ được ghi nhận là con của một thành viên trong gia đình có sổ hộ khẩu đó.). Trong đời sống dân sự, quan hệ cha mẹ-con ruột được thừa nhận một khi có đủ các yếu tố xã hội học của quan hệ đó. Sự tồn tại của yếu tố xã hội học thường được ghi nhận thông qua sự quan sát của người thứ ba. Riêng trong các trường hợp cần giao dịch với cơ quan Nhà nước, thì các đương sự thường chứng minh yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con bằng cách lập một tờ khai mô tả nội dung quan hệ rồi xin xác nhận của các cấp chính quyền điạ phương. Việc lập tờ khai coi như có tác dụng thiết lập bằng chứng về thái độ cư xử của các đương sự; xác nhận của chính quyền điạ phương là dấu hiệu của sự thừa nhận của dư luận (và cả của gia đình) về quan hệ cha mẹ-con giữa các đương sự.

Con sinh ra từ hôn nhân

Khái niệm

Con chung của vợ và chồng.

Gọi là sinh ra từ hôn nhân, con mà ở thời điểm thành thai hoặc ở thời điểm được sinh ra, có cha và mẹ ràng buộc với nhau bởi quan hệ hôn nhân. Thực ra, khái niệm này còn hơi chật hẹp. Nếu coi sự ràng buộc giữa cha mẹ bằng quan hệ hôn nhân là yếu tố quyết định cho sự hình thành tư cách con chung của vợ chồng, thì con thành thai trong thời kỳ tiền hôn nhân nhưng chỉ được sinh ra sau khi hôn nhân chấm dứt (do ly hôn, do có người chết), cũng là con chung của vợ chồng (Nhưng tất nhiên, khoảng cách giữa thời điểm con sinh ra và thời điểm chấm dứt hôn nhân phải tỏ ra hợp lý. Theo Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 Điều 21 khoản 2, thì con sinh ra trong vòng 300 ngày, kể từ ngày người chồng chết hoặc kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án xử cho vợ chồng ly hôn có hiệu lực pháp luật, thì được xác định là con chung của hai người. Điều luật không phân biệt con thành thai trước hay trong thời kỳ hôn nhân.).

Con chung của những người trở thành vợ chồng.

Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 63 khoản 1, đoạn chót, con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng. Thế nào là sự thừa nhận con chung trong điều kiện cha mẹ kết hôn ? Vấn đề sẽ được giải quyết trong điểm b2 dưới đây.

Bằng chứng về con sinh ra từ hôn nhân

Suy đoán dựa vào dữ kiện sinh học

Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người mẹ có thai trong thời kỳ đó. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 63 khoản 1, con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng. Thực ra, đứa con có thể thành thai trong thân thể người mẹ hoậc trong thân thể người khác với sự đồng ý của vợ và chồng. Đúng ra, được gọi là con chung của vợ và chồng, con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc thành thai trong thời kỳ ấy: sự thành thai có thể diễn ra trên thân thể của người mẹ, nhưng cũng có thể diễn ra ở ngoài thân thể đó, nhờ sự hỗ trợ của các biện pháp y học.

Điều kiện thiết lập sự suy đoán. Từ Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 63 khoản 1, có thể nhận xét rằng để sự suy đoán con chung của vợ chồng được thiết lập dựa vào dữ kiện sinh học, cần có đủ hai điều kiện: 1. Con được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc thành thai trong thời kỳ đó; 2. Con được sinh ra là con của người vợ. Tuy nhiên, trong logique của suy nghĩ, việc chứng minh hai điểm này, thực ra, chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để suy đoán quan hệ cha mẹ-con trong giá thú.

Giá trị chứng minh của giấy khai sinh. Có thể dựa vào giấy khai sinh để biết được ngày sinh của con. Nếu ngày đó nằm trong thời kỳ hôn nhân, thì con được coi như sinh ra trong thời kỳ đó. Trong trường hợp theo giấy khai sinh, con được sinh ra sau khi hôn nhân chấm dứt, thì, trong điều kiện luật không có quy định chính thức về việc suy đoán ngày thành thai, có thể dựa vào kinh nghiệm chuyên môn của người làm công tác hộ sản để xác định một cách tương đối thời điểm thành thai.

