Sự khủng hoảng của Hồi giáo
“The Crisis of Islam” của Bernard Lewis Võ Văn Lượng dịch Dẫn nhập Tổng thống Bush và các chính khách phương Tây đã khá chật vật để chỉ ra rằng cuộc chiến mà nước Mỹ đang tham gia là cuôc chiến chống lại chủ nghĩa khủng bố – ...
“The Crisis of Islam”của Bernard Lewis
Võ Văn Lượng dịch
Dẫn nhập
Tổng thống Bush và các chính khách phương Tây đã khá chật vật để chỉ ra rằng cuộc chiến mà nước Mỹ đang tham gia là cuôc chiến chống lại chủ nghĩa khủng bố – chứ không phải là chống người À rập , hoặc nói rộng hơn là chống lại người Hồi giáo , là những người được khuyến khích cùng chung sức với chúng ta trong cuộc chiến chống kẻ thù chung . Nhưng thông điệp của Usama bin Ladin thì khác hẳn . Đối với bin Ladin và những người theo ông ta đây là 1 cuộc chiến tôn giáo , 1 cuộc chiến của người Hồi giáo chống lại những kẻ vô đạo , và vì thế đương nhiên là chống lại nước Mỹ , cuờng quốc lớn nhất trong thế giới của những kẻ vô đạo .
Trong các tuyên bố của mình , bin Ladin luôn luôn dẫn chứng lịch sử . Một trong những dẫn chứng gây ấn tượng nhất được nêu trong cuốn băng video ngày 7/10/2001 , về”sự ô nhục và tủi hổ”mà đạo Hồi đã phải gánh chịu trên 80 năm qua”. Đối với bối cảnh Trung đông , đa số các nhà quan sát người Mỹ – và đương nhiên , có người Âu – bối rối bắt đầu tìm hiểu cái gì đã xảy ra”trong hơn 80 năm trước” và cuối cùng đưa ra nhiều câu trả lời khác nhau . Chúng ta có thể tin phần nào là những đối tượng của bin Ladin hiểu rõ ngay ý nghĩa những lời nói bóng gió này .
Vào năm 1918 , đế quốc Ottoman , là đế quốc cuối cùng của các đế quốc Hồi giáo hùng mạnh bị đánh bại – thủ đô Constantinople bị chiếm đóng , quốc vương bị bắt giữ và phần lớn lãnh thổ bị các đế quốc thắng trận (Anh và Pháp ) xâu xé . Các tỉnh nói tiếng A-rập thuộc đế quốc Ottoman trước kia ở vùng Lưỡi liềm phì nhiêu bị phân chia ra thành các thực thể mới , với tên gọi và biên giới mới . 2 trong số những tỉnh này , Iraq và Palestine, được đặt dưới quyền ủy trị của Anh , còn tỉnh thứ 3 , Syria , thì giao cho Pháp . Sau này , nước Pháp lại chia nhỏ Syria ra làm 2 phần , một phần gọi là Liban , còn phần kia vẫn giữ tên Syria . Ngưòi Anh cũng chia Palestine ra làm 2 vùng nằm vắt 2 bên bờ sông Jordan ; bờ tây thì vẫn giữ lại tên Palestine , còn phần bên kia mang tên Cisjordan .
Bán đảo Ả -rập, chủ yếu toàn núí và các vùng sa mạc khô cằn và hiểm trở , lúc đó được coi như chẳng bỏ công chiếm đóng , cho nên được phép giữ lại nền độc lập bấp bênh và chẳng nhiều nhặn gì . Người Thổ (Turkey, cuối cùng cũng giải phóng được quê hương của họ tại cao nguyên Anatolia , không phải bằng ảnh hưởng Hồi giáo mà do phong trào quốc gia thế tục do Mustafa Kemal , một tướng lãnh Ottoman được biết nhiều hơn dướí tên Kemal Ataturk . Ngay cả khi viên tướng này chiến đấu thành công để giải phóng Thổ nhỉ kỳ khỏi sự thống trị của phương Tây , ông ta cũng bước đầu chấp nhận các đường lối Tây phương , hoặc theo đường lối cách tân của ông ta . Một trong những đạo luật đầu tiên ông ban hành vào tháng 11/1922 , là bãi bỏ nhà nước sultan .
