18/06/2018, 15:40

Sự khủng hoảng của Hồi giáo

“The Crisis of Islam” của Bernard Lewis Võ Văn Lượng dịch Dẫn nhập Tổng thống Bush và các chính khách phương Tây đã khá chật vật để chỉ ra rằng cuộc chiến mà nước Mỹ đang tham gia là cuôc chiến chống lại chủ nghĩa khủng bố – ...

b-315595-Mekke_Kabe

“The  Crisis  of Islam”của Bernard Lewis 

Võ Văn Lượng dịch

Dẫn nhập   

      Tổng thống Bush và các chính khách phương Tây đã khá  chật vật  để chỉ ra  rằng  cuộc chiến mà nước Mỹ đang tham gia  là  cuôc chiến chống lại chủ nghĩa khủng bố –   chứ không phải là   chống người À  rập  , hoặc nói rộng hơn là  chống  lại người   Hồi giáo  , là  những người  được khuyến  khích  cùng  chung sức  với  chúng ta   trong  cuộc chiến chống   kẻ thù   chung .  Nhưng thông điệp của Usama bin Ladin  thì  khác hẳn . Đối với bin Ladin   và những người theo ông ta  đây là  1  cuộc  chiến  tôn giáo ,  1 cuộc chiến  của người   Hồi giáo chống lại những  kẻ vô đạo , và  vì thế đương nhiên là chống  lại nước Mỹ , cuờng quốc lớn nhất  trong thế giới  của những  kẻ vô đạo .

      Trong   các  tuyên bố của mình , bin Ladin  luôn  luôn  dẫn chứng lịch sử . Một trong những  dẫn chứng  gây  ấn tượng nhất   được nêu trong  cuốn  băng video  ngày 7/10/2001 , về”sự ô nhục  và  tủi  hổ”mà đạo Hồi   đã  phải gánh chịu  trên 80 năm  qua”. Đối với   bối cảnh  Trung đông  , đa số   các nhà  quan sát người Mỹ –  và đương nhiên , có người Âu – bối rối  bắt đầu tìm hiểu  cái gì  đã  xảy ra”trong  hơn 80  năm trước”  và  cuối cùng đưa ra  nhiều câu trả lời  khác nhau . Chúng ta có thể tin phần nào  là  những đối tượng  của bin Ladin hiểu rõ   ngay  ý nghĩa   những lời  nói  bóng gió  này  . 

arabie

Vào năm  1918 , đế quốc  Ottoman , là  đế quốc cuối cùng của   các đế quốc  Hồi giáo hùng mạnh   bị đánh bại –  thủ đô Constantinople bị chiếm đóng ,  quốc vương  bị   bắt giữ và  phần  lớn  lãnh thổ bị các đế quốc thắng trận (Anh  và Pháp )  xâu  xé .  Các tỉnh  nói tiếng  A-rập thuộc  đế quốc Ottoman trước kia  ở vùng Lưỡi liềm  phì  nhiêu   bị   phân chia ra thành các thực thể mới ,  với  tên gọi  và biên giới mới . 2 trong   số những tỉnh này , Iraq và Palestine,  được đặt   dưới  quyền  ủy trị   của Anh ,  còn   tỉnh thứ 3 , Syria , thì giao cho Pháp . Sau  này , nước Pháp lại chia nhỏ Syria  ra làm  2  phần , một phần  gọi là Liban , còn phần  kia  vẫn giữ tên Syria . Ngưòi  Anh cũng chia Palestine ra làm  2  vùng   nằm vắt 2  bên bờ sông  Jordan  ; bờ tây  thì  vẫn giữ lại  tên Palestine , còn   phần bên  kia mang  tên Cisjordan .

      Bán đảo Ả -rập, chủ yếu  toàn núí   và  các vùng  sa mạc  khô cằn  và  hiểm trở , lúc  đó   được coi như  chẳng   bỏ công  chiếm đóng , cho nên  được  phép  giữ lại nền độc lập bấp bênh   và  chẳng nhiều nhặn gì .  Người Thổ (Turkey,   cuối cùng  cũng  giải phóng  được  quê hương của họ   tại cao nguyên Anatolia ,  không  phải   bằng  ảnh hưởng Hồi giáo   mà  do  phong trào  quốc gia  thế tục   do  Mustafa Kemal , một   tướng lãnh  Ottoman  được biết nhiều hơn  dướí tên Kemal Ataturk .  Ngay   cả khi  viên tướng   này chiến đấu  thành công để giải phóng  Thổ nhỉ kỳ khỏi  sự thống trị của phương Tây , ông ta cũng bước đầu  chấp nhận các  đường  lối  Tây phương , hoặc  theo  đường lối cách tân của ông ta   . Một trong những  đạo luật đầu tiên ông  ban hành   vào  tháng  11/1922  ,  là  bãi  bỏ nhà  nước  sultan . 

      Quốc vương  Ottaman   không những chỉ là  1 sultan ,  người cai trị   của  1  đất nưóc   cụ thể ,  mà còn được  rộng rãi  thừa nhận  là  Caliph  ,  tức là  người  đứng  đầu  của  tất cả người Hồi giáo Sunni ,    và là người cuối cùng  của 1   dòng dõi quân vương   được  hình thành sau  khi  Tiên tri Muhammad  chết  vào năm 632 CN , và   việc bổ nhiệm   người kế vị Ngài , không những chỉ là người đứng đầu về tinh thần  mà còn là người đứng đầu  về tôn giáo và  chính trị   của 1  nhà nước và  của cộng đồng Hồi giáo .  Sau 1 thời gian  ngắn   thực hiện việc chế độ   Caliph  tách biệt  với nhà nước,  cuối cùng vào tháng 3/1924  người Thổ     bãi bỏ hẳn chế độ Caliph   . 

