24/05/2018, 16:26

Thị Trường Mỹ và Cơ hội cho các Doanh Nghiệp Nông Sản Việt Nam

Mỹ là một quốc gia có lịch sử hình thành non trẻ. Nước Mỹ có diện tích khoảng 9,3 triệu km2, là nước có diện tích lớn thứ tư trên thế giới sau Nga, Canađa và Trung Quốc. Mỹ nằm ở trung tâm Châu lục ...

Mỹ là một quốc gia có lịch sử hình thành non trẻ. Nước Mỹ có diện tích khoảng 9,3 triệu km2, là nước có diện tích lớn thứ tư trên thế giới sau Nga, Canađa và Trung Quốc. Mỹ nằm ở trung tâm Châu lục Bắc Mỹ; phía Bắc giáp Canada, phía Nam giáp Mêhicô, phía đông giáp Đại Tây Dương và phía Tây giáp Thái Bình Dương.

Mỹ là quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới. Với dân số vào khoảng 284,5 triệu người (cuối năm 2001) sức mua khoảng 7000 tỷ USD/ năm, GDP năm 1999 vào khoảng 9256 tỷ USD . Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu của Mỹ vào khoảng 781 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu khoảng 1258 tỷ USD. Sản xuất công nghiệp Mỹ chiếm khoảng 20 % sản lượng công nghiệp toàn thế giới. Lao động nông nghiệp chiếm 2 % dân số nhưng nó đáp ứng nhu cầu trong nước, đồng thời xuất khẩu mỗi năm khoảng 50 tỷ USD. Với thu nhập GDP bình quân đầu người ước khoảng 32.000 USD, dân Mỹ được xem là dân có sức tiêu dùng lớn nhất trong các nước có nền công nghiệp phát triển. Theo nghiên cứu của một nhóm chuyên gia Liên Hợp Quốc thì nếu sức tiêu dùng của các gia đình Nhật, EU là 1, thì của các gia đình Mỹ là 1,7.

Về chất lượng hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ rất linh hoạt, vì phương châm kinh doanh thương mại của Mỹ là “ tiền nào của nấy”. Dân Mỹ có mức sống rất đa loại, nên có hệ thống cửa hàng cho người có thu nhập cao, cửa hàng cho người có thu nhập thấp. Chính vì vậy, hàng nhập khẩu vào Mỹ rất đa dạng, đa loại từ nhiều nước khác nhau phục vụ cho các phân khúc thị trường khác nhau.

Nước Mỹ cũng có nền nông nghiệp rất phát triển. Nhờ có diện tích lãnh thổ rộng lớn, có nhiều miền khí hậu thuận lợi, công nghệ sinh học phát triển khả năng ứng dụng cao. Chính phủ Mỹ giàu có hàng năm giành trên 10 tỷ USD tài trợ cho phát triển nông nghiệp. Chính vì vậy tất cả các ngành nông nghiệp của Mỹ về trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản, chế biến nông sản đều rất phát triển. Xuất khẩu nông sản năm 2001 mang về cho nước Mỹ trên 46 tỷ USD, Mỹ đứng đầu thế giới về xuất khẩu lúa mỳ, bắp, thịt các loại, đậu tương…,đứng thứ ba thế giới về xuất khẩu gạo, thuỷ sản, nước trái cây…

Mỹ cũng là nước nhập khẩu nhiều nông sản nhất thế giới, hàng năm Mỹ nhập khẩu trên dưới 10 tỷ USD rau, củ, quả; nhập khẩu khoảng 3,5 tỷ USD cà phê; nhập khẩu trên 9 tỷ USD cao su; thịt các loại khoảng trên 2,5 tỷ USD; nhập khẩu các sản phẩm chế biến từ ngũ cốc khoảng 1,5 tỷ USD… Tương tự như các mặt hàng khác, nước Mỹ nhập khẩu nông sản rất đa dạng về chủng loại, trong đó nhiều loại Việt Nam có khả năng cung cấp cho thị trường Mỹ.

