24/05/2018, 19:04

Tác động của VAT đến kinh tế xã hội

Thông thường giá cả và lạm phát tăng hay giảm do nhiều yếu tố tác động, cả về kinh tế và xã hội. Trong cơ chế thị trường, quy luật cung cầu, quy luật giá trị cũng có tác động rất lớn đến giá cả và lạm phát. Do đó, nếu khẳng định việc ban hành ...

Thông thường giá cả và lạm phát tăng hay giảm do nhiều yếu tố tác động, cả về kinh tế và xã hội. Trong cơ chế thị trường, quy luật cung cầu, quy luật giá trị cũng có tác động rất lớn đến giá cả và lạm phát. Do đó, nếu khẳng định việc ban hành một hệ thống thuế nói chung và VAT nói riêng có tác động đến mức nào với giá cả, lạm phát, thường là khó xác định.

Có người cho rằng, việc ban hành thuế GTGT sẽ làm tăng giá cả và lạm phát. Tuy nhiên ở nhiều nước, trong quá trình nghiên cứu ảnh hưởng của thuế GTGT đối với giá cả và lạm phát, người ta đã đi đến kết luận là đến nay, chưa có căn cứ khoa học nào để khẳng định rằng bản chất thuế GTGT có thể gây lạm phát. Nếu có ảnh hưởng nào đó của thuế GTGT đến giá cả, thì những ảnh hưởng này sẽ chỉ là một phần, chứ không thể là tất cả.

Về lý thuyết, thuế GTGT thuộc loại thuế gián thu, một yếu tố cấu thành trong giá.

Vì vậy, việc ban hành thuế GTGT có liên quan và tác động trực tiếp đến giá cả là tất nhiên. Vấn đề cần được xem xét là trên thực tế, đối với từng ngành nghề, từng loại sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cũng như trên toàn cục của nền kinh tế, việc ban hành thuế gián thu nói chung, VAT có ảnh hưởng đến giá cả trong phạm vi rộng hay hẹp, đến khu vực sản xuất hoặc khu vực khác như thế nào còn tuỳ thuộc vào mức độ thuế suất, nội dung và tổ chức thực hiện có phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội, với trình độ dân trí ... hay không?

Về nguyên tắc, khi thay thế thuế doanh thu bằng thuế GTGT với mức động viên cuối cùng như nhau thì ảnh hưởng của thuế GTGT ngang với ảnh hưởng của thuế doanh thu đối với giá. Tuy vậy, nếu nhà nước không có biện pháp quản lý, kiểm tra giá cả, để cho các cơ sở kinh doanh lợi dụng, vin vào thuế mới để tăng giá thì vô hình trung, giá cả sẽ có tác động xấu.

Khi áp dụng thuế GTGT thì giá cả hàng hoá Dịch vụ nhìn chung có khuynh hướng tăng lên sở dĩ xảy ra hiện tượng này là do sự không am hiểu hoặc cố tình không hiểu về thuế GTGT. Bởi vì, việc thực hiện thuế doanh thu trải qua một thời gian khá dài, đã ăn sâu vào tiềm thức của con người tiêu dùng. Cho dù thuế doanh thu là thuế gián thu, song được tính chung vào trong giá bán hàng hoá Dịch vụ nên người tiêu dùng khó nhận biết được mình chính là người chịu thuế còn các doanh nghiệp bán hàng chỉ là người thu hộ cho nhà nước mà họ luôn cho rằng đây là khoản thuế đánh vào các doanh nghiệp do vậy áp dụng thuế GTGT thay thế cho thuế doanh thu, mặc dù nó cũng là một loại thuế gián thu đánh vào người tiêu dùng song cơ chế hạch toán thay thế, có nghĩa là thuế GTGT được tách ra khỏi giá bán hàng hoá, Dịch vụ. Điều này khiến cho người mua hàng thấy rõ khopản thuế của mình phải nộp cho nhà nước nên họ cảm giác mình phải nộp một loại thuế mới mà trước đây khi mua hàng họ không phải chịu và đóng góp. Lợi dụng yếu tố này các doang nghiệp đã nâng giá bán hàng hoá Dịch vụ lên để trục lợi và có khả năng làm gia tăng lạm phát thất thoát thu hẹp thị trường tiêu dùng hạn chế khả năng đầu tư vốn của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Do vậy làm quy mô hoạt động của các doanh nghiệp bị thu hẹp làm cho cơ cấu kinh tế bị biến động chuyển dịch mất cân đối, tốc độ tăng trưởng có khả năng suy giảm.