      Trong suốt 13 thế kỳ , chế độ Caliph  đã trải qua  nhiều thăng trầm , nhưng nó  vẫn còn  là 1  biểu tượng mạnh mẽ   cho  sự thống nhất  , thậm chí  là 1 bản sắc  Hồi giáo ; tòan thể thế giới  Hồi giáo   cảm nhận sự   biến mất của nó  dưới  2 mặt  tấn công của đế quốc ngọai  bang   cùng với những  kẻ cách tân   trong nước  . Nhiều  quốc vương  và   lãnh đạo   Hồi giáo  có đưa ra một  số cố gắng cầm chừng  để dành  cái   tước hiệu  bỏ trống đó  , nhưng  chẳng đựơc  ủng  hộ bao nhiêu .  Nhiều người Hồi giáo   vẫn còn  trăn trở về sự thiếu vắng này , và  có người cho rằng  chính  Usama bin Ladin  –  đã – hoặc  đang – có  ước vọng  muốn   dành chức Caliph.

      Danh từ Caliph đi  từ tiếng Ả -rập  khalifa ,   có ý nghĩa vừa là”người thừa  kế” và “người  phụ tá”.  Lúc đầu , người  đứng đầu   cộng đồng Hồi giáo là “khalifa  của  đấng tiên tri  của Thượng đế”. Một  số người  có   nhiều tham vọng  hơn , đã rút ngắn tên gọi   thành”Khalifa của  Thượng đế”. Luận điệu đòi uy quyền tinh thần   này đã  bị chỉ  trích nhiều   và  dần  dần bị bỏ đi ,  và   các nhà lãnh đạo Hồi giáo lại sử dụng rộng rãi  một danh  xưng tuy  vẫn như cũ  nhưng ý nghĩa có phần  nhẹ hơn là”Cái bóng của  Thượng đế trên mặt  đất”. Trong  phần  lớn  lịch sử của định chế này ,  những người nắm  quyền Caliph    thỏa  mãn với   1  danh  xưng   khiêm  tốn hơn ,   Almir al-Mu’mmin , thương được   dịch là  Đấng  Thống lãnh   của  các tín đồ”  

      Những  ẩn dụ lịch sử do  bin Ladin nêu ra , có thể là  khó hiểu   đối với  nhiều người Mỹ , lại  khá  phổ biến   đối với người  Hồi giáo , và   chỉ có thể hiểu   đúng  trong khuôn khổ   các nhận thức  về bản sắc  ( identity ) của   vùng Trung  đông  , và đặt trong  khung  cảnh lịch sử của  vùng Trung đông .  Ngay cả cái   quan  niệm  về   lịch sử và  bản sắc  cũng cần  phải được định nghĩa lại  để cho người  phương tây   muốn    hiểu rõ   vùng  Trung đông  hiện tại . Theo kiểu  nói tiếng  Mỹ hiện  nay  , thì  câu” đó là lịch sử” được sử dụng rộng  rãi để gạt bỏ những cái gì  không quan trọng , không  liên quan  đến những  điều   quan tâm  hiện tại ,  và  nhưng   trong tình hình hiện  nay , mặc dù   việc dạy sử   và viết sử đã  được đầu tư khá nhiều , nhưng mức kiến thức  chung về lịch sử của  xã hội Mỹ phải nói là cực kỳ thấp .Trong  khi  đó , các dân tộc  Hồi giáo , cũng  giống  như mọi người khác trên thế giới ,  đều được  lịch sử nhào nặn , nhưng  không như những người khác  ,  họ lại  có  ý thức  sắc  sảo  về lịch sử .  Tuy  nhiên , ý thức   của họ bắt nguồn từ lúc đạo Hồi mới khởi  phát ,  có lẽ có chút ít liên quan đến  các  thời kỳ trước Hồi giáo , cần thiết để giải thích   những ẩn dụ lịch sử trong  kinh Qu’ran   và  trong các  truyền thuyết  và biên   niên Hồi giáo sơ kỳ .  Đối với người  Hồi giáo , thì lịch sử Hồi giáo  có ý nghĩa  quan trọng  về mặt tôn  gíao  và về luật pháp nữa , bởi vì  nó phản ánh ý đồ của   Thượng đế cho cọng  đồng của Người –  là những ai chấp nhận lời giáo huấn Hồi giáo   và tuân  thủ các luật lệ của đạo này . Lịch  sử của  các  nước và  các dân tộc  không  phải – Hồi giáo  không có  nội dung này   và vì thế   đối với người Hồi giáo , không  hề có chút giá trị   hoặc điều gì đáng  chú  ý  gì   cả . Ngay cả đến các  quốc gia  có những nền  văn minh  cổ đại   giống như  thế tại   vùng  Trung đông ,   sự hiểu biết  về lịch  sử của kẻ khác đạo ( pagan history ) –  về tổ tiên  của  họ những  người đã lưu truyền đền  đài và chữ viết   khắp nơi – cũng chỉ là phần  rất nhỏ .Các ngôn ngữ và chữ viết cổ đại   đều bị quên lãng ,  các  tài liệu cổ xưa  bị chôn vùi   cho tới  khi chúng được   các nhà  khảo  cổ và ngữ học phương tây có óc tìm tòi  phát hiện   và giải mã  gần đây  . Nhưng  từ khi Hồi giáo xuất hiện  ,  các dân  tộc  Hồi giáo  đã hình thành  1 nền văn chuơng lịch   sử phong phú và  dồi  dào –  thật vậy ,  tại nhiều  nơi , ngay cả   tại các quốc gia  có nền  văn minh cổ đại   như  Ấn độ ,  thì những   trang lịch sử nghiêm túc  chỉ   ra đời sau  khi  đạo Hồi du nhập .   