Quốc vương Ottaman không những chỉ là 1 sultan , người cai trị của 1 đất nưóc cụ thể , mà còn được rộng rãi thừa nhận là Caliph , tức là người đứng đầu của tất cả người Hồi giáo Sunni , và là người cuối cùng của 1 dòng dõi quân vương được hình thành sau khi Tiên tri Muhammad chết vào năm 632 CN , và việc bổ nhiệm người kế vị Ngài , không những chỉ là người đứng đầu về tinh thần mà còn là người đứng đầu về tôn giáo và chính trị của 1 nhà nước và của cộng đồng Hồi giáo . Sau 1 thời gian ngắn thực hiện việc chế độ Caliph tách biệt với nhà nước, cuối cùng vào tháng 3/1924 người Thổ bãi bỏ hẳn chế độ Caliph .
Trong suốt 13 thế kỳ , chế độ Caliph đã trải qua nhiều thăng trầm , nhưng nó vẫn còn là 1 biểu tượng mạnh mẽ cho sự thống nhất , thậm chí là 1 bản sắc Hồi giáo ; tòan thể thế giới Hồi giáo cảm nhận sự biến mất của nó dưới 2 mặt tấn công của đế quốc ngọai bang cùng với những kẻ cách tân trong nước . Nhiều quốc vương và lãnh đạo Hồi giáo có đưa ra một số cố gắng cầm chừng để dành cái tước hiệu bỏ trống đó , nhưng chẳng đựơc ủng hộ bao nhiêu . Nhiều người Hồi giáo vẫn còn trăn trở về sự thiếu vắng này , và có người cho rằng chính Usama bin Ladin – đã – hoặc đang – có ước vọng muốn dành chức Caliph.
Danh từ Caliph đi từ tiếng Ả -rập khalifa , có ý nghĩa vừa là”người thừa kế” và “người phụ tá”. Lúc đầu , người đứng đầu cộng đồng Hồi giáo là “khalifa của đấng tiên tri của Thượng đế”. Một số người có nhiều tham vọng hơn , đã rút ngắn tên gọi thành”Khalifa của Thượng đế”. Luận điệu đòi uy quyền tinh thần này đã bị chỉ trích nhiều và dần dần bị bỏ đi , và các nhà lãnh đạo Hồi giáo lại sử dụng rộng rãi một danh xưng tuy vẫn như cũ nhưng ý nghĩa có phần nhẹ hơn là”Cái bóng của Thượng đế trên mặt đất”. Trong phần lớn lịch sử của định chế này , những người nắm quyền Caliph thỏa mãn với 1 danh xưng khiêm tốn hơn , Almir al-Mu’mmin , thương được dịch là Đấng Thống lãnh của các tín đồ”
Những ẩn dụ lịch sử do bin Ladin nêu ra , có thể là khó hiểu đối với nhiều người Mỹ , lại khá phổ biến đối với người Hồi giáo , và chỉ có thể hiểu đúng trong khuôn khổ các nhận thức về bản sắc ( identity ) của vùng Trung đông , và đặt trong khung cảnh lịch sử của vùng Trung đông . Ngay cả cái quan niệm về lịch sử và bản sắc cũng cần phải được định nghĩa lại để cho người phương tây muốn hiểu rõ vùng Trung đông hiện tại . Theo kiểu nói tiếng Mỹ hiện nay , thì câu” đó là lịch sử” được sử dụng rộng rãi để gạt bỏ những cái gì không quan trọng , không liên quan đến những điều quan tâm hiện tại , và nhưng trong tình hình hiện nay , mặc dù việc dạy sử và viết sử đã được đầu tư khá nhiều , nhưng mức kiến thức chung về lịch sử của xã hội Mỹ phải nói là cực kỳ thấp .Trong khi đó , các dân tộc Hồi giáo , cũng giống như mọi người khác trên thế giới , đều được lịch sử nhào nặn , nhưng không như những người khác , họ lại có ý thức sắc sảo về lịch sử . Tuy nhiên , ý thức của họ bắt nguồn từ lúc đạo Hồi mới khởi phát , có lẽ có chút ít liên quan đến các thời kỳ trước Hồi giáo , cần thiết để giải thích những ẩn dụ lịch sử trong kinh Qu’ran và trong các truyền thuyết và biên niên Hồi giáo sơ kỳ . Đối với người Hồi giáo , thì lịch