Người khai sinh thường là người chồng, mà cũng có thể là một người thứ ba. Trong hầu hết các trường hợp, người khai sinh sẽ khai họ tên của người mẹ. Có thể tin rằng đối với quan hệ mẹ-con, giấy khai sinh có ghi họ tên mẹ coi như chứng cứ đầy đủ.

Giấy khai sinh và quan hệ cha-con. Người chồng có tên trên giấy chứng nhận đăng ký kết hôn thường sẽ được khai là cha của đứa trẻ. Trong khung cảnh của thực tiễn giao dịch, việc họ tên cha ghi nhận trên giấy khai sinh trùng với họ tên chồng của người được khai là mẹ có tác dụng củng cố bằng chứng về quan hệ cha mẹ-con trong giá thú. Công luận, về phần mình, thường coi giấy khai sinh và giấy chứng nhận kết hôn như là bằng chứng thuyết phục về quan hệ cha-con ruột một khi người được khai là cha đồng thời là chồng của người được khai là mẹ, ngay nếu như, do nguyên nhân gì đó, công luận không chứng kiến được sự đối xử giữa các đương sự theo cung cách của cha và con.

Suy đoán dựa vào sự thừa nhận

Yếu tố xã hội học. Yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con tỏ ra đặc biệt cần thiết để chứng minh quan hệ đó, một khi con sinh ra trước khi cha mẹ kết hôn và con không có giấy khai sinh hoặc giấy khai sinh không ghi nhận tên họ cha. Con chung của vợ chồng thường mang họ cha hoặc họ mẹ theo đúng tập tục của vùng nơi con sinh ra, cư xử với cả cha và mẹ như là cha-con, mẹ-con và tất cả những điều đó được người thứ ba ghi nhận. Cần nhấn mạnh rằng yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con trong trường hợp con được gọi là con chung của vợ chồng phải là yếu tố xã hội học chung cho cả hai loại quan hệ - cha-con và mẹ-con: “con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận...”. Không thể dùng yếu tố xã hội học để chứng minh thân phận con chung của vợ chồng, nếu yếu tố đó chỉ được ghi nhận cho quan hệ cha-con hoặc quan hệ mẹ-con.

Các mức độ suy đoán con chung của vợ chồng

Trường hợp có sự phù hợp giữa giấy khai sinh và yếu tố xã hội học

Sự suy đoán hoàn hảo. Giả sử con có giấy khai sinh ghi rõ tên họ của cha và mẹ, mang họ theo đúng tập tục, được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân (theo giấy khai sinh), được cha mẹ đối xử theo đúng các tiêu chí xử sự đặc trưng của mối quan hệ cha mẹ-con ruột và mối quan hệ ấy được gia đình và xã hội ghi nhận và tôn trọng. Có thể tin rằng bằng chứng về quan hệ cha mẹ-con ruột trong giả thiết là hoàn hảo và tư cách cha, mẹ, con của các đương sự không thể bị tranh cãi,... trừ trường hợp có ai đó chứng minh được rằng đã có việc đánh tráo trẻ lúc mới sinh ra hoặc có một vụ mua bán trẻ em. Tuy nhiên, giải pháp này chưa được chính thức thừa nhận trong luật viết hiện hành.

Cũng được coi là hoàn hảo, bằng chứng về quan hệ cha mẹ-con được thiết lập dựa trên, một mặt, các ghi chép trên giấy khai sinh cho thấy người được khai sinh là con chung của vợ chồng, dù được sinh ra trước thời điểm kết hôn và, mặt khác, yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con.

Trường hợp có sự phù hợp giữa sự thừa nhận con bằng con đường hành chính và yếu tố xã hội học

Sự suy đoán hoàn hảo tương đối. Có trường hợp sau khi được thừa nhận bằng con đường hành chính, giữa vợ chồng và người được thừa nhận có quan hệ cư xử như cha mẹ và con. Có thể tin rằng sự suy đoán con chung của vợ chồng trong trường hợp này vẫn vững chắc, nhưng độ vững chắc kém hơn so với trường hợp trên đây: không loại trừ khả năng người chồng chỉ thừa nhận con của người vợ do được thôi thúc bởi lòng bao dung và trên thực tế người được thừa nhận là con của một người khác.

