18/06/2018, 12:44

Thanh Hoá - Lễ hội Rước Nước

Bồng Thượng là một làng cổ của xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc. Theo tư liệu khảo cổ của Viễn đông Bác cổ khai quật vào thế kỷ XX ở khu di chỉ Đa Bút (Vĩnh Tân) đã có kết luận bộ xương người tìm được thì cách đây 6.500 năm đã có cư dân sinh sống. Hiện nay, Bồng Thượng là một làng lớn có dân số ...

Bồng Thượng là một làng cổ của xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc. Theo tư liệu khảo cổ của Viễn đông Bác cổ khai quật vào thế kỷ XX ở khu di chỉ Đa Bút (Vĩnh Tân) đã có kết luận bộ xương người tìm được thì cách đây 6.500 năm đã có cư dân sinh sống. Hiện nay, Bồng Thượng là một làng lớn có dân số 5.000/7.500 người cả xã.

Dân cư bố trí ở theo 7 ngõ (ngày nay gọi là thôn), năm ngõ nội đê, hai ngõ ngoại đê ở thế bốn góc chữ điền hướng ra dòng sông Mã. Sau làng là đồng, có núi Hùng Lĩnh, núi Báo làm thế tựa vững chắc. Theo truyền ngôn, một thầy địa lý Trung Quốc đến vùng đất này đã nói: “Vạn thủy thiên sơn giai triều phục” và tiên tri vùng đất này sẽ phát tích sinh vương hầu khanh tướng. Không biết từ bao giờ làng Bồng Thượng đã có câu: “Mạch tòng Hùng Lĩnh trung linh khí/Thế xuất công hầu tráng đế hương”.

Núi Báo làng Bồng Thượng có dược liệu nổi tiếng đó là “Sâm báo” các vua chúa phong kiến đặt cho sâm Báo làng Bồng Thượng cái danh “Đại việt đệ nhất danh sâm” Nghiên cứu sự hình thành làng Bồng Thượng có ba tên gọi khác nhau: Làng Biện Thượng xuất hiện năm 886, làng Báo xuất hiện đầu thế kỷ thứ X gắn với tên gọi chùa Báo Ân. Làng Bồng Thượng xuất hiện thời vua Minh Mạng (1820 - 1840). Là một làng cổ nên có truyền thống văn hóa khá nổi tiếng. Các danh nhân qua các thời đại của xã Vĩnh Hùng đều tập trung ở làng Bồng Thượng.

Thái Vương Trịnh Kiểm và 11 chúa Trịnh nối nhau điều hành đất nước 243 năm (1545 - 1788): Trạng nguyên Trịnh Tuệ thời vua Lê Hiển Tông 1736, Quốc Công Hoàng Đình Ái thời Lê Trung Hưng, Đường Công Lê Quang Lộc thời vua Lê Tương Dực (1509 - 1516): Quận Công Hoàng Đình Phùng thời Lê Trung Hưng, Tiến sĩ Trịnh Khắc Tụy năm 1442 thời vua Lê Thánh Tông, Tiến sĩ Lê Đăng Phụ (1662 - 1731) thời vua Lê Huy Thông, Nữ học giả Trịnh Thị Ngọc Trúc chính cung hoàng hậu của vua Lê Thần Tông (1619 - 1643), Đề Giơi là phó tướng cho Tống Duy Tân trong phong trào Cần Vương.

Bồng Thượng cũng là vùng đất có nhiều di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng, 6 di tích được nhà nước xếp hạng quốc gia, cấp tỉnh đều nằm trong đất làng. Bồng Thượng đó là các di tích quốc gia: Phủ Trịnh, Nghè Vẹt, đền thờ Quốc Công Hoàng Đình Ái.

Di tích cấp tỉnh: đền thờ Quận Công Hoàng Đình phùng, đền thờ Đường Công Lê Quang Lộc và chùa Báo Ân.

Thành hoàng làng Bồng Thượng là Trịnh Ra tức là Quản gia Đô Bác Vương – ông mất ngày 14/11 (âm lịch) bài vị ông được thờ ở di tích Nghè Vẹt. Làng Bồng Thượng có nhiều lễ hội lớn in đậm truyền thống văn hóa còn lưu giữ đến ngày nay. Lễ hội Ky Thần ngày 14/11 (âm lịch) tại Nghè Vẹt. Lễ hội đánh chuột (hiện không còn – khu lễ hội đã bị phá thời bao cấp và có quốc lộ 217 chạy qua). Gần đây có lễ hội “Giỗ Thái Vương Trịnh Kiểm” vào 17, 18/2 (âm lịch).

Đặc biệt lễ hội “Rước nước” ở chùa Báo Ân với nhiều nghi lễ, với những chiếc thuyền rồng trên sông, với những giọng hát, điệu múa chèo thuyền giữa dòng sông Mã trong xanh đang được các nhà nghiên cứu văn hóa hết sức quan tâm. Chính dự án “khôi phục tiếng hát chèo thuyền trên sông” trong lễ hội đã được quỹ Ford tài trợ 75 triệu đồng năm 2005 để khôi phục lại.