      Nhưng  lịch sử về cái gì ?.  Trong  thế giới  phương Tây , đơn vị cơ bản của  1  tổ chức  con người  là quốc gia ( nation ) ,    mà theo thông lệ ở Mỹ chứ không phải  theo châu Âu  , thì  hầu như  đồng nghĩa với 1 đất nước ( country ).  Quốc gia sau đó được chia nhỏ ra theo nhiều kiểu ,  trong đó có kiểu chia  nhỏ theo tôn giáo . Tuy nhiên , theo tín đồ Hồi giáo ,  lại cho rằng không phải  từ 1 quốc gia  chia nhỏ   ra  theo từng nhóm tôn giáo  mà   chính là 1 tôn giáo chia nhỏ ra thành nhiều  quốc gia . Điều này  hiển nhiên  một phần là  do   phần lớn các quốc gia-nhà nước (  nation-states) hình  thành tại   miền  trung đông hiện  nay là những nước   được thành lập tương đối mới ,   dư vị của thời đại thống trị   đế quốc  Anh -Mỹ tiếp sau  sự thất bại của  đế quốc  Ottoman  ,   và những quốc gia-nhà nước này vẫn duy trì  cái khung  nhà nước ( state-building )   và đường   biên giới do  những  ông chủ đế quốc cũ vạch ra .  Ngay cả tên gọi cũng  phản ánh tính giả tạo này : Iraq   là   1 tỉnh thời trung cổ với biên giới   khác rất nhiều so với  biên giới của nước   cộng hòa hiện nay ( bỏ đi   vùng Lưỡng hà  ở phía bắc   và  lấy thêm  1  mảnh   đất  nhỏ   của  miền tây Iran )  ; tên các nước  Syria , Palestine  và Lybia  có từ cổ đại nhưng lại  không đựơc   sử dụng   tại vùng này trong  1  ngàn năm  hay nhiều  hơn nữa trước khi được  đế quốc  châu  Âu  vào thế kỷ 20 phục hồi  và gán  cho những   đường  biên giới   mới   và    thường là khác hẳn , Algeria  và Tunisia  thậm chí chưa hề   có  trong ngôn  ngữ Arập – cùng 1 từ để chỉ 1  thành phố và 1  đất nước . Điều đáng  chú  ý nhất  là  trong ngôn ngữ Ả -rập  không có từ để chỉ Arabia  và   đất  nước  Saudia Arabia  được   gọi là “vương quốc Arập  Saudi “hoặc ” bán đảo của người  Arập”   tùy theo  tình huống  .  Thực ra  không  phải do   tiếng  Ả -rập  là 1  ngôn ngữ nghèo nàn –    mà  ngược lại mới đúng – nhưng  bởi vì người Arập    không  hề nghĩ  đến  việc kết hợp   giữa  bản sắc dân tộc và  lãnh thổ . Thật vậy ,  trích   lời  Caliph ‘Umar nói  với người Ả -rập  ”Hãy nghiên cứu   dòng  dõi của mình , và   đừng có giống như  mấy  kẻ nông phu  khi  được hỏi đến nguồn gốc  thì  lại trả lời  Tôi  là   người  từ nơi này   nơi  nọ“.   

      Vào  những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Hồi giáo ,  cộng đồng  Hồi  giáo  là  1 đất nước  dưới  quyền cai trị của 1  người . Ngay cả khi  cộng đồng này  tách  ra  làm nhiều  nước , thì lý   tưởng   1  thể chế nhà nước  duy nhất  vẫn tồn tại . Các nhà nước hầu như chỉ có tính  triều đại , với  biên giới có dịch chuyển ,  và nắm chắc một điều là   , trong việc ghi chép lịch  sử cực kỳ phong  phú   của thế giới  Hồi giáo  bằng tiếng Ả -rập , Ba tư ,  Thổ nhĩ  kỳ ,  lịch sử của các triều đại , các thành  phố   chủ yếu   chỉ là  lịch sử của  nhà nước và  cộng  đồng Hồi giáo   chứ không hề   là lịch sử của  nước Ba tư  hay Thổ nhĩ kỳ .  Những   tên gọi này ,  không  giống như  Syria  hoặc Palestine  hoặc Iraq , dành  cho   những  thực thể chính trị cũ hòan tòan    đã có độc lập chủ quyền  nhiều thế kỷ chứ không phải là   quốc gia  mới thành  lập .    Nhưng   mãi cho tới thời  hiện đại  , những tên gọi này  không   hề có   trong tiếng Arập , Ba tư hay  Thổ .

Cái tên Thổ nhĩ kỳ , để chỉ 1  quốc gia  có  người Thổ sinh sống   và nói 1  ngôn ngữ là  tiếng Thổ , dường như  phù hợp với  kiểu thức  châu Âu  bình thường khi gọi tên 1 đất nước  theo  tên  sắc  dân . Nhưng  cái tên này , thông dụng tại châu Âu   từ thời trung cổ , chỉ mới được chấp  nhận   tại Thổ nhĩ kỳ khi  tuyên   cáo thành lập  nước cọng hòa   vào năm 1923 .

 Ba tư ( Persia )   vốn  có gốc châu Âu , đầu tiên là do người Hi lạp  phỏng theo  từ Pars , sau   đó là Fars , là tên 1 tỉnh  thuộc  miền  tây Iran. Sau khi  bị người  Ả -rập  chinh phục , do  tiếng Ả -rập  không có  chữ p nên  mới trở thành Fars . Giống như tiếng  Castillian trở thành tiếng  Tây ban nha   và  tiếng  Tuscan trở thành tiếng Ý , cho nên  Fars ,  vốn là  phương ngữ của Fars , trở thành  ngôn  nhữ chính thức  của quốc gia , nhưng trong tiếng  Ba tư , tên  của 1  tỉnh không bao giờ được dùng chung cho cả   1 đất  nước .   

      Cả người Ả -rập lẫn người Thổ đều  sản sinh  ra 1  nền văn học  phong  phú  mô tả   những  cố gắng của  họ   chống lại  châu  Âu  Cơ đốc ,  kể từ những đợt thâm  nhập đầu tiên của  người Ả -rập  vào thế kỷ thứ 8  cho đến cuộc thoái  trận cuối cùng  của  người Thổ vào thế kỷ 20 . Nhưng cho tới   giai đọan  cận đại , khi  các khái niệm và phạm trù   châu Âu trở nên nổi trội ,  thì các chiến binh , viên chức   và sử gia    Hồi giáo  hầu như lúc nào cũng   đề cập đến   kẻ đối  nghịch  với mình  không theo các thuật ngữ về quốc gia  và lãnh thổ mà vỏn  vẹn  chỉ là những  kẻ vô đạo ( infidels= kafir) , hoặc  đôi khi bằng  những  từ mơ hồ như người  Franks  hoặc người Romans . Tương tự   như   thế , họ không bao giờ gọi những người thuộc  phe mình là  người Ả-rập, người Ba tư   hoặc người Thổ ;   họ chỉ xem   mình là người  Hồi giáo . Viễn  cảnh này  giúp ta  hiểu được  vì sao  Pakistan  quan tâm  đến Taliban và  những người kế tục  của phe này  tại Afghanistan .  Cái tên Pakistan ,  là 1 sáng chế của thế kỷ 20 , để chỉ 1  đất nước được hình thành trên cơ sở tôn giáo và   bổn phận  đối với  Hồi  giáo . Còn về mặt khác , đất nước và con người Pakistan –  như  đã từng có hàng ngàn năm qua – là 1  phần của Ấn độ . Một  nước Afghanistan  có  bản sắc  Hồi giáo   sẽ là  1 đồng minh  tự nhiên , thậm chí là 1  chư hầu , của Pakistan. Một Afganistan  dưới bản sắc chủng tộc ,  ngược lại , sẽ là 1 nước láng giềng  nguy hiểm ,   sẽ   nung  nấu chủ trương  đòi lại   vùng đất  nằm phía  tây bắc  Pakistan  có nhóm  người nói tiếng Pashto  và  có lẽ còn liên kết với  Ấn độ nữa .