Tình hình lạm phát ở từng nước sảy ra thường do nhiều nguyên nhân trong đó có các nguyên nhân khá quan trọng về sự phát triển chậm hay giảm sút về kinh tế do chính sách vĩ mô hay điều hành của nhà nước; kinh tế không cân đối được thu chi, thu không đủ chi; do tác động của giá cả vì giá cả vừa là nguyên nhân nhưng cũng vừa là hậu quả của lạm phát, vì vậy không thể đánh giá tác động cụ thể của chính sách thuế GTGT một cách riêng rẽ. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng nếu việc cải cách chính sách thuế nói chung thuế GTGT nói riêng phù hợp với quy luật phát triển kinh tế thị trường, sẽ có tác động tích cực tới phát triển kinh tế bảo đảm nguồn thu ngân sách, do đó sẽ có tác động tốt, ngăn chặn hay hạn chế lạm phát. Ngược lại, nếu đưa ra mức thuế quá cao hay quá thấp sẽ có ảnh hưởng đến kết quả thu ngân sách và lạm phát.

Việc đánh gía tác động của chính sách thuế GTGT đến lạm phát không thể xem xét một cách phiến diện, cục bộ, mà phải được phân biệt một cách khách quan, toàn diện, cục bộ mà phải được phân biệt một cách khách quan, toàn diện khoa học trong mối quan hệ với khu vực quốc tế trong từng thời kỳ nhất định xấu.

Tóm l ại, chính sách VAT cũng có những tác động tới giá cả và lạm phát nhất định nhưng nếu nhà nước là những người quản lý có những biện pháp kiểm tra, quản lý thì giảm mức độ tác động xấu tới giá cả và lạm phát và tới nền kinh tế xã hội.

Thuế GTGT có thể tạo nguồn thu ngày tăng cho NSNN, thông qua việc mở rộng và bao quát diện đánh thuế đối với mọi hoạt động nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh dịch vụ.

Mặt khác, VAT bảo đảm việcthu tập trung phần lớn số thuế đánh vào từng sản phẩm hàng hoá ngay từ khâu đầu, đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn, có khả năng hạn chế thất thu ngân sách tốt hơn thuế doanh thu. Việc thu thuế khấu trừ và khấu trừ lại dựa trên hoá đơn chứng từ thúc đẩy việc mua bán có hoá đơn làm cho việc thu thuế sát với thực tế kinh doanh. Và thất thu ở khâu trước sẽ được khắc phục ở khâu sau. Tuy nhiên cũng không thể xây dựng mức thuế suất thuế GTGT quá cao, gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp, tác động không tốt tới hoạt đông sản xuất kinh doanh và đến NSNN.

Vào thời điểm luật thuế GTGT được phê chuẩn, cuộc khủng hoảng kinh tế tiền tệ chưa sảy ra trầm trọng. Sự cố phát sinh này nằm ngoài ý muốn của các nhà làm luật Việt Nam và ảnh hưởng lớn đến quyết định về triển khai áp dụng thuế GTGT. Vì thế yêu cầu được đặt ra là phải đảm bảo ổn định thu NSNN, ổn định kinh tế vĩ mô ...