Trên thị trường Mỹ, có nhiều mặt hàng nông sản được tiêu thụ với số lượng lớn. Tuy nhiên, với nền nông nghiệp phát triển nên nhu cầu về tiêu thụ hàng nông sản có thể tự đáp ứng được. Có một số mặt hàng mà nền nông nghiệp Mỹ chưa thể đáp ứng được đó là:

  • Cà phê - Chè
  • Hạt tiêu - Cao su
  • Nhân điều…

Tiềm năng sản xuất hàng nông sản ở Việt Nam.

Việt Nam có tiềm năng khá lớn trong việc sản xuất hàng nông sản thể hiện ở các điểm sau:

Về đất đai:

Việt Nam có diện tích 330.363 km2, tiềm năng đất nông nghiệp của là 10 -11,157 triệu ha với 8 triệu hecta (ha) cây trồng hàng năm (đất trồng lúa khoảng 5,4 triệu ha, 2,3 triệu ha trồng cây lâu năm). Hiện nay, nước ta mới chỉ sử dụng 65% quỹ đất nông nghiệp. Trong đó 5,6 triệu ha cho cây trồng hàng năm, cây lâu năm là 0,86 triệu ha, 0,33 triệu ha đồng cỏ tự nhiên và 17 triệu ha mặt nước.Việt Nam có một diện tích lớn đất bị xói mòn, thoái hoá. Cụ thể: Vùng Bắc Bộ 5% tổng diện tích, Khu 4 cũ 35% tổng diện tích, Đồng Bằng Nam Bộ 34% tổng diện tích. Nếu đầu tư cải tạo diện tích này sẽ rất thuận tiện cho việc phát triển cây công nghiệp dài ngày như cao su, hạt tiêu, cà phê.

Vùng Đồng Bằng Sông Hồng và Đồng Bằng Sông Cửu Long có diện tích đất đưa vào sử dụng khá cao lần lượt là 93% và 82% tổng diện tích của cả vùng nhưng hệ số sử dụng đất mới chỉ đạt 1,5 lần do tình trạng thâm canh trong nông nghiệp còn lạc hậu với sự yếu kém về hệ thống thuỷ lợi. Do vậy nước ta vẫn có thể khai thác được vùng đồng bằng màu mỡ này nếu biết đầu tư phát triển sản xuất theo chiều sâu. Đặc biệt những vùng đất còn hoang hoá ở các vùng khác cũng cần tích cực đầu tư tạo tiềm lực cho sản xuất nông nghiệp.

Về khí hậu.

Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh hưởng sâu sắc của chế độ gió mùa Châu Á. Khí hậu Việt Nam rất đa dạng, phân biệt rõ rệt từ miền Bắc vào miền Nam. Miền Bắc có mùa đông lạnh. Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long có khí hậu kiểu Nam Á. Đây là điều kiện khí hậu thuận lợi để đa dạng hoá các loại cây trồng. Ngoài ra tiềm năng nhiệt độ, độ ẩm và gió dồi dào phân bổ khá đồng đều trên phạm vi cả nước. Tiềm năng nhiệt của nước ta được xếp vào dạng giàu có với số giờ nắng cao, cường độ bức xạ lớn, độ ẩm tương đối trong năm lớn hơn 80%, lượng mưa khoảng 1800 - 2000 mm/năm là điều kiện lý tưởng cho nhiều loại cây trồng sinh trưởng và phát triển.

Vị trí địa lý và các cảng khẩu.

Từ trước đến nay, một khối lượng lớn hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển. So với các phương thức vận tải quốc tế bằng đường sắt, đường ống và đường hàng không thì phương thức vận tải này có nhiều thuận lợi hơn, thông dụng hơn và có mức cước phí rẻ hơn.

Trong thực tiễn chuyên chở bằng đường biển, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều thuận lợi nổi bật. Đường biển Việt Nam có hình chữ “S”, hệ thống cảng biển nói chung đều nằm sát đường hàng hải quốc tế trải dọc từ Bắc, Trung, Nam, có thể hành trình theo tất cả các chuyến đi Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Thái Bình Dương, Trung cận Đông, Châu Phi, Châu Mỹ. Một số cảng có khả năng bốc xếp hàng xuống tàu lớn, có hệ thống kho bảo quản tốt, lại gần đường hàng hải quốc tế.