sử Hồi giáo có ý nghĩa quan trọng về mặt tôn gíao và về luật pháp nữa , bởi vì nó phản ánh ý đồ của Thượng đế cho cọng đồng của Người – là những ai chấp nhận lời giáo huấn Hồi giáo và tuân thủ các luật lệ của đạo này . Lịch sử của các nước và các dân tộc không phải – Hồi giáo không có nội dung này và vì thế đối với người Hồi giáo , không hề có chút giá trị hoặc điều gì đáng chú ý gì cả . Ngay cả đến các quốc gia có những nền văn minh cổ đại giống như thế tại vùng Trung đông , sự hiểu biết về lịch sử của kẻ khác đạo ( pagan history ) – về tổ tiên của họ những người đã lưu truyền đền đài và chữ viết khắp nơi – cũng chỉ là phần rất nhỏ .Các ngôn ngữ và chữ viết cổ đại đều bị quên lãng , các tài liệu cổ xưa bị chôn vùi cho tới khi chúng được các nhà khảo cổ và ngữ học phương tây có óc tìm tòi phát hiện và giải mã gần đây . Nhưng từ khi Hồi giáo xuất hiện , các dân tộc Hồi giáo đã hình thành 1 nền văn chuơng lịch sử phong phú và dồi dào – thật vậy , tại nhiều nơi , ngay cả tại các quốc gia có nền văn minh cổ đại như Ấn độ , thì những trang lịch sử nghiêm túc chỉ ra đời sau khi đạo Hồi du nhập .
Nhưng lịch sử về cái gì ?. Trong thế giới phương Tây , đơn vị cơ bản của 1 tổ chức con người là quốc gia ( nation ) , mà theo thông lệ ở Mỹ chứ không phải theo châu Âu , thì hầu như đồng nghĩa với 1 đất nước ( country ). Quốc gia sau đó được chia nhỏ ra theo nhiều kiểu , trong đó có kiểu chia nhỏ theo tôn giáo . Tuy nhiên , theo tín đồ Hồi giáo , lại cho rằng không phải từ 1 quốc gia chia nhỏ ra theo từng nhóm tôn giáo mà chính là 1 tôn giáo chia nhỏ ra thành nhiều quốc gia . Điều này hiển nhiên một phần là do phần lớn các quốc gia-nhà nước ( nation-states) hình thành tại miền trung đông hiện nay là những nước được thành lập tương đối mới , dư vị của thời đại thống trị đế quốc Anh -Mỹ tiếp sau sự thất bại của đế quốc Ottoman , và những quốc gia-nhà nước này vẫn duy trì cái khung nhà nước ( state-building ) và đường biên giới do những ông chủ đế quốc cũ vạch ra . Ngay cả tên gọi cũng phản ánh tính giả tạo này : Iraq là 1 tỉnh thời trung cổ với biên giới khác rất nhiều so với biên giới của nước cộng hòa hiện nay ( bỏ đi vùng Lưỡng hà ở phía bắc và lấy thêm 1 mảnh đất nhỏ của miền tây Iran ) ; tên các nước Syria , Palestine và Lybia có từ cổ đại nhưng lại không đựơc sử dụng tại vùng này trong 1 ngàn năm hay nhiều hơn nữa trước khi được đế quốc châu Âu vào thế kỷ 20 phục hồi và gán cho những đường biên giới mới và thường là khác hẳn , Algeria và Tunisia thậm chí chưa hề có trong ngôn ngữ Arập – cùng 1 từ để chỉ 1 thành phố và 1 đất nước . Điều đáng chú ý nhất là trong ngôn ngữ Ả -rập không có từ để chỉ Arabia và đất nước Saudia Arabia được gọi là “vương quốc Arập Saudi “hoặc ” bán đảo của người Arập” tùy theo tình huống . Thực ra không phải do tiếng Ả -rập là 1 ngôn ngữ nghèo nàn – mà ngược lại mới đúng – nhưng bởi vì người Arập không hề nghĩ đến việc kết hợp giữa bản sắc dân tộc và lãnh thổ . Thật vậy , trích lời Caliph ‘Umar nói với người Ả -rập ”Hãy nghiên cứu dòng dõi của mình , và đừng có giống như mấy kẻ nông phu khi được hỏi đến nguồn gốc thì lại trả lời Tôi là người từ nơi này nơi nọ“.