Nói về nguồn gốc lễ hội này một nhà thơ đã viết: Hơn năm rồi em có biết không/Lễ “Rước nước” bắt nguồn từ lửa...Chùa Báo Ân được xây dựng ở chân núi Báo, nhìn ra sông Mã, lễ hội diễn ra trên phạm vi rộng, ven bờ sông Mã, trên dòng sông mã và khu vực chùa Báo. Lễ hội diễn ra trong 3 ngày, từ ngày 27 đến hết ngày 30 tháng 2 (âm lịch) hàng năm.

Tối 27/2 (âm lịch) khi làng xóm lên đèn thì tại chùa Báo Ân và bến sông Mã (bến đò Hoành) mọi người đèn nến sáng trưng cả một vùng sông nước. Những chiếc thuyền (bè) đã tập kết trên sông. Sau lời tuyên bố của già làng thuyền, bè, người được chở lướt trên mặt sông đến giữa dòng nước biếc gọi là vụng Quần Tiên. Thuyền hạ cây nêu giữa dòng sông gió lộng đèn nến lung linh. Giữa vùng cạnh cây nêu đặt một cây đèn to sáng hắt lên sông. Đoàn người vừa chèo thuyền quanh cây nêu vừa hát. Giữa đêm xuân tháng hai, gió mát nhẹ đưa lên từng gương mặt mỗi con người, những giọng hát văn, trống quân, hát đối đáp ngân lên vang vọng một khúc sông: Những chiếc đèn hoa sen được thả bạt ngàn trên sông (đoạn sông thả đèn trong vụng Quần Tiên có nhiều đá ngầm nên nước ở đây xoáy nhẹ chạy quanh rồi mới theo dòng xuôi về biển. Đứng trên dòng sông nhìn những đèn hoa sen hàng hàng lung linh sáng lập lờ trên sông nước về xuôi thật là đẹp – Một cái đẹp thanh cao tao nhã và thơ mộng. Đó là hội “Hoa đăng” trong lễ hội. Từ vịnh thuyền (hoặc bè) trở về bến Báo Ân hát bài hát dâng trên bến cô Ba, lên bờ lên tháp Viên Quang, vào chùa, bái phật, tạ Mẫu). Sau hội “Hoa đăng” từ 22 giờ đến 24 giờ đêm có lễ “Mục Dục” tại chùa (lễ tắm gọi là Mẫu).

Sáng ngày 28/2 âm lịch là lễ chính ở chùa Báo Ân đó là lễ hội “Rước nước”. Đoàn người được phân công chuẩn bị, ăn mặc lễ hội “Kiệu Mẫu” qua ngõ Vạn, lên ngõ Chùa, qua Nghè Vẹt lên chân núi Báo qua nền Trời đất, sang khe Mang cá đến nền “Rước bóng” về chùa.

Đoàn người rước kiệu Mẫu xong là đến phần “Rước nước”, trên bến Báo Ân đã tập kết 5 chiếc thuyền. Thuyền đi đầu là thuyền Rồng lớn gọi là thuyền Phật lấy nước. Thuyền thứ hai là thuyền Mẫu rất lớn. Thuuyền Rồng thứ 3 là thuyền các cô, các cậu. Thuyền thứ 4 nhỏ hơn là thuyền chỉ huy. Thuyền thứ 5 là thuyền giám sát việc lấy nước.Trên 3 thuyền rộng lớn mỗi thuyền có từ 8 đến 10 thủy thủ chèo thuyền: chiếc đầu tiên trở lọng vàng, cờ quạt, 12 nữ mặc áo tứ thân; đi hài trắng, trâm cài, đầu đội các mâm hoa quả, bình sứ hình quả bầu dục để đựng nước. Thuyền thứ 2 gọi là thuyền cô “ba Thoải” gồm các nữ ăn mặc lễ hội hát múa. Trên thuyền có phường bát âm đánh nhạc làm nền cho giọng hát, điệu múa. Số người có trên 5 chiếc thuyền có khoảng 90 đến 100 người.

Hai bên bờ sông Mã người đứng tham quan lễ hội đông đảo vô cùng. Đoàn thuyền chèo ra giữa sông Mã, qua hòn đá Bàn, vượt hòn đá Ngốc, rẽ lái sang ngang. Sau ba vòng lượn đến hòn đá giữa dòng sông thì cắm nêu dừng thuyền.Trong các ngày diễn ra lễ hội tại khuôn viên chùa tổ chức nhiều trò chơi dân gian truyền thống: So đẩy gậy, kéo co của chị em phụ nữ, cờ người, tổ tôm, bài đếm của các cụ cao niên.

Ngoài lễ hoa đăng, rước nước tối 29/2 âm lịch bước sang mùng 1/3 âm lịch có lễ tế tạ (ngày hóa của Mẫu)... Lễ hội “Rước nước” ở chùa Báo Ân xã Vĩnh Hùng là lễ hội mang đậm truyền thống văn hóa hàng ngàn năm thu hút khách thập phương đến dự lễ hội rất đông.

Hiện nay, nhằm thực hiện nghị quyết TW5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, lễ hội “Rước nước” ở chùa Báo Ân đang được chính quyền địa phương chỉ đạo, khôi phục, được các ngành chức năng quan tâm để lễ hội trở về nguồn gốc giá trị của nó.

Trong sự phát triển kinh tế du lịch huyện Vĩnh Lộc lễ hội “Rước nước” ở chùa Báo Ân, xã Vĩnh Hùng có ý nghĩa tác dụng tích cực không những đối với địa phương mà còn trong phạm vi toàn tỉnh Thanh Hoá.


0