Về nguồn nhân lực.

Dân số nước ta là gần 80 triệu người, cơ cấu dân số trẻ với trên 80% sống bằng nghề nông. Đây là một lực lượng lao động hùng hậu cung cấp cho khu vực nông nghiệp. Mặc dù chất lượng lao động của Việt Nam còn thấp hơn so với nhiều quốc gia khác trên thế giới nhưng con người Việt Nam với bản chất cần cù sáng tạo, ham học hỏi là tiềm năng lớn góp phần vào chất lượng lao động ngành nông nghiệp Việt Nam.

Tình hình kinh tế của Việt Nam với các chính sách nông nghiệp.

Với mục đích hoà nhập vào đời sống kinh tế thế giới và tiến tới việc mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa xuất khẩu, Việt Nam đã tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực.

Tháng 7 năm 1995 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN và đã ký kết các văn kiện của hiệp hội như hiệp định khung về tăng cường hợp tác ASEAN, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), phấn đấu gia nhập WTO. Ngoài ra Việt Nam còn xúc tiến thương mại nhằm cung cấp cho các nhà sản xuất những thông tin đầy đủ về thị trường xuất khẩu như trung tâm xúc tiến thương mại OSAKA và ROMA.

Ngoài những điều kiện thuận lợi trên, với quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam, xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu nên việc sản xuất, chế biến, xuất khẩu hàng nông sản cũng được chú trọng và quan tâm. Việc ưu đãi đầu tư trong và ngoài nước vào lực lượng sản xuất nông sản đã và đang tạo được động lực mới cho sự phát triển của ngành này. Việc đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất cũng tạo được những bước đột phá.

Dự báo tiềm năng xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào thị trường Mỹ.

Dự báo được xây dựng trên hai cơ sở quan trọng. Đó là, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam thời kỳ 2001 – 2010 và chỉ thị của Thủ tướng chính phủ về chiến lược phát triển hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010.

+ Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam thời kỳ 2001-2000.

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX quyết định chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong 10 năm đầu của thế kỷ XXI (2001-2010) là “ Chiến lược đẩy mạnh Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm (2001-2010) là đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo nền tảng đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Để thực hiện được mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn từ 2001-2010, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX cũng nêu rõ định hướng phát triển kinh tế đối ngoại trong đó có định hướng phát triển hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Cụ thể về xuất khẩu:

  • Tăng tổng kim ngạch xuất khẩu. Tạo thị trường ổn định cho một số mặt hàng nông sản- thực phẩm và công nghiệp có khả năng cạnh tranh, tìm kiếm các thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới, nâng cao chất lượng cho các mặt hàng xuất khẩu.
  • Phấn đấu đạt tổng kim ngạnh xuất khẩu 5 năm tới đạt 114 tỷ USD, trong đó nhóm hàng nông lâm thuỷ sản chiếm 30 % tổng kim ngạch XK, tăng bình quân hàng năm 16,2 %.

+ Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2010-2020.

Để thực hiện chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội nói chung và định hướng phát triển kinh tế đối ngoại nói riêng của Đại hội Đảng IX, ngày 27tháng 10 năm 2000, Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị số 22/2000/CT-TTg về chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ thời kỳ 2001-2010. Chỉ thị khẳng định: “ Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ thời kỳ 2001-2010, nhất là xuất khẩu phải là chiến lược tăng tốc toàn diện, phải có những khâu đột phá với bước đi vững chắc… tiếp tục chủ trương dành ưu tiên cao nhất cho xuất khẩu” Chỉ thị nêu rõ:

  • Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ thời kỳ 2001-2010 phải đạt mức tăng trưởng bình quân từ 15%/năm trở lên… phấn đấu cân bằng cán cân thương mại vào những năm 2009-2010 và xuất siêu vào thời kỳ sau 2010.
  • Giảm xuất khẩu hàng chế biến thô, tăng tỷ trọng hàng chế biến sâu bằng công nghệ mới…
  • Đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu trực tiếp vào các thị trường có sức mua lớn như Mỹ, EU…

Nhu cầu nhập hàng nông sản vào thị trường Mỹ.