Vào những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Hồi giáo , cộng đồng Hồi giáo là 1 đất nước dưới quyền cai trị của 1 người . Ngay cả khi cộng đồng này tách ra làm nhiều nước , thì lý tưởng 1 thể chế nhà nước duy nhất vẫn tồn tại . Các nhà nước hầu như chỉ có tính triều đại , với biên giới có dịch chuyển , và nắm chắc một điều là , trong việc ghi chép lịch sử cực kỳ phong phú của thế giới Hồi giáo bằng tiếng Ả -rập , Ba tư , Thổ nhĩ kỳ , lịch sử của các triều đại , các thành phố chủ yếu chỉ là lịch sử của nhà nước và cộng đồng Hồi giáo chứ không hề là lịch sử của nước Ba tư hay Thổ nhĩ kỳ . Những tên gọi này , không giống như Syria hoặc Palestine hoặc Iraq , dành cho những thực thể chính trị cũ hòan tòan đã có độc lập chủ quyền nhiều thế kỷ chứ không phải là quốc gia mới thành lập . Nhưng mãi cho tới thời hiện đại , những tên gọi này không hề có trong tiếng Arập , Ba tư hay Thổ .
Cái tên Thổ nhĩ kỳ , để chỉ 1 quốc gia có người Thổ sinh sống và nói 1 ngôn ngữ là tiếng Thổ , dường như phù hợp với kiểu thức châu Âu bình thường khi gọi tên 1 đất nước theo tên sắc dân . Nhưng cái tên này , thông dụng tại châu Âu từ thời trung cổ , chỉ mới được chấp nhận tại Thổ nhĩ kỳ khi tuyên cáo thành lập nước cọng hòa vào năm 1923 .
Ba tư ( Persia ) vốn có gốc châu Âu , đầu tiên là do người Hi lạp phỏng theo từ Pars , sau đó là Fars , là tên 1 tỉnh thuộc miền tây Iran. Sau khi bị người Ả -rập chinh phục , do tiếng Ả -rập không có chữ p nên mới trở thành Fars . Giống như tiếng Castillian trở thành tiếng Tây ban nha và tiếng Tuscan trở thành tiếng Ý , cho nên Fars , vốn là phương ngữ của Fars , trở thành ngôn nhữ chính thức của quốc gia , nhưng trong tiếng Ba tư , tên của 1 tỉnh không bao giờ được dùng chung cho cả 1 đất nước .
Cả người Ả -rập lẫn người Thổ đều sản sinh ra 1 nền văn học phong phú mô tả những cố gắng của họ chống lại châu Âu Cơ đốc , kể từ những đợt thâm nhập đầu tiên của người Ả -rập vào thế kỷ thứ 8 cho đến cuộc thoái trận cuối cùng của người Thổ vào thế kỷ 20 . Nhưng cho tới giai đọan cận đại , khi các khái niệm và phạm trù châu Âu trở nên nổi trội , thì các chiến binh , viên chức và sử gia Hồi giáo hầu như lúc nào cũng đề cập đến kẻ đối nghịch với mình không theo các thuật ngữ về quốc gia và lãnh thổ mà vỏn vẹn chỉ là những kẻ vô đạo ( infidels= kafir) , hoặc đôi khi bằng những từ mơ hồ như người Franks hoặc người Romans . Tương tự như thế , họ không bao giờ gọi những người thuộc phe mình là người Ả-rập, người Ba tư hoặc người Thổ ; họ chỉ xem mình là người Hồi giáo . Viễn cảnh này giúp ta hiểu được vì sao Pakistan quan tâm đến Taliban và những người kế tục của phe này tại Afghanistan . Cái tên Pakistan , là 1 sáng chế của thế kỷ 20 , để chỉ 1 đất nước được hình thành trên cơ sở tôn giáo và bổn phận đối với Hồi giáo . Còn về mặt khác , đất nước và con người Pakistan – như đã từng có hàng ngàn năm qua – là 1 phần của Ấn độ . Một nước Afghanistan có bản sắc Hồi giáo sẽ là 1 đồng minh tự nhiên , thậm chí là 1 chư hầu , của Pakistan. Một Afganistan dưới bản sắc chủng tộc , ngược lại , sẽ là 1 nước láng giềng nguy hiểm , sẽ nung nấu chủ trương đòi lại vùng đất nằm phía tây bắc Pakistan có nhóm người nói tiếng Pashto và có lẽ còn liên kết với Ấn độ nữa .