Trường hợp chỉ có yếu tố xã hội học hoặc chỉ có sự thừa nhận mặc nhiên

Suy đoán không hoàn hảo. Con được sinh ra trước khi kết hôn và trên giấy khai sinh chỉ ghi nhận tên họ mẹ mà không ghi nhận tên họ cha; tuy nhiên, người cha và người con luôn cư xử với nhau theo đúng các chuẩn mực của quan hệ cha-con trước và sau khi người cha kết hôn với người mẹ. Ta nói rằng tư cách con trong giá thú cũng được suy đoán cho người con trong trường hợp này, nhưng sự suy đoán không được hoàn hảo do yếu tố sinh học của quan hệ cha-con còn mập mờ.

Cũng không hoàn hảo, sự suy đoán chỉ dựa trên sự thừa nhận mặc nhiên đối với con sinh ra trước khi cha mẹ kết hôn, nghĩa là dựa vào giấy khai sinh và quan hệ hôn nhân giữa cha và mẹ mà không có yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con. Không hoàn hảo, bởi người ta sẽ không hiểu tại sao các đương sự không cư xử với nhau như cha-con, mẹ-con.

Trường hợp sinh con trong điều kiện giữa vợ chồng không có sự chung sống

Trường hợp người chồng vắng mặt tại nơi cư trú(Ta còn có trường hợp sinh con trong điều kiện người chồng bị tuyên bố mất tích. Tuy nhiên, dù luật không quy định rõ, vẫn có cơ sở trong logique của sự việc để nói rằng sự suy đoán con chung phải hoàn toàn bị loại trừ trong trường hợp này: trong luật hiện hành, một người chỉ có thể bị tuyên bố mất tích sau hai năm biệt tích thật sự; nếu người vợ sinh con sau khi có quyết định tuyên bố, thì con đó cầm chắc thân phận con ngoài giá thú giữa người vợ và người khác không phải người chồng mất tích, dù vẫn được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân. ). Nếu đã có thông báo tìm kiếm, thì có lẽ vấn đề phải được xem xét tùy theo kết quả xác định thời điểm mang thai của người vợ.

- Trong trường hợp người vợ mang thai trước ngày người chồng được xác định là vắng mặt, mọi chuyện còn tùy thuộc vào việc người chồng được hay không được khai là cha của đứa trẻ. Giả sử người chồng được khai là cha của đứa trẻ theo giấy khai sinh, thì quy tắc suy đoán của Điều 63 khoản 1 có thể được áp dụng ( Nhưng cơ sở của sự suy đoán không được vững chắc như trong trường hợp vợ chồng ly thân, bởi vì chắc chắn người đi khai sinh không phải là người chồng trong trường hợp này. Vả lại, ngay nếu như vợ chồng ly thân và người khai sinh không phải là người chồng, thì khi khai báo, người khai sinh thường phải dè chừng: người chồng có thể phản đối, một khi việc khai báo được thực hiện tùy tiện và nhất là không tôn trọng sự thật. Trong khi đó, người khai sinh trong điều kiện người chồng vắng mặt có thể khai mà không cần dè chừng sự phản đối.); nếu người chồng không được khai là cha của đứa trẻ, thì hẳn không thể áp dụng quy tắc suy đoán ấy, bởi người chồng sẽ không thể có mặt để xây dựng yếu tố xã hội học của quan hệ cha-con nhằm bù đắp những thiếu sót của giấy khai sinh.

- Trong trường hợp người vợ mang thai sau ngày người chồng được xác định là vắng mặt, có thể suy đoán, trong logique của sự việc, rằng đứa trẻ sinh ra không phải là con của người vắng mặt, nghĩa là sự suy đoán của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 63 khoản 1 phải bị loại trừ.

Tuy nhiên, cho đến nay, luật viết chỉ mới dự kiến khả năng loại trừ sự suy đoán của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 63 khoản 1 bằng con đường tư pháp, chưa có quy tắc nào cho phép loại trừ một cách đương nhiên sự suy đoán đó.

