Suy nghĩ về ý kiến của Nguyễn Đình Thi “Văn nghệ phụng sự kháng chiến …”
Đề bài: Trong bài Nhận đường Nguyễn Đình Thi viết: Văn nghệ phụng sự kháng chiến, nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới. Sắt lửa mặt trận đang đúc nên nền văn nghệ mới của chúng ta. Anh chị hãy bày tỏ suy nghĩ về ý kiến trên. Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) quê ở Hà Nội. ...
Đề bài: Trong bài Nhận đường Nguyễn Đình Thi viết: Văn nghệ phụng sự kháng chiến, nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới. Sắt lửa mặt trận đang đúc nên nền văn nghệ mới của chúng ta. Anh chị hãy bày tỏ suy nghĩ về ý kiến trên. Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) quê ở Hà Nội. Ông là một trong những thành viên đầu tiên của tổ chức Văn hóa cứu quốc do Mặt trận Việt Minh thành lập từ năm 1943 và hăng hái tham gia Cách mạng tháng Tám 1945 ...
Đề bài: Trong bài Nhận đường Nguyễn Đình Thi viết: Văn nghệ phụng sự kháng chiến, nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới. Sắt lửa mặt trận đang đúc nên nền văn nghệ mới của chúng ta. Anh chị hãy bày tỏ suy nghĩ về ý kiến trên.
Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) quê ở Hà Nội. Ông là một trong những thành viên đầu tiên của tổ chức Văn hóa cứu quốc do Mặt trận Việt Minh thành lập từ năm 1943 và hăng hái tham gia Cách mạng tháng Tám 1945 tại Hà Nội, lật đổ ách thống trị tàn bạo của phong kiến, thực dân, giành chính quyền về tay nhân dân, mở ra kỉ nguyên mới độc lập, tự do của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cuối năm 1946, thực dân Pháp trở mặt tái chiếm nước ta. Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nguyễn Đình Thi cùng đông đảo văn nghệ sĩ đã rời Thủ đô lên chiến khu Việt Bắc, đóng góp sức mình vào công cuộc kháng chiến gian khổ và ác liệt để bảo vệ chủ quyền độc lập, tự do thiêng liêng mà dân tộc ta phải đổ bao xương máu mới giành lại được. Trong bài Nhận đường, Nguyễn Đình Thi đã khẳng định vai trò to lớn của cuộc kháng chiến đối với sự thay đổi nhân sinh quan, thế giới quan của tầng lớp văn nghệ sĩ và quá trình phát triển của nền văn nghệ mới: Văn nghệ phụng sự kháng chiến, nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới. Sắt lửa mặt trận đang đúc nên nền văn nghệ mới của chúng ta.
Giữa những năm đầu bộn bề gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta vẫn quan tâm xây dựng một nền văn nghệ mới đậm đà tính dân tộc và đại chúng. Trong một lần gặp gỡ với các văn nghệ sĩ ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chủ tịch nhấn mạnh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Thấm nhuần lời dạy của Bác, các văn nghệ sĩ sử dụng ngòi bút của mình giống như khẩu súng của người lính ngoài mặt trận. Họ luôn có mặt ở những điểm nóng, những trận đánh ác liệt… và họ dã tìm thấy trong cuộc sống sản xuất, chiến đấu gian khổ nhưng hào hùng của dân tộc nguồn cảm hứng mãnh liệt, giúp họ sáng tạo nên những tác phẩm làm rung động trái tim người đọc.
Văn nghệ phụng sự kháng chiến bởi văn nghệ là một bộ phận hữu cơ của kháng chiến, được coi là phương tiện tuyên truyền hữu hiệu, là vũ khí sắc bén góp phần tiêu diệt quân thù. Tiếng nói của văn nghệ luôn gắn bó với đời sống phong phú, sôi nổi của quân dân ta đang hăng say sản xuất và chiến đấu. Cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc tác động rất lớn tới việc nhận đường của tầng lớp văn nghệ sĩ. Phần lớn văn nghệ sĩ đã chọn con đường cách mạng, con đường kháng chiến mà Đảng và Bác là người dẫn đường chỉ lối. Khi vận mệnh quốc gia lâm vào tình thế ngàn cân treo sợi tóc, văn nghệ sĩ phải hướng ngòi bút của mình đến những đề tài nóng bỏng nhất, cấp thiết nhất liên quan tới số phận của cả dân tộc. Đó là chủ đề kháng chiến và số phận của cộng đồng. Đối với họ, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể này thi mọi lo lắng, băn khoăn về “cái tôi”, về hạnh phúc cá nhân đều bị đẩy lùi ra đằng sau. Trước mắt họ là sự nghiệp kháng chiến cứu nước đòi hỏi trách nhiệm của mỗi công dân.
Nguyễn Tuân, nhà văn nổi tiếng trước Cách mạng tháng Tám 1945 với các tác phẩm như Thiếu quê hương, Vang bóng một thời… lúc đó cũng ba lô trên vai, hăm hở tham gia các chiến dịch để viết nên Tùy bút kháng chiến. Tô Hoài in dấu chân trên khắp các nẻo đường chiến khu Việt Bắc để cùng chung sống với đồng bào các dân tộc thiểu số, lấy chất liệu sáng tác nên tập Truyện Tây Bắc phản ánh sinh động cuộc sống nghèo khổ, tối tăm của đồng bào miền núi dưới chế độ thực dân, phong kiến và quá trình chuyển biến tư tưởng, tình cảm của họ khi đã được giác ngộ cách mạng, giác ngộ kháng chiến. Có thể coi truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là tác phẩm thành công nhất, đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp sáng tác của tác giả, đồng thời là mốc son của nền văn nghệ mới.
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.
Không đêm nào vui bằng đêm nay
Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực
Trên đất nước, như huân chương trên ngực
Dân tộc ta, dân tộc anh hùng!…
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt.
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn !
Những đồng chí thân chân làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt còn ôm…
Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sống Lô, hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca…
(Ta đi tới – Tố Hữu)
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em vẫn là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.
(Núi đồi, Vũ Cao)
Rắn như thép, vững như đồng
Đội ngũ ta trùng trùng điệp điệp
Cao như núi, dài như sông
Chí ta lớn như biển Đông trước mặt!
(Ta đi tới –Tố Hữu)