Việc tham khảo những tài liệu lịch sử sơ kỳ , thậm chí thời cổ đại là điều thường gặp trong các phát biểu trước công chúng . Lấy ví dụ , vào những năm 1980 , trong chiến tranh Iran- Iraq , cả 2 bên đều phát động những chiến dịch tuyên truyền rầm rộ thường xuyên nhắc tới các biến cố và nhân vật xa xưa ở thế kỷ thứ 7 , nhắc tới các trận đánh tại Qadisiyya ( 637 C.E.) và Karbala ( 689 C.E.). Trận Qadisiyya là do người Hồi giáo Ả -rập tấn công và đánh thắng quân đội của vua Ba tư , lúc đó chưa theo Hồi giáo và như thế , dưới mắt người Hồi giáo vẫn là kẻ vô đạo và tà giáo . Cả 2 bên đều cho mình là thắng trận – đối với Saddam Hussein , là người Ả -rập thắng người Ba tư , còn với Ayatollah Khomeini , là người Hồi giáo thắng kẻ không tín ngưỡng . Việc đề cập đến các trận đánh không được mô tả hoặc kể ra chi tiết , nhưng chỉ là những lời bóng gió ngắn gọn , không đầy đủ , mà cả 2 phe sử dụng để sao cho người nghe 2 bên chộp lấy , hiểu lấy , dù rằng phần lớn những người nghe của cả 2 phía đều mù chữ . Thật khó mà tưởng tượng rằng bộ máy tuyên truyền cho quần chúng ở châu Âu lại đưa ra những ẩn dụ có từ thời xa lắc xa lơ như thế , từ thời có chế độ thất hùng ( heptarchy ) cai trị tại nước Anh hoặc vua chúa dòng Carolingian tại Pháp . Cũng theo luận điệu ấy , Usama bin Ladin lăng mạ khi ví Tổng thống Bush với Pharaon , và tố cáo Phó Tổng thống Cheney và Bộ trưởng Powell là đã gây nhiều tang tóc cho Iraq trong chiến tranh vùng vịnh năm 1991 và những năm sau đó còn nhiều hơn so với thời các Hãn Mông cổ chinh phục Baghdag và phá nát vương triều Abbasid vào giữa thế kỷ 13 . Nhận thức về lịch sử của người dân Trung đông được nuôi dưỡng từ những lời giảng kinh sách , từ nhà trướng và từ các phương tiện truyền thông , và dù rằng những nhận thức này lắm khi thiên lệch và thiếu chính xác , nhưng lại đầy sinh động và gây cộng hưởng lớn .
Vào ngày 23/2/1998 , tờ báo tiếng Ả -rập Al-Quds al-‘Arabi, xuất bản tại Luân đôn , có in tòan văn “Tuyên bố của Mặt trận Hồi giáo thế giới kêu gọi thánh chiến chống lại bọn Do thái và Thập tự chinh”. Theo như tờ báo cho biết , thì tuyên bố này đựơc gởi đến bằng fax , có chữ ký của Usama bin Ladin và các nhà lãnh đạo các nhóm thánh chiến ( Jihad) ở Ai cập, Pakistan và Bangladesh . Bảng tuyên bố bằng tiếng Ả -rập – với lời văn hùng hồn , có chỗ giống như thơ – đưa ra 1 lối giải thích lịch sử khác mà đa số người châu Âu chưa gặp bao giờ . Những bất bình của bin Ladin được nêu trong tuyên bố không hề gíống với những gì mà nhiều người mong đợi . Tuyên bố mở đầu bằng những đoạn văn trích dẫn sặc mùi hiếu chiến trong kinh Qur’an kèm theo những lời dạy của Tiên tri Muhammad , và tiếp đến là :” Kể từ khi Thượng đế dựng nên bán đảo Ả -rập , có sa mạc , có biển bao quanh , thì chưa hề có tai họa nào giáng xuống cho đến khi bọn Thập tự chinh ào đến như châu chấu , nhung nhúc trên mặt đất , ăn sạch hoa màu , phà hủy màu xanh ; và đây là lúc mà các nước chống lại người Hồi giáo như bọn đói ăn xâu xé dành nhau 1 bát cơm” .