Con sinh ra từ quan hệ như vợ chồng

Bằng chứng thông thường về quan hệ cha mẹ-con

Giấy khai sinh và yếu tố xã hội học. Việc khai sinh cho con ngoài giá thú cũng được thực hiện theo cùng một thủ tục như việc khai sinh cho con sinh ra từ hôn nhân: người khai, giấy chứng sinh hoặc người làm chứng... Tuy nhiên, độ tin cậy của các lời khai về lai lịch cha, mẹ của con ngoài giá thú không được bảo đảm tốt như trong trường hợp con sinh ra từ hôn nhân. Có thể nghĩ rằng trong mọi trường hợp, các chi tiết về người mẹ thường có độ chính xác cao; còn các chi tiết về người cha của con ngoài giá thú, được ghi nhận trong khai sinh, thì chưa hẳn: không loại trừ khả năng một người được khai là cha của một đứa trẻ là do “sáng kiến” của người mẹ hoặc người khai, người được khai là cha của đứa trẻ hoàn toàn không biết việc mình được gán cho tư cách đó. Trên thực tế, viên chức hộ tịch chỉ ghi nhận tên họ cha trên giấy khai sinh trong trường hợp người được khai là cha đồng thời cũng là người khai sinh. Nếu người khai sinh khai tên họ của một người khác như là cha của người được khai sinh, thì viên chức hộ tịch sẽ từ chối ghi nhận lời khai đó và để trống mục tên họ cha trên giấy khai sinh. Tuy nhiên, do không có quy định rành mạch của luật ở điểm này, mà viên chức hộ tịch cũng có thể ghi nhận một cách dễ dãi lời khai của người khác về lai lịch của cha đứa trẻ. .

Nói chung, nếu giấy khai sinh có ghi tên họ cha và người có tên trên giấy đó cư xử công khai với tư cách cha của người được khai sinh theo giấy đó, thì quan hệ cha-con ruột ngoài giá thú coi như được chứng minh. Quan hệ cha-con cũng có thể coi là được thiết lập, dù không được chắc chắn lắm về mặt pháp lý, trong trường hợp giấy khai sinh ghi nhận tên họ cha theo lời khai của chính người tự xưng là cha, dù giữa các đương sự không có yếu tố xã hội học của quan hệ cha-con. Nhưng không thể nói rằng quan hệ cha-con đã được chứng minh, nếu tên họ cha được ghi nhận trên giấy khai sinh mà người được khai là cha lại không hề hay biết và cũng không bao giờ cư xử với người được khai là con... như con.

Nhận con ngoài giá thú

Tổng quan

Khái niệm. Các trường hợp nhận con ngoài giá thú. Nhận con ngoài giá thú là một thủ tục hành chính cho phép một người nhìn nhận một người khác là con của mình trong điều kiện không có tranh chấp và người được nhận là con không được coi là con của bất kỳ người nào khác có cùng giới tính với người thừa nhận. Điều đó có nghĩa là:

- Người được thừa nhận phải chưa được xác định (theo thủ tục tư pháp) là con của một người khác có cùng giới tính với người thừa nhận, theo một bản án có hiệu lực pháp luật;

- Người được thừa nhận phải chưa từng được thừa nhận (theo thủ tục hành chính) là con của một người khác có cùng giới tính với người muốn thừa nhận;

- Người được thừa nhận không được suy đoán là con chung của vợ chồng do áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 63 khoản 1;

- Người được thừa nhận không mang tư cách con ngoài giá thú của một người cùng giới tính với người muốn thừa nhận, tư cách được chứng minh bằng giấy khai sinh và yếu tố xã hội học.

Thủ tục

Thủ tục theo văn bản lập quy. Thủ tục này được ghi nhận tại Nghị định 83-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch, nhưng lại không được ghi nhận trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ quan tâm đến việc nhận con hoặc nhận cha mẹ theo thủ tục tư pháp. Thực ra, ta đã biết rằng Nghị định số 83-CP đã dẫn không phải là văn bản hướng dẫn thi hành Luật này; nhưng điều tế nhị là: dù được ban hành sau Nghị định, Luật không lấy lại (và tiếp tục hoàn thiện) các quy tắc trong Nghị định. Có lẽ người làm luật còn muốn tiếp tục thử nghiệm các giải pháp của văn bản lập quy trong một thời gian.

Nộp hồ sơ. Người xin nhận cha, mẹ phải nộp một hồ sơ cho UBND xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người được gọi là con. Hồ sơ gồm có (Nghị định số 83, đã dẫn, Điều 48):

- Giấy khai sinh của con;

- Sổ hộ khẩu gia đình của con;

- Chứng minh nhân dân của người khai nhận;

- Các giấy tờ cần thiết khác chứng minh quan hệ cha-con, mẹ-con.

Nếu không có các giấy tờ đó, thì phải có giấy tờ hợp lệ thay thế (cùng điều luật).

Trong trường hợp một người mà tính mạng bị cái chết đe doạ do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác, không thể đến UBND khai nhận người khác là con mình, thì đơn được thay thế bằng văn bản có xác nhận của hai người làm chứng về nguyện vọng nhận con của người đó.

Sự đồng ý của một số người. Trong trường hợp con đang được người khác nuôi dưỡng, thì việc nhận con phải được sự đồng ý của người nuôi dưỡng đó. Nếu người được nhận là con từ đủ 9 tuổi trở lên, thì còn phải có sự đồng ý của người đó (Nghị định số 83 đã dẫn Điều 48) .

Thụ lý và quyết định. Sau khi nhận đủ giấy tờ cần thiết, UBND tiến hành xác minh và niêm yết công khai việc xin nhận con tại trụ sở UBND trong thời hạn 7 ngày (Nghị định đã dẫn Điều 50). Trong trường hợp cần xác minh thêm, thì thời hạn kéo dài không quá 7 ngày.

Trong trường hợp không có đủ cơ sở để công nhận việc khai nhận con, thì UBND mời người khai nhận đến để thông báo về việc từ chối đăng ký (Nghị định đã dẫn, Điều 51). Lý do từ chối phải được ghi rõ bằng văn bản. Người bị từ chối có quyền khiếu nại.

Nếu thấy có đủ cơ sở để công nhận việc khai nhận con, thì UBND thông báo cho các đương sự về ngày đăng ký khai nhận con. Khi đăng ký, các đương sự phải có mặt. Nếu người khai nhận ở trong tình trạng bệnh tật hiểm nghèo, thì người thân thích hoặc người được uỷ quyền của người đó có thể thay mặt người đó để đăng ký. Chủ tịch UBND cấp xã ký và cấp cho mỗi bên một bản chinh quyết định công nhận việc cha mẹ nhận con; cán bộ hộ tịch tư pháp ghi nhận sự việc vào sổ đăng ký nhận cha, mẹ, con.

Hiệu lực của việc thừa nhận

Xác lập quan hệ cha mẹ-con. Nghị định số 83-CP chỉ quy định các thủ tục hành chính về đăng ký hộ tịch, trong đó có việc đăng ký thừa nhận con hoặc thừa nhận cha mẹ. Vấn đề hiệu lực pháp lý của các giao dịch đăng ký hộ tịch, trong đó có đăng ký thừa nhận, không được đặt ra. Tuy nhiên, có thể nghĩ rằng do mang đậm dấu ấn của ý chí, việc thừa nhận có tác dụng thiết lập bằng chứng thuyết phục về quan hệ cha mẹ-con, thậm chí thuyết phục hơn việc khai sinh. Trước hết, việc đó mang ý nghĩa của một lời tuyên bố về sự tồn tại trước đó của quan hệ cha mẹ-con. Lời tuyên bố đó có hiệu lực đối với tất cả mọi người. Kế đến, đó là lời tuyên bố không thể bị huỷ bỏ: người thừa nhận không thể, ví dụ, mong muốn chấm dứt quan hệ cha (mẹ)-con bằng cách huỷ bỏ việc thừa nhận, như người ta huỷ bỏ một hợp đồng.

Nhưng, với tư cách là một bằng chứng về quan hệ cha mẹ-con, việc thừa nhận có thể bị đánh đổ bởi các bằng chứng khác thuyết phục hơn. Việc bác bỏ sự thừa nhận phải được thực hiện trong khuôn khổ một vụ án dân sự ( Ngay cả trong trường hợp sự thừa nhận bị bác bỏ bởi chính người đã thừa nhận, thì việc bác bỏ cũng phải được Toà án xem xét và xác định.)

Nhận xét ban đầu.

Các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 liên quan đến việc xác định quan hệ cha mẹ-con bằng con đường tư pháp luôn sử dụng các cụm từ “người được nhận” hoặc “người không được nhận” khi mô tả các giả định. Vấn đề là: Luật không có quy định về nội hàm của các từ khoá “nhận” và “không nhận” và do đó, trong điều kiện các quy tắc về bằng chứng của quan hệ cha mẹ-con đang trong giai đoạn được xây dựng một cách có hệ thống, các nội hàm ấy trở nên khó xác định. Thế nào là “nhận” hoặc “không nhận” ở góc độ tư pháp ? Ta có hai trường hợp điển hình.