Thực tế khi áp dụng VAT, một loại thuế hoàn toàn mới, nên các đối tượng liên quan chưa thông, nếu chưa được chuẩn bị kỹ, chắc chắn sẽ gây biến động tới thu NSNN. Nếu thu NSNN không đạt yêu cầu, bội chi sẽ tăng, việc điều hành ngân sách càng khó khăn, lúng túng. Và sẽ dẫn đến bất ổn định vị mô. Ngược lại, nếu như có chuẩn bị kỹ càng, có tập dượt sâu rộng trước khi triển khai áp dụng, trong quá trình thực hiện có sự kiểm tra, quản lý chính sách phù hợp, thích hợp với đặc điểm của kinh tế thị trường, thì thuế GTGT có thể tạo số thu cho NSNN một cách tích cực, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu và xây dựng các mức thuế suất hợp lý, bảo đảm số thuế GTGT tương đương hoặc cao hơn một chút so với thuế doanh thu, sẽ mang tính khả thi hơn.

Qua đây, ta mới thấy VAT cũng có mặt tích cực và tiêu cực đối với thu NSNN.

Cả hai mặt đều ảnh hưởng tới NSNN. Tác độngtiêu cực hay tích cực, nhiều hay ít là phụ thuộc vào việc điều hành và quản lý thuế GTGT.

Về mặt lý thuyết thuế GTGTlà đơn giản và trung lập về kinh tế, nhưng trong thực tế, việc triển khai hạch toán và kiểm tra thuế GTGT tại từng doanh nghiệp không phải là công việc đơn giản. Thật vậy, nếu trước đây, kế toán doanh nghiệp và cán bộ thuế chỉ cần lấy doanh thu nhân với mức thuế suất x% là ra ngay kết quả cần tìm, thì khi áp dụng luật thuế mới, nhiều khi cả doanh nghiệp và cơ quan thuế phải ngồi xác định đâu là thuế đầu vào, thuế đầu ra thuế được khấu trừ, thuế không được khấu trừ ... khối lượng công việc này thật là khổng lồ.

Trên thực tế, thuế GTGT cũng ít nhiều ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm. Điều đó sẽ kéo theo nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong cạnh tranh và quyết định giá bán. Đặc biệt, trong bối cảnh đang còn nhiều khó khăn về tổng cầu trong nền kinh tế, cứ bán theo giá cũ đã khó huống chi phải chịu áp lực tăng giá. Doanh nghiệp rơi vào các vòng luẩn quẩn: hông bán được hàng hoặc không thu hồi được vốn dẫn đến không tái sản xuất được, không đổi mới được công nghệ hoặc không hạ được giá thành và không tăng được chất lượng sản phẩm đãn tới hàng hoá lại càng ứ đọng, không bán được ... nguyên nhân là do có sự hiểu lầm về thuế GTGT:

Do "hiệu ứng tâm lý", xuất phát từ nhận thức không đồng đều và tác động của việc thay thuế GTGT cho thuế doanh thu kéo theo cách thức sử lý khác nhau trong chiến lược thương mại, dẫn đến bất bình đẳng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Hiện tượng này sẽ chấm dứt khi thuế GTGT được phổ biến rộng rãi và kỹ lưỡng.

Việc áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam có gây ảnh hưởng trực tiếp đén các doanh nghiệp hoạt động nhập khẩu vì hàng nhập khẩu phải chịu thêm thuế này ngoài thuế nhập khẩu hiện hành.

Mặt khác, những quy định về thời hạn và số tiền phải hoàn lại cho các doanh nghiệp có số thuế GTGT phải nộp âm cũng là một vấn đề cần được quy định cụ thể, công khai chấp hành nghiêm chỉnh, nhất là về phía nhà nước. Nhằm tránh các rủi ro về vốn, rủi ro về lãi suất hoặc tỷ giá cho các doanh nghiệp này khi họ phải ứng ra một số vốn lớn để thanh toán VAT khi mua hàng hoá nhập khẩu hàng hoá.

Nếu các doanh nghiệp, những tế bào của nền kinh tế, chịu ảnh hưởng sấu phát sinh từ việc áp dụng thuế mới này nền kinh tế lại càng khó phục hồi khi đó những mục tiêu lớn cũng khó mà thực hiện được. Nhưng VAT cũng có tác động tốt tới doanh nghiệp nếu như mức thuế suất áp dụng cơ chế thực hiện thích hợp tạo động lực cho doanh nghiệp phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đồng thời cũng là phát triển sản xuất nói chung.

0