ừ điểm này tuyên bố kêu gọi cần phải hiểu rõ để chấn chỉnh tình hình . Theo tuyên bố này , các thực trạng mà ai cũng rõ được xếp theo 3 đề mục :
Một là – từ 7 năm qua , nước Mỹ đã xâm chiếm phần đất đai linh thiêng nhất của người Hồi giáo, đó là Arabia , đã tước đọat của cải khống chế các nhà cầm quyền lăng nhục nhân dân, uy hiếp các nước láng giềng và sử dụng những căn cứ trên bán đảo Ả -rập làm đầu cầu để chống lại nhân dân Hồi giáo các nước lân cận .
Mặc dù trong qúa khứ đã có nhiều tranh cãi về bản chất thực sự của sự chiếm đóng này , nhưng tòan thể nhân dân Arabia giờ đây đều đã biết rõ .
Bằng chứng hiển nhiên là nước Mỹ lấy Arabia làm căn cứ để tiếp tục xâm lược chống nhân dân Iraq , dù rằng các nhà lãnh đạo Arabia có phản đối nhưng đều bị khống chế để cho Mỹ sử dụng lãnh thổ của mình vào mục đích xâm lược .
Hai là – mặc dù liên minh Thập tự chinh- Do thái gây ra sự tàn phá to lớn cho người dân Iraq , và mặc dù con số người chết đã lên đến múc kinh hòang vượt quá 1 triệu người , bọn Mỹ tuy thế vẫn còn cố lập lại hành động đồ tể đáng kinh sợ đó . Dường như đối với chúng sau 1 cuộc chiến khốc liệt ,việc phong tỏa kéo dài , sự băm xé và hủy diệt vẫn còn chưa đủ . Bây giờ chúng lại tiến công để hủy diệt những gì còn sót lại của dân tộc này và để hạ nhục các nước Hồi giáo láng giềng .
Ba là – Trong khi bọn Mỹ nhắm vào các mục đích tôn giáo và kinh tế trong các cuộc chiến này , bọn chúng cũng đồng thời phục vụ cho miếng đất cỏn con của bọn Do thái , nhằm đánh lạc hướng việc chiếm đóng Jerusalem và giết chóc tín đồ Hồi giáo tại đó .
Không có bằng chứng nào rõ hơn về vấn đề này là ý muốn tiêu diệt nước Iraq của bọn chúng , là nước mạnh nhất trong các nước láng giềng Ả -rập , và ý đồ của chúng là băm nát tất cả các quốc gia trong vùng như Iraq và Saudi Arabia , Ai cập và Sudan thành các nước con con , để làm suy yếu các nước này , để cho nước Israël tồn tại và tiếp tục giúp cho bọn Thập tự chinh chiếm đóng và gây ra nhiều tai họa trên bán đảo Arabia.
Những tội ác này , bản tuyên bố tiếp tục , đã trở thành 1 lời “tuyên chiến rành rành của bọn Mỹ chống lại Thượng đế , chống lại Đấng tiên tri của người và tín đồ Hồi giáo . Về mặt này , ý kiến thống nhất của các bậc trí giả ( ulema ) qua bao thế kỷ là khi có kẻ thù tấn công đất đai của người Hồi giáo , thì thánh chiến là bổn phận của mỗi tín đồ .
Những người ra tuyên cáo trích dẫn nhiều căn cứ trong kinh sách Hồi giáo và sau đó đi đến phần chót và quan trọng nhất của tuyên bố , phần sắc lệnh ( fatwa ) , tóm gọn như sau” giết bọn Mỹ và đồng minh của chúng , dân sự và quân sự , là nhiệm vụ của mọi tín đồ Hồi giáo còn khỏe mạnh , ở mọi nơi mọi chốn , cho tới khi nào giải phòng đựơc đền Aqsa ( tại Jerusalem ) và đền Haram ( tại Mecca) ra khỏi ách kìm kẹp của chúng và cho tới khi quân đội của chúng bị đánh tơi tả và gảy cánh , rút lui khỏi mọi phần đất của người Hồi giáo , không còn đủ sức đe dọa bất cứ tín đồ nào”
Sau khi nêu thêm một vài đọan có liên quan trong kinh Qur’an , tài liệu viết tiếp :”Đựơc phép của Thượng đế , chúng tôi kêu gọi mọi tín đồ Hồi giáo những ai tin vào Thượng đế và mong đựơc tưởng thưởng vì vâng lời Thượng đế đi giết bọn Mỹ và tước đọat tài sản của chúng bất cứ khi nào nơi nào có thể làm đựơc . Vì thế chúng tôi kêu gọi mọi thầy cả ulema và các nhà lãnh đạo Hồi giáo , các thanh niên và chiến sĩ nhất tề tấn công chống lại quân đội của bọn quỉ Mỹ và chống lại những ai là đồng minh của chúng trong hàng ngũ của bọn tiếp tay cho quỉ Satan” Tuyên bố và sắc chỉ kết thúc bằng một số lời trích trong kinh sách Hồi giáo .