Thị trường Mỹ là một thị trường nhập khẩu mới, đầy tiềm năng đối với hàng hoá nói chung của Việt Nam. Căn cứ vào thực trạng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Mỹ trong thời gian qua, căn cứ vào định hướng chiến lược phát triển xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010, đặc biệt, căn cứ vào chính sách chế độ qui chế điều tiết hoạt động XNK giữa hai nước đã đạt được thoả thuận trong Hiệp Định Thương Mại song phương có thể dự báo rằng, riêng đối với thị trường này, kim ngạnh hàng hoá Việt Nam xuất sang Mỹ sẽ tăng 15% hàng năm trong ba năm đầu (sau khi Hiệp Định có hiệu lực) và 18% cho ba năm tiếp theo và giữ ở vị trí tăng lên 15% cho đến hết năm 2010.

Bảng 1: Dự báo tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Mỹ

Đơn vị tính: %

Năm 2000 2001-2004 2005-2007 2008-2010
Tốc độ tăng trưởng bình quân liên hoàn (%) 8 15* 18* >15

Nguồn: (Báo cáo Thương Vụ Việt Nam tại Mỹ)

Ghi chú: (*) là tốc độ tăng trưởng bình quân cho mỗi năm của cả thời kỳ 3 năm

Nhu cầu về các mặt hàng nông sản trên thị trường Mỹ

  • Cà phê:Tổng nhập của Mỹ đối với các loại cà phê năm 2000 là 3,726 tỷ USD năm 2001 tăng lên 3,928 tỷ USD. Dự kiến trong 10 năm nữa, nhu cầu nhập khẩu của Mỹ sẽ tăng khoảng 10%/năm ( Báo cáo Thương vụ Việt Nam tại Mỹ). Nhu cầu tiêu dùng cà phê của Mỹ rất cao khoảng 17,8 triệu bao (bao 60 ký) năm 2000 18 triệu bao năm 2001 và còn tiếp tục tăng trong những năm tiếp theo. Hàng năm Mỹ chỉ sản xuất được khoảng 250000 bao tức 15000 tấn/năm. Nếu giá cả và chất lượng cạnh tranh tốt các doanh nghiệp Việt Nam có thể tăng xuất khẩu vào Mỹ theo nhu cầu của thị trường, ít nhất với mức tăng bình quân (10-15%/năm), đạt khoảng 350 triệu USD vào năm 2010.
  • Hạt tiêu: Hàng năm Mỹ nhập khẩu số lượng khá lớn hạt tiêu chưa xay và đã xay. Trên thế giới nhập khẩu 202 ngàn tấn, trị giá khoảng 931 triệu USD, trong đó Mỹ nhập khẩu 43,3 ngàn tấn (22% thị phần) khoảng 198 triệu USD. Mặt hàng này Việt Nam thâm nhập vào Mỹ chậm hơn cà phê, nhưng từ những năm tới, khả năng tăng xuất khẩu mặt hàng này sẽ cao vì Trung Quốc và Tây Ban Nha, những nước hiện đang đứng trên Việt Nam về XK mặt hàng này lại không có nhiều hạt tiêu như Việt Nam.
  • Hạt điều: Thị trường Mỹ cũng tiêu thụ mạnh loại mặt hàng này dưới dạng thô và chế biến. Từ năm 1996, Việt Nam có điều xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Năm 2001 đạt 32,48 triệu USD ở mặt hàng điều, đứng thứ ba sau Ấn độ và Brazil trên thị trường Mỹ.
  • Chè các loại: Hàng năm Mỹ nhập khẩu các loại chè xanh và đen, trung bình 130 triệu USD/ năm. Giai đoạn 2000-2010, Việt Nam có thể tăng đều đặn 20%/năm nếu tăng được xuất khẩu trực tiếp và có thể đạt 3 triệu USD vào năm 2010.
  • Các mặt hàng gia vị
0