- Một người tin rằng mình là cha (mẹ) của một đứa trẻ, nhưng lại không được đứa trẻ gọi là cha (mẹ) ( “Tin” và “gọi” ở đây ám chỉ ý chí nội tâm của các đương sự liên quan đến tư cách của người này và người kia trong quan hệ cha mẹ-con. Có trườìng hợp con không gọi cha là cha, do ngỗ nghịch. Sự xung đột ấy không thể được giải quyết trong khuôn khổ một vụ án về xác định cha cho con. );

- Người chồng không tin rằng mình là cha của đứa trẻ do người vợ sinh ra trong thời kỳ hôn nhân, nhưng trên giấy khai sinh của đứa trẻ, họ tên của người chồng lại được ghi nhận ở cột lai lịch của cha.

Trong hai giả thiết trên đây, người tin hoặc không tin mình là cha (mẹ) của đứa trẻ có thể đứng trước những bằng chứng khác thuận lợi hoặc không thuận lợi đối với lòng tin của mình.

Một số người cho rằng việc nhận con bằng con đường tư pháp cũng có thể được tiến hành ngay cả trong trường hợp giữa các đương sự đã có yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con, một khi cơ quan hộ tịch từ chối đăng ký khai sinh trễ hạn cho người được gọi là con, vì lý do gì đó, hoặc từ chối ra quyết định công nhận việc thừa nhận con của người được gọi là cha (mẹ), do xét thấy không có đủ cơ sở để thừa nhận quan hệ cha mẹ-con của các đương sự. Ý kiến này là hệ quả tất nhiên của quan niệm theo đó, một mặt, giấy khai sinh là bằng chứng độc lập về quan hệ cha mẹ-con và, mặt khác, cơ quan hộ tịch là người có quyền thẩm định chứng cứ về quan hệ cha mẹ-con.

Riêng người không tin phải đứng trước một quan hệ cha mẹ-con đã được xác định trái ngược với lòng tin của mình và muốn chối bỏ quan hệ đó. Bởi vậy, việc kiện yêu cầu phủ nhận quan hệ cha mẹ-con của người được nhận là cha (mẹ) chỉ được thực hiện bởi một trong ba loại người: 1. Người được suy đoán là cha (mẹ) do áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 63 khoản 1 về suy đoán con chung của vợ chồng; 2. Người đã khai nhận con ngoài giá thú bằng con đường hành chính; 3. Người được nhận là cha (mẹ) của một người được coi là con ngoài giá thú do có giấy khai sinh ghi rõ lai lịch cha mẹ và có yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con.

Tất cả những giả thiết trên đây còn có chung một yếu tố nữa: người đứng đơn khởi kiện là người tin hoặc được coi là cha (mẹ) của một người khác. Cũng có trường hợp một người tin rằng mình là con của một người khác, nhưng lại không được người sau này gọi là con; luật cho phép người tin rằng mình là con của người khác yêu cầu Toà án xác định mình là con của người khác đó. Trong một giả thiết khác, một người được nhận là con của một người khác lại không tin mình là con của người khác đó; luật cho phép người không tin yêu cầu Toà án phủ nhận quan hệ cha mẹ-con.

Trong một trường hợp đặc thù, một người được khai là cha của một đứa trẻ, theo giấy khai sinh, nhưng không phải là chồng của người mẹ hoặc chung sống như vợ chồng với người mẹ. Giả sử người được khai là cha không tin rằng mình là cha của đứa trẻ và cũng không xây dựng yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con với đứa trẻ, thì đáng lý ra, người này không cần phải kiện cáo làm gì, bởi, như đã nói, giấy khai sinh tự nó không phải là bằng chứng độc lập về quan hệ cha-con. Nhưng luật viết hiện hành chưa ghi nhận giải pháp này.

Con trong giá thú và con ngoài giá thú.

Có trường hợp hai người chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn xin nhận con chung bằng con đường tư pháp hoặc ngược lại một người xin được thừa nhận là con chung của hai người chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Trong điều kiện không có quan hệ hôn nhân chính thức giữa hai người tự xưng hoặc được gọi là cha và mẹ, các vụ án phải được coi như độc lập với nhau về mặt pháp lý (xác định con cho cha và xác định con cho mẹ hoặc xác định cha cho con và xác định mẹ cho con), dù có thể được tiến hành trong khuôn khổ một thủ tục pháp lý chung. Con được xác định sẽ là con ngoài giá thú của hai người chung sống như vợ chồng.