Theo nhận thức thông thường của phương tây , chiến tranh vùng vịnh năm 1991 , là do Mỹ , liên minh Ả -rập và các đồng minh khác phát động để giải phóng Kuwait khỏi sự xâm lược của Iraq và nhằm bảo vệ Saudi Arabia chống lại sự tiến công của Iraq. Cho rằng cuộc chiến này là 1 sự tiến công của Mỹ chống lại Iraq xem ra có vẻ hơi kỳ cục nhưng viễn cảnh này đựơc thế giới Hồi giáo chấp nhận rộng rãi . Khi vụ việc Saddam Hussein tấn công Kuwait đi vào quên lãng , thì người ta lại quan tâm đến việc Iraq bị cấm vận , máy bay của Anh và Mỹ từ các căn cứ ở Arabia tuần tra không phận Iraq , nỗi thống khổ của nhân dân Iraq và sự thiên vị của Mỹ đối với Israel được cảm nhận càng ngày càng tăng .
3 khu vực gây bất bình đựơc nêu trong tuyên bố – đó là Arabia , Iraq và Israel – tất cả đều quen thuộc đối với những ai quan sát tình hình vùng Trung đông . Cái có lẽ ít quen thuộc là trình tự và tầm quan trọng khi trình bày 3 khu vực này . Điều này sẽ không gây ngạc nhiên cho bất cứ ai thông thạo lịch sử và văn học Hồi giáo . Đối với người Hồi giáo , do chúng ta ở phương tây thường hay quên , đất thánh đúng nghĩa là ở Arabia và đặc biệt là Hijaz và 2 thành phố thánh – Mecca , nơi đấng Tiên tri chào đời , và Medina , nơi ngài thiết lập đất nước Hồi giáo đầu tiên ; đất nước mà dân chúng là người đầu tiên tập hợp quanh 1 đức tin mới và là những người tiên phong . Đấng tiên tri sống và tạ thế tại Arabia cũng như những người kế nhiệm trực tiếp , là các Caliph , những người đứng đầu của cộng đồng . Tiếp sau đó , trừ một thời gian ngắn ở Syria , trung tâm thế giới Hồi giáo và nơi đạt đựơc những thành tựu chính của Hồi giáo là Iraq , có thủ đô là Baghdad , là nơi các Caliph đóng đô trong nửa thiên niên kỷ . Đối với người Hồi giáo , không có mảnh đất nào một khi đã nhập vào cương vực Hồi giáo lại vuột ra được , không có nơi nào có thể sánh được với Arabia và Iraq .
Và trong 2 địa danh đó , Arabia có tầm quan trọng vượt xa hơn nhiều . Các sử gia Ả -rập kinh điển cho ta biết rằng vào năm 20 kỷ Hồi giáo , tương ứng với năm 641 CE. , Caliph ‘Umar ra sắc lệnh đuổi người Do thái và Cơ đốc ra khỏi các vùng biên phía nam và phía đông của Arabia , theo đúng huấn thị của Đấng tiên tri thốt ra khi lâm chung :” 2 đạo đó không được có mặt tại Arabia”.
Dân tộc đang đề cập là những người Do thái tại ốc đảo Khaybar , ở phía bắc và người Cơ đốc Najran , ở phía nam. Cả hai đều là những cộng đồng đã có mặt ở đây từ xa xưa, tiếng nói , văn hóa và cách sống đều rặc Ả -rập , chỉ khác với người láng giềng ở phần đức tin .