       Việc tham  khảo những tài liệu  lịch sử sơ kỳ , thậm chí  thời  cổ đại    là điều  thường  gặp   trong các phát  biểu trước  công chúng . Lấy ví dụ , vào những năm  1980 , trong  chiến tranh Iran- Iraq , cả 2 bên đều  phát động những  chiến dịch  tuyên truyền rầm rộ thường  xuyên nhắc tới   các biến cố và nhân vật  xa  xưa  ở thế kỷ thứ 7 ,   nhắc tới  các trận đánh tại Qadisiyya ( 637 C.E.)  và Karbala ( 689 C.E.).  Trận  Qadisiyya là do người Hồi giáo Ả -rập  tấn công và đánh thắng  quân đội  của vua  Ba tư , lúc đó chưa  theo Hồi giáo   và như  thế , dưới mắt người Hồi giáo vẫn   là  kẻ vô đạo và tà giáo . Cả 2  bên đều cho  mình   là thắng  trận – đối với Saddam Hussein ,  là người Ả -rập thắng người Ba tư  , còn với Ayatollah Khomeini , là người Hồi giáo thắng  kẻ không tín ngưỡng .  Việc đề cập đến các trận đánh  không  được mô tả hoặc  kể ra chi tiết ,  nhưng  chỉ là những  lời bóng  gió  ngắn  gọn ,  không đầy  đủ   ,  mà  cả 2  phe  sử dụng  để sao cho người nghe 2 bên chộp lấy , hiểu lấy ,  dù rằng  phần  lớn những người nghe  của cả 2  phía đều  mù chữ . Thật khó  mà tưởng tượng  rằng  bộ máy tuyên truyền  cho quần chúng   ở châu Âu  lại đưa ra  những  ẩn dụ   có từ thời xa lắc  xa lơ như thế , từ thời có chế độ thất  hùng ( heptarchy ) cai trị tại  nước Anh     hoặc vua chúa  dòng   Carolingian tại  Pháp .  Cũng theo luận điệu ấy , Usama  bin Ladin  lăng mạ   khi  ví   Tổng   thống Bush  với  Pharaon ,  và  tố cáo  Phó Tổng thống Cheney và  Bộ trưởng  Powell  là đã  gây  nhiều  tang tóc  cho  Iraq   trong  chiến tranh vùng  vịnh năm 1991   và  những năm sau đó      còn nhiều   hơn so với thời   các  Hãn Mông cổ chinh  phục   Baghdag và  phá  nát  vương triều Abbasid vào giữa thế kỷ 13 . Nhận thức   về lịch sử của người dân Trung đông  được nuôi dưỡng từ   những lời  giảng  kinh sách , từ nhà trướng  và từ các phương tiện truyền thông , và dù rằng  những nhận thức này  lắm khi  thiên lệch và thiếu chính  xác , nhưng lại đầy sinh động  và  gây cộng  hưởng lớn .  

Vào ngày 23/2/1998 , tờ báo  tiếng  Ả -rập  Al-Quds al-‘Arabi,   xuất bản tại Luân đôn , có  in tòan văn “Tuyên bố   của  Mặt trận  Hồi giáo thế giới  kêu gọi thánh chiến  chống  lại bọn  Do thái và  Thập tự chinh”.  Theo như tờ báo cho  biết  , thì tuyên bố này   đựơc  gởi đến bằng fax   , có chữ ký của Usama  bin Ladin  và các nhà  lãnh đạo   các nhóm thánh chiến  ( Jihad)   ở Ai cập,  Pakistan   và Bangladesh .  Bảng tuyên bố bằng tiếng  Ả -rập – với lời văn  hùng hồn  , có  chỗ giống như  thơ –  đưa  ra    1 lối giải thích lịch sử   khác mà  đa số   người châu Âu chưa  gặp bao giờ .   Những  bất bình   của bin Ladin  được nêu trong tuyên bố không hề gíống với  những gì  mà nhiều người mong đợi . Tuyên bố mở đầu   bằng những đoạn văn trích dẫn  sặc mùi hiếu  chiến trong  kinh Qur’an kèm theo những lời dạy của  Tiên tri  Muhammad , và  tiếp đến  là :” Kể từ khi Thượng đế dựng nên  bán đảo  Ả -rập ,  có  sa mạc  , có   biển bao   quanh  , thì  chưa  hề có  tai họa  nào   giáng  xuống  cho đến khi bọn   Thập  tự chinh  ào đến như châu chấu ,  nhung nhúc trên mặt đất , ăn  sạch  hoa  màu ,   phà hủy màu  xanh ; và đây là lúc  mà các nước   chống lại người Hồi giáo  như bọn đói ăn  xâu  xé  dành nhau   1  bát cơm” .

ừ điểm này  tuyên bố kêu gọi  cần phải   hiểu rõ để chấn chỉnh  tình hình  .  Theo  tuyên bố này , các thực trạng  mà  ai  cũng   rõ   được  xếp theo  3  đề mục :

Một là – từ 7 năm  qua  ,  nước  Mỹ    đã  xâm chiếm phần đất  đai linh thiêng  nhất  của   người Hồi giáo, đó là Arabia ,  đã tước đọat  của cải   khống chế   các nhà  cầm quyền    lăng   nhục nhân dân, uy hiếp  các nước  láng giềng   và  sử dụng  những  căn cứ trên bán đảo Ả -rập   làm  đầu cầu    để chống lại nhân dân Hồi giáo  các nước lân  cận .

Mặc  dù trong  qúa khứ đã  có nhiều   tranh cãi về bản chất thực sự của   sự chiếm đóng này , nhưng  tòan thể nhân dân  Arabia  giờ đây đều  đã  biết rõ .

Bằng chứng hiển nhiên   là   nước  Mỹ lấy  Arabia làm  căn cứ để tiếp tục  xâm lược  chống  nhân dân Iraq , dù rằng  các nhà lãnh đạo  Arabia  có  phản đối   nhưng đều bị khống chế để cho Mỹ sử dụng  lãnh thổ của mình vào  mục  đích xâm lược  .

Hai là – mặc dù liên minh Thập tự chinh- Do thái   gây ra sự tàn  phá   to lớn   cho người dân Iraq  , và  mặc dù con số người chết   đã lên đến múc kinh hòang  vượt  quá 1 triệu người , bọn Mỹ   tuy thế vẫn  còn cố lập lại  hành động  đồ tể đáng kinh sợ đó . Dường như đối với chúng  sau 1  cuộc chiến khốc liệt  ,việc phong tỏa kéo dài ,  sự băm xé   và  hủy diệt  vẫn còn chưa đủ . Bây  giờ chúng lại tiến công để hủy diệt  những  gì  còn sót lại của  dân  tộc  này   và để hạ nhục   các  nước  Hồi giáo láng giềng .

Ba là – Trong khi bọn  Mỹ   nhắm  vào các  mục   đích tôn giáo  và kinh tế trong  các cuộc chiến này ,  bọn chúng cũng đồng  thời  phục vụ   cho miếng  đất  cỏn con   của   bọn   Do thái , nhằm  đánh lạc hướng  việc chiếm đóng  Jerusalem  và   giết chóc tín  đồ Hồi  giáo tại đó .

Không có bằng chứng  nào  rõ hơn về vấn đề này là ý  muốn  tiêu diệt nước  Iraq của  bọn chúng , là nước mạnh nhất  trong  các nước  láng   giềng Ả -rập  ,  và ý  đồ của chúng là băm  nát   tất  cả các quốc gia trong vùng   như  Iraq  và Saudi Arabia  , Ai cập và  Sudan  thành  các  nước  con  con ,    để làm suy   yếu  các nước này , để cho nước Israël   tồn tại  và  tiếp tục giúp cho  bọn Thập  tự chinh    chiếm đóng  và gây ra  nhiều  tai họa  trên bán đảo  Arabia. 
 

      Những tội ác này , bản tuyên  bố tiếp tục , đã trở thành  1  lời “tuyên chiến rành  rành   của bọn  Mỹ chống lại Thượng đế , chống lại Đấng tiên tri  của người  và  tín đồ Hồi giáo . Về mặt   này , ý   kiến  thống nhất  của các  bậc trí giả ( ulema )  qua  bao thế kỷ là khi  có  kẻ thù  tấn công  đất  đai của  người Hồi giáo , thì  thánh chiến  là  bổn  phận  của  mỗi  tín đồ .

      Những người  ra tuyên cáo trích dẫn   nhiều  căn cứ trong kinh sách Hồi giáo   và sau đó  đi  đến  phần chót  và  quan trọng nhất của tuyên  bố , phần sắc  lệnh ( fatwa ) , tóm  gọn như sau” giết  bọn Mỹ và đồng minh của chúng ,  dân sự và quân sự , là nhiệm vụ của  mọi tín đồ Hồi giáo còn khỏe  mạnh ,  ở mọi nơi  mọi chốn , cho tới  khi  nào giải phòng  đựơc đền Aqsa  ( tại Jerusalem )  và  đền  Haram  (  tại Mecca)  ra khỏi  ách kìm  kẹp   của chúng   và cho tới  khi   quân đội  của chúng   bị đánh tơi tả và gảy  cánh , rút lui  khỏi  mọi   phần đất  của  người Hồi giáo , không còn  đủ sức   đe  dọa bất cứ tín đồ   nào”

      Sau khi  nêu   thêm  một  vài đọan  có liên quan trong  kinh Qur’an ,  tài liệu  viết tiếp :”Đựơc phép của Thượng  đế ,  chúng tôi  kêu gọi   mọi tín đồ Hồi giáo những  ai  tin  vào  Thượng đế   và  mong đựơc tưởng thưởng vì  vâng lời Thượng đế   đi  giết bọn Mỹ và   tước đọat  tài sản của chúng   bất   cứ khi nào  nơi nào  có thể làm đựơc . Vì thế chúng  tôi   kêu gọi  mọi  thầy  cả ulema  và  các nhà lãnh đạo Hồi giáo , các  thanh niên và  chiến sĩ nhất  tề tấn công  chống lại  quân đội của  bọn  quỉ  Mỹ và chống  lại những  ai là đồng minh của  chúng trong  hàng  ngũ của  bọn  tiếp  tay  cho  quỉ Satan” Tuyên bố và sắc chỉ kết thúc bằng  một  số lời trích trong  kinh sách  Hồi giáo .  
 

       Theo  nhận thức thông thường  của  phương  tây , chiến tranh vùng  vịnh  năm 1991 ,    là do Mỹ ,  liên  minh  Ả -rập  và các đồng  minh khác phát động  để giải phóng  Kuwait   khỏi sự   xâm lược  của Iraq   và nhằm  bảo vệ Saudi Arabia  chống lại  sự tiến công của Iraq.   Cho rằng  cuộc chiến này  là   1 sự tiến công  của Mỹ chống lại Iraq  xem ra  có  vẻ hơi kỳ cục  nhưng  viễn  cảnh này đựơc  thế giới Hồi giáo chấp  nhận   rộng  rãi .  Khi vụ việc    Saddam Hussein tấn công Kuwait  đi vào quên lãng ,  thì người ta  lại quan tâm   đến  việc   Iraq  bị cấm vận   , máy bay của Anh  và Mỹ từ các  căn  cứ ở Arabia  tuần tra   không  phận  Iraq ,   nỗi  thống khổ của nhân dân Iraq  và   sự thiên  vị của  Mỹ đối với Israel được  cảm nhận   càng ngày càng  tăng  .

       3 khu vực  gây bất  bình   đựơc nêu trong tuyên  bố –  đó  là  Arabia , Iraq  và Israel –  tất cả đều quen thuộc đối với  những  ai quan sát tình hình  vùng Trung đông .  Cái  có lẽ ít  quen thuộc là   trình tự và   tầm quan trọng  khi trình bày  3  khu vực  này . Điều này sẽ không  gây   ngạc  nhiên   cho bất cứ ai thông thạo   lịch sử và  văn  học Hồi giáo . Đối  với người Hồi giáo , do chúng ta ở phương tây thường  hay   quên ,  đất thánh đúng nghĩa   là ở Arabia và  đặc biệt là Hijaz và  2 thành  phố thánh – Mecca ,  nơi đấng Tiên tri  chào đời  , và Medina , nơi  ngài  thiết lập  đất  nước  Hồi giáo  đầu tiên ;   đất nước mà dân chúng  là   người đầu tiên   tập  hợp   quanh 1  đức tin mới và  là  những người  tiên phong . Đấng tiên tri  sống  và  tạ thế    tại Arabia  cũng như  những  người kế nhiệm  trực tiếp  , là các Caliph , những người đứng  đầu   của  cộng  đồng .   Tiếp sau đó ,  trừ một  thời gian  ngắn  ở Syria , trung tâm thế giới  Hồi giáo  và  nơi  đạt đựơc những  thành tựu   chính  của Hồi giáo  là Iraq  ,    có  thủ đô là Baghdad  ,  là  nơi  các   Caliph đóng đô  trong  nửa thiên  niên  kỷ .  Đối với người Hồi giáo ,  không có mảnh đất nào   một khi đã  nhập vào cương  vực  Hồi giáo lại vuột  ra được ,  không có  nơi nào có thể sánh được với Arabia  và Iraq .

      Và    trong  2  địa   danh đó ,  Arabia  có  tầm quan trọng  vượt  xa  hơn nhiều .  Các  sử gia  Ả -rập    kinh điển   cho ta  biết  rằng  vào năm  20 kỷ Hồi giáo , tương  ứng  với  năm 641 CE. ,  Caliph ‘Umar   ra sắc  lệnh   đuổi   người  Do thái và  Cơ đốc  ra khỏi các vùng  biên  phía  nam và  phía đông  của Arabia ,   theo đúng  huấn thị của Đấng  tiên tri   thốt   ra  khi lâm chung :” 2  đạo đó  không được có  mặt  tại Arabia”.

       Dân tộc    đang  đề cập   là những người Do thái  tại  ốc đảo Khaybar  , ở phía bắc  và người  Cơ đốc  Najran , ở phía nam.   Cả hai    đều là những  cộng đồng  đã  có  mặt ở đây  từ xa  xưa, tiếng   nói , văn hóa   và cách  sống đều   rặc  Ả -rập , chỉ khác với  người  láng  giềng   ở phần  đức tin . 

      Một  số   kinh sách Hồi giáo   sơ  kỳ đặt  nghi vấn  về việc  gán  ghép câu nói này cho Đấng  tiên tri . Nhưng  nó  được nhiều   người   chấp nhận   và    thực hiện .  Việc trục xuất   các nhóm thiểu số tôn giáo là  việc  cực kỳ hiếm   trong lịch sử Hồi  giáo –    không giống như đạo Cơ  đốc thời trung cổ ,  việc trục  xuất người Do thái  ,  và  sau thời kỳ Tái chinh phục , là người Hồi giáo  , là  việc bình thường và thường  xuyên . So  với  việc trục  xuất  ở châu Âu , thì sắc  lệnh của ‘Umar   vừa có tính chừng mực   và  còn  có  chút  trắc ẩn .  Sắc lệnh này không bao  gồm miền nam  và  đông nam  bán đảo Arập ,  vốn  không được coi  là nằm trong  vùng đất thánh  Hồi giáo . Và  không giống như  người Do thái và  tín đồ Hồi   giáo khi bị đuổi  khỏi  đất  Tây ban nha  và những   quốc gia  châu Âu khác ,  hễ tìm  đựơc chỗ nào trụ được thì cứ ở ; người Do thái  và  Cơ đốc tại  bán đảo  Ả -rập  được  tái định cư  tại  những  vùng đất  dành riêng  cho họ , dân Do thái  ở Syria  và Palestine,  dân Cơ đốc   tại Iraq .  Tiến trình này   cũng   khá   chậm rãi ,  không  hề    gấp gáp , và  có những   tờ trình cho biết  dân Do thái và Cơ đốc  vẫn còn   ở lại Khaybar và Najrab  một  thời gian sau khi sắc  lệnh ban  hành .

      Việc trục  xuất  được tiến hành đúng  hạn ,  và từ đó cho đến nay , đất thánh Hijaz là   vùng  đất cấm  đối  với dân  không theo Hồi  giáo . Theo trường  phái giáo  luật Hồi giáo  đựơc   nhà  nước  Ả -rập Saudi  và  Usama  bin Ladin  cùng   phe  đảng công nhận  , thì  ngay cả   việc đặt  chân  lên đất thánh đối với người không theo  Hồi giáo   là 1  sự vi  phạm nặng . Tại những  nơi  còn lại trong vương  quốc , người  không theo Hồi giáo , tuy được  phép   đến như du khách tạm thời ,  cũng không được  phép  thường trú  hoặc  thực hành  tôn giáo  của mình . Cảng Jedda trên bờ biển Đỏ từ lâu  đựơc coi như là 1  vùng cô lập  về mặt  tôn giáo , tại  đây   các   phái đoàn   ngọai giao , lãnh sự và thương mãi   chỉ được  phép  lưu trú ngắn  hạn .

      Từ    1930   trở đi , dầu  mỏ    được  phát hiện và khai thác  và   tiếp đến   là sự phát triển   của Riyadh , thủ đô  Saudi  , từ 1  ốc đảo nhỏ   trở thành  1 thủ phủ   lớn , đã  mang   lại  nhiều thay đổi  , người nước  ngoài  ồ ạt tràn đến  , chủ yếu là người Mỹ , đã  tác động   lên  mọi mặt của  cuộc  sống  tại vùng bán đảo này . Sự hiện diện của người nước  ngoài ,  vẫn bị nhiều   người coi như là  1 sự báng bổ thần thánh ,    góp  phần giải thích  thái độ bực tức ngày   càng  dâng  cao ở đây.

       Bán đảo Ả -rập chỉ bị Thập tự chinh  đe dọa một thời gian ngắn  vào thế   kỷ thứ 12 . Sau khi  Thập tự chinh  bị thua  trận  và bỏ chạy , mối  đe  dọa về   kẻ vô đạo    được cảm nhận kế tiếp đối với  Arabia   bắt đầu  vào thế kỷ thứ 18  khi quyền  lực châu Âu  được củng cố tại vùng nam Á   và sự xuất hiện   của  các chiến thuyền châu  Âu , đúng  ra  là của dân Cơ đốc ,  ở ngoài khơi   các  bờ   biển  Ả -rập. Cái  ý  thức  bị lăng nhục  ít nhất  cũng  là  1 trong những  yếu tố   của  cuộc trổi  dậy   tôn giáo   bùng lên  tại Arabia   do phong trào Wahhabi   ,  được   dòng  họ   Saud , những  người  khai lập  ra  nhà  nước  Saudi ủng hộ .  Trong  suốt thời gian  chịu ảnh hưởng  Anh – Pháp   và sau đó là sự thống trị   tại vùng  Trung đông   vào thế kỷ 19 và 29 ,  các  thế lực  đế quốc   đã  cai trị Ai cập , Sudan ,  Iraq , Syria   và Palestine. Các cường quốc  tuy  chỉ mới đã  gặm      những  phần đất ngoài rìa  bán đảo Ả -rập  , tại Aden   và  vịnh Ba tư , nhưng cũng đủ để   đặt  căn cứ quân sự   và can thiệp chính trị tối thiểu   vào   tình bình nội bộ   của  vùng  này.

      Khi nào  mà sự can thiệp   của ngoại bang  chỉ khu trú về mặt kinh tế , và cũng chỉ khi nào  mà những  đền bù  vật chất thừa thải  , xoa  dịu   được   những  nổi bất  bình , thì tín đồ Hồi giáo  mới  chịu  đựng    đựơc  sự hiện diện  của  những người  không cùng  tôn giáo . Nhưng   trong những   năm gần đây ,  các điều kiện  cam kết  đã thay đổi . Khi giá dầu giảm   và   dân số tăng ,  chi  tiêu tăng , phần  bù đắp ( rewards)  không còn đầy  đủ , thì những  mối bất  bình  càng ngày càng  càng  trở nên nổi trội hơn ,ồn  ào   hơn . Và nước  ngoài không chỉ nhúng tay   vào các họat  động  kinh tế .Cách mạng  tại Iran ,  các tham  vọng  của Saddam Hussein , và  tất  cả các vấn đề   tại khu vực  càng ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn , nhất là  cuộc xung  đột Israel-Palestine, đã  làm cho  nước ngoài   can thiệp sâu hơn  về mặt chính trị và  quân sự , và  như thế những tiếng  kêu gào” chủ nghĩa đế quốc”càng  được  nhiều người nghe  cho  là  có lý hơn .Khi có vấn đề liên quan đến  đất thánh ,   dân Hồi giáo  có khuynh hướng nhìn  cuộc chiến  , và đôi  khi  với cả kẻ thù nữa , dưới khía cạnh tôn giáo  và  cho rằng quân  đội Mỹ chỉ là  quân  vô đạo  và   xâm lăng  khi được  gởi tới để giải phóng Kuwait  và  bảo vệ Saudi Arabia  khỏi   bị Saddam Hussein tấn công  . Nhận thức này  càng   rõ  hơn  khi  nước Mỹ là nước đầu têu   rành rành    trong  số các  cường quốc  thuộc  thế giới vô  đạo .

      Đối với   đa số người Mỹ , tuyên bố của  bin Ladin là 1 sự đùa  cợt ,  một  sự bóp méo trắng trợn  về bản  chất  và mục đích   sự hiện diện   của Mỹ tại bán đảo Ả -rập . Họ   cũng nên biết là  đối với nhiều người , có lẽ   là đa số   dân Hồi giáo , tuyên bố này   cũng  là 1 sự đùa cợt  trắng trợn   về bản chất của Hồi giáo , ngay  cả đối với học thuyết  về thánh chiến Jihad . Kinh Qur’an   đề cập  đến   chiến tranh cũng như   hòa bình .  Trong  số hàng trăm ngàn truyền thuyết và lời dạy ít nhiều  đựơc gán   cho  Đấng tiên tri  và đựơc  diễn giải  đôi khi   theo  rất nhiều cách ,  dẫn tới nhiều chỉ dạy  khác nhau ,  trong số đó  sự diễn  giải tôn giáo  dưới  khía  cạnh  bạo  lực  và  vũ lực  chỉ là  một .

       Trong   lúc đó , có  một  số đáng kể các tín đồ Hồi giáo   sẳn  sàng  đồng  ý  ,  và  một  số ít   đem  ra  áp dụng ,  cách   thể hiện  tôn giáo  của  họ theo kiểu này . Chủ nghĩa  khủng bố chỉ cần đến  1 số ít người .   Hiển nhiên là   phương  tây  phải tự vệ bằng  bất cứ phương tiện  nào có được .  Nhưng trong  khi  nghĩ  ra  cách  để chống lại  bọn  khủng bố ,  rõ  ràng là  cũng  cần  hiểu rõ động lực   nào đã thúc  đẩy  chúng .  

       Chương 1

      Định nghĩa Hồi giáo        

      Khó  mà  khái   quát  hóa về Hồi giáo .  Trước hết ,  bản thân  của từ   này thường   đựơc  sử dụng  với 2  nghĩa  khác nhau  nhưng  lại  liên  quan với nhau , tương đương với  đạo Cơ đốc ( Christianity ) và thế giới Cơ đốc ( Christendom  )  . Một  nghĩa   để biểu thị một  tôn giáo , 1 hệ thống  niềm tin   và  thờ phượng ; một nghĩa  khác , đó là  1  nền văn minh được sản sinh và   nẩy  nở dưới  sự bảo trợ của  tôn giáo  đó . Bản thân từ Hồi giáo ( Islam )   đã  là  một lịch sử trên 14 thế kỷ , với 1 tỷ 300 triệu tín đồ và  một  truyền   thống  tôn giáo  và  văn hóa  cực kỳ đa dạng .  Đạo Cơ đốc  và thế giới Cơ đốc đại diện   cho một thời kỳ dài hơn  và giáo đồ lớn hơn – trên  2 tỉ tín đồ , trên 20  thế kỷ và tính đa  dạng thậm chí còn   lớn hơn.  Tuy   nhiên ,  một  số khái quát hóa  có thể đưa ra  và đã được   đưa ra  về cái gọi là nền  văn minh Cơ đốc , Do thái – Cơ đốc  , hậu  Cơ đốc   và –  đơn  giản hơn –  phương Tây . Trong  khi  việc khái quát hóa  nền  văn minh Hồi giáo có thể khó  khăn hơn  và  có lúc   nguy hiểm ,  nhưng lại   là việc không thể không làm  và lắm khi cũng có phần  hữu dụng    .

       Về mặt không gian , cương  vực  Hồi giáo  trải  dài từ Morocco tới Indonesia , từ Kazakhstan  đến Senegal . Về   mặt thời gian , đạo này  đã có  hơn 14 thế kỷ , tính từ lúc Đấng tiên tri  bắt đầu giảng đạo  tại bán  đảo Ả -rập   vào thế kỷ thứ 7  và ngài  đã chủ trì  dựng  ra 1 cộng đồng và 1 đất nước Hồi giáo . Trong giai đoạn mà  các sử gia  châu Âu  gọi là thời kỳ đen tối chen giữa sự suy tàn  của  nền văn minh cổ đại – Hy lạp và La mã –  và sự   trổi dậy  của  văn minh cận đại – Châu Âu , thì Hồi giáo  là 1 nền  văn minh  chủ đạo  trên thế giới ,  đựơc  đánh  dấu  bởi  các  vương  quốc to lớn và  hùng mạnh , có nền  kỹ nghệ và thương mãi  phong  phú và  đa  dạng  , nền khoa học và văn chương  độc  đáo và  sáng tạo .  Hồi giáo , vượt xa hơn Cơ đốc  giáo nhiều mặt , là giai đọan trung gian  giữa Đông  phương  cổ đại  và Tây phương  cận đại  trong đó  có phần đóng góp  đáng kể của   tôn giáo  này  . Tuy  nhiên trong 3 thế kỷ vừa qua ,  thế giới  Hồi giáo  đã  đánh mất  thế thống trị và vai trò lãnh đạo ,  và đã tụt hậu  sau  cả   phương Tây   hiện đại  lẫn phương  Đông  cách tân một cách nhanh chóng . Cái  hố ngăn cách  càng ngày  càng  rộng  này  đã  đặt  ra  những  vấn đề cấp bách , cả về mặt  thực  tiển  lẫn tình cảm ,  mà  cho tới nay  các nhà  lãnh đạo , nhà tư tưởng  và   kẻ nổi lọan   của Hồi giáo  vẫn  chưa tìm  ra được câu trả lời phù  hợp

      Với  tính cách    là  1 tôn giáo , Hồi giáo  về mọi mặt  đều rất  gần gũi   với truyền thống Do thái- Cơ đốc  hơn  bất cứ tôn giáo  lớn nào tại châu Á  như   đạo Hindu , đạo Phật  hoặc đạo Khổng .  Đạo  Do thái  và đạo Hồi  có chung  1  niềm tin   về 1 qui luật thần thánh  chi  phối mọi  mặt  của  sinh họat  con người , bao gồm  cả đồ ăn  thức  uống .   Tín  đồ đạo Cơ đốc  và  đạo Hồi  đều có  chung tính thần hiếu thắng   ( triumphalism) . Ngược lại   với  các tôn giáo  khác của nhân  lọai , kể cả đạo Do  thái ,  2 tôn giáo  trên tin rằng chỉ có họ   là những  người may  mắn  tiếp thu và  gìn giữ thông  điệp cuối cùng  của  Thượng đế đối với con  người ,  và  họ có nhiệm vụ mang  lại cho  phần  còn lại  của  thế giới . So sánh với  những  tôn giáo  xa hơn  ở phương  đông , tất  cả 2  tôn giáo  ở vùng  Cận đông – đạo Do thái , đạo Cơ đốc   và  đạo Hồi –  đều có liên hệ   chặt  chẽ với  nhau   và  đúng  ra   chỉ là các  biến thể của  cùng 1   truyền thống tôn giáo .

      Thế giới   Cơ đốc ( Christendom  ) và Hồi giáo  về nhiều mặt  là   những nền  văn minh   anh em , cả 2  đều  bắt  nguồn từ   di sản  chung   về sự mặc  khải và tiên tri  của người Do thái  và khoa học  ,  triết học  của người Hi lạp , và   cả 2  đều đựơc  nuôi dưỡng  bởi  các truyền thống  xa  xưa  của  vùng  Trung đông  cổ đại . Trong  phần  lớn   lịch sử chung  của  họ ,  họ đã  từng  sát phạt nhau  , nhưng  ngay cả trong chiến đấu và tranh luận , họ đều có  những nét  giống nhau cơ bản  và những  đặc trung  chung  đã  nối  kết  họ với nhau , và làm cho họ   xa cách  với  những  nền  văn  minh  xa xôi hơn ở châu Á .

      Nhưng  dù  có  những  nét  tương đồng ,   vẫn có những cách biệt  sâu  sắc   giữa  2 tôn giáo này ,  đưa tới những  khác biệt  hiển nhiên  về giáo lý  và   cách thờ phượng . Không  có nơi nào  mà những  sự khác biệt  trở nên  sâu sắc –và  hiển nhiên-   hơn là  ở thái độ của 2 tôn giáo  này ,  và  ở các    điểm  dẫn  giải có  thẩm  quyền ,  đối với  các mối quan hệ giữa  nhà nước , tôn giáo  và  xã  hội . Người  sáng lập ra 

0