Cá biệt, cũng có trường hợp cha mẹ có đăng ký kết hôn và con bị thất lạc từ khi mới sinh; một thời gian sau, cha mẹ tìm được con, khi đó đang tư cách con của một người khác. Cha mẹ trong trường hợp này có thể tranh chấp trước Toà án để yêu cầu xác định người được tìm gặp là con chung của họ trong khuôn khổ một vụ án duy nhất. Nếu yêu cầu của cha mẹ được đáp ứng thuận lợi, thì con được xác định sẽ mang tư cách con trong giá thú.

Tính chất của các kiện cáo

Không có thời hiệu.

Luật hiện hành không quy định thời hiệu đối với các vụ tranh chấp về quan hệ cha mẹ-con. Có vẻ như theo người làm luật, do quan hệ cha mẹ-con dựa trên sự thật sinh học mà việc ấn định thời hiệu khởi kiện tranh chấp về quan hệ này là không hợp lý. Tuy nhiên, sự thật có thể bị thời gian che phủ: đến một lúc nào đó việc dựng lại sự thật về quan hệ cha mẹ-con sẽ rất khó khăn (nếu không muốn nói là không thể được). Làm thế nào để đánh giá chứng cứ cung cấp bởi một tự nhận là con ruột của vua X ? Nếu các đương sự đều đã chết, thì làm thế nào để đánh giá chứng cứ cung cấp bởi một người tự xưng là con của một người cần phải được công nhận là con của một danh nhân lịch sử của thế kỷ trước ? Dẫu sao, nếu người yêu cầu không có bằng chứng thuyết phục để hỗ trợ cho yêu cầu của mình, thì Toà án sẽ bác yêu cầu.

Gắn liền với nhân thân ?

Quyền khởi kiện về quan hệ cha mẹ-con có thể được chuyển giao cho người thừa kế ? Trong khung cảnh của luật thực định, quyền nhận cha mẹ hoặc quyền nhận con, cũng như quyền phủ nhận tư cách cha, mẹ, tư cách con là các quyền gắn liền với nhân thân của người có quyền. Trừ những người được luật liệt kê, có vẻ như không ai khác có thể thực hiện quyền đó, thay cho người có quyền.

Các loại kiện cáo

Kiện từ phía người tự xưng hoặc được gọi là cha (mẹ)

Người tự xưng là cha (mẹ).

Người tự xưng là cha của một người khác có thể yêu cầu Toà án xác định rằng mình là cha ruột của người đó. Nếu người được yêu cầu xác định là con đang mang tư cách con của một người cha khác, thì yêu cầu này bao hàm yêu cầu kép: 1. Thừa nhận rằng con đó là con chung của người tự xưng và người đang được coi là mẹ của con đó; 2. Bác bỏ tư cách “cha” của người mà người con đó đang gọi là cha.

Người tự xưng là mẹ của một người khác có thể yêu cầu Toà án xác định rằng mình là mẹ ruột của người đó. Nếu người được yêu cầu xác định là con đang mang tư cách con của một người mẹ khác, thì yêu cầu này bao hàm yêu cầu thừa nhận rằng có sự đánh tráo trẻ lúc mới sinh hoặc có việc nhận trẻ bị thất lạc làm con.

Người được xác định là cha mẹ.

Người đang mang tư cách cha của một người khác có quyền yêu cầu Toà án xác định rằng mình không phải là cha của người đó. Nếu người yêu cầu đang có vợ và người vợ đồng thời mang tư cách mẹ của người con đó, thì yêu cầu bao hàm yêu cầu xác định rằng con đó là con ngoài giá thú của người mẹ và một người khác.

Kiện cáo từ phía người tự xưng hoặc được gọi là con

Người tự xưng là con.

Người tự xưng là con của một người khác có thể yêu cầu Toà án xác định mình là con của người đó. Vấn đề khá tế nhị:

- Nếu người khác đó là một người đàn ông và người tự xưng là con đang mang tư cách con chung của hai người khác nữa, thì yêu cầu này bao hàm một yêu cầu kép: 1. Bác bỏ tư cách của người đang là cha của người yêu cầu; 2. Thừa nhận quan hệ xác thịt ngoài giá thú của người đang là mẹ và người được yêu cầu xác định là cha.

- Nếu người khác đó là một người đàn bà và người tự xưng là con đang mang tư cách con chung của hai người khác nữa, thì yêu cầu này bao hàm việc xác định có một vụ đánh tráo trẻ mới sinh hoặc nhặt con rơi và nhận làm con ruột.

Người được gọi là con.

Thực ra, quyền của một người được gọi là con yêu cầu Toà án xác định mình không phải là con của người mình đang gọi là cha, mẹ chỉ được ghi nhận một cách rất chung bằng các quy định mang tính nguyên tắc trong luật dân sự (BLDS 2005 Điều 43 khoản 2). Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không có quy định rành mạch về quyền này. Tuy nhiên do con có quyền xin nhận cha, mẹ mà không có trường hợp ngoại lệ, việc một người đang mang tư cách con của một người khác xin nhận một người khác nữa làm cha hoặc mẹ cho phép nghĩ rằng nếu Toà án xác định người được yêu cầu xác định là cha (mẹ) đích thực là cha (mẹ) của người yêu cầu, thì người đang là cha (mẹ) của người yêu cầu sẽ mất tư cách đó.

Luật viết còn khá đơn giản ở điểm này và chắc chắn sẽ được tiếp tục hoàn thiện để giải quyết nhiều vấn đề tế nhị mà thực tiễn đặt ra. Một số quy định về nhận cha mẹ cho con bằng con đường tư pháp có lẽ sẽ được giới hạn phạm vi áp dụng để cho việc cân đối giữa lợi ích của con và lợi ích của cha mẹ được bảo đảm tốt: “Con đã thành niên xin nhận cha, không đòi hỏi có sự đồng ý của mẹ; xin nhận mẹ không đòi hỏi có sự đồng ý của cha” (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 65 khoản 2) ( Khi soạn thảo Điều 65 khoản 2, hẳn người làm luật quan tâm đến trường hợp con biết mẹ mà chưa biết cha hoặc con biết cha mà chưa biết mẹ. Câu chữ của quy tắc rất cô đọng và có vẻ như vẫn được coi là phù hợp với quy định của luật, việc con đã có cha xin nhận cha khác mà không có sự đồng ý của mẹ. ).

Kiện cáo từ người thứ ba

Kiện cáo vì lợi ích của đương sự.

Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 66:

1. Mẹ, cha hoặc người giám hộ theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự.

2. Viện kiểm sát, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Toà án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự.

3.Cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự:

a. Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em;

b. Hội liên hiệp phụ nữ.

4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét, yêu cầu Toà án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự.

Từ các quy định dẫn trên, có thể nhấn mạnh rằng việc kiện cáo theo sáng kiến của người thứ ba và được thực hiện vì lợi ích của đương sự trong quan hệ cha mẹ-con ruột chỉ được chấp nhận trong trường hợp người có lợi ích là người chưa thành niên hoặc đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự. Người đã thành niên và có đủ năng lực hành vi dân sự hoặc chỉ bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải tự mình yêu cầu.

Thực tiễn ghi nhận rằng sự can thiệp của Viện kiểm sát và các cơ quan khác thường xảy ra trong trường hợp người được coi là cha, mẹ cố tình không thừa nhận con mình hoặc người được coi là con cố tình không thừa nhận cha, mẹ mình, nhằm trốn tránh các nghĩa vụ của cha, mẹ, con đối với người không được thừa nhận.

Luật chính thức cho phép người thứ ba yêu cầu xác định con cho cha, mẹ hoặc cha, mẹ cho con trong những trường hợp đặc thù nêu trên. Khi dự kiến những trường hợp đó, luật không phân biệt người được gọi là con đang có hay không có cha (mẹ) khác. Nói rõ hơn, người thứ ba, trong những trường hợp được luật dự kiến, có quyền gián tiếp yêu cầu phủ nhận tư cách cha (mẹ) của một người bằng cách xin xác định một người khác là cha (mẹ) của đương sự. Điều luật hẳn sẽ tiếp tục được hoàn thiện để ngăn ngừa việc nảy sinh những vấn đề nhạy cảm về đạo đức. Cho đến nay, các cơ quan, tổ chức, cá nhân thường không can thiệp vào các vụ án xác định cha cho con trong trường hợp

0