Một số kinh sách Hồi giáo sơ kỳ đặt nghi vấn về việc gán ghép câu nói này cho Đấng tiên tri . Nhưng nó được nhiều người chấp nhận và thực hiện . Việc trục xuất các nhóm thiểu số tôn giáo là việc cực kỳ hiếm trong lịch sử Hồi giáo – không giống như đạo Cơ đốc thời trung cổ , việc trục xuất người Do thái , và sau thời kỳ Tái chinh phục , là người Hồi giáo , là việc bình thường và thường xuyên . So với việc trục xuất ở châu Âu , thì sắc lệnh của ‘Umar vừa có tính chừng mực và còn có chút trắc ẩn . Sắc lệnh này không bao gồm miền nam và đông nam bán đảo Arập , vốn không được coi là nằm trong vùng đất thánh Hồi giáo . Và không giống như người Do thái và tín đồ Hồi giáo khi bị đuổi khỏi đất Tây ban nha và những quốc gia châu Âu khác , hễ tìm đựơc chỗ nào trụ được thì cứ ở ; người Do thái và Cơ đốc tại bán đảo Ả -rập được tái định cư tại những vùng đất dành riêng cho họ , dân Do thái ở Syria và Palestine, dân Cơ đốc tại Iraq . Tiến trình này cũng khá chậm rãi , không hề gấp gáp , và có những tờ trình cho biết dân Do thái và Cơ đốc vẫn còn ở lại Khaybar và Najrab một thời gian sau khi sắc lệnh ban hành .
Việc trục xuất được tiến hành đúng hạn , và từ đó cho đến nay , đất thánh Hijaz là vùng đất cấm đối với dân không theo Hồi giáo . Theo trường phái giáo luật Hồi giáo đựơc nhà nước Ả -rập Saudi và Usama bin Ladin cùng phe đảng công nhận , thì ngay cả việc đặt chân lên đất thánh đối với người không theo Hồi giáo là 1 sự vi phạm nặng . Tại những nơi còn lại trong vương quốc , người không theo Hồi giáo , tuy được phép đến như du khách tạm thời , cũng không được phép thường trú hoặc thực hành tôn giáo của mình . Cảng Jedda trên bờ biển Đỏ từ lâu đựơc coi như là 1 vùng cô lập về mặt tôn giáo , tại đây các phái đoàn ngọai giao , lãnh sự và thương mãi chỉ được phép lưu trú ngắn hạn .
Từ 1930 trở đi , dầu mỏ được phát hiện và khai thác và tiếp đến là sự phát triển của Riyadh , thủ đô Saudi , từ 1 ốc đảo nhỏ trở thành 1 thủ phủ lớn , đã mang lại nhiều thay đổi , người nước ngoài ồ ạt tràn đến , chủ yếu là người Mỹ , đã tác động lên mọi mặt của cuộc sống tại vùng bán đảo này . Sự hiện diện của người nước ngoài , vẫn bị nhiều người coi như là 1 sự báng bổ thần thánh , góp phần giải thích thái độ bực tức ngày càng dâng cao ở đây.
Bán đảo Ả -rập chỉ bị Thập tự chinh đe dọa một thời gian ngắn vào thế kỷ thứ 12 . Sau khi Thập tự chinh bị thua trận và bỏ chạy , mối đe dọa về kẻ vô đạo được cảm nhận kế tiếp đối với Arabia bắt đầu vào thế kỷ thứ 18 khi quyền lực châu Âu được củng cố tại vùng nam Á và sự xuất hiện của các chiến thuyền châu Âu , đúng ra là của dân Cơ đốc , ở ngoài khơi các bờ biển Ả -rập. Cái ý thức bị lăng nhục ít nhất cũng là 1 trong những yếu tố của cuộc trổi dậy tôn giáo bùng lên tại Arabia do phong trào Wahhabi , được dòng họ Saud , những người khai lập ra nhà nước Saudi ủng hộ . Trong suốt thời gian chịu ảnh hưởng Anh – Pháp và sau đó là sự thống trị tại vùng Trung đông vào thế kỷ 19 và 29 , các thế lực đế quốc đã cai trị Ai cập , Sudan , Iraq , Syria và Palestine. Các cường quốc tuy chỉ mới đã gặm những phần đất ngoài rìa bán đảo Ả -rập , tại Aden và vịnh Ba tư , nhưng cũng đủ để đặt căn cứ quân sự và can thiệp chính trị tối thiểu vào tình bình nội bộ của vùng này.
Khi nào mà sự can thiệp của ngoại bang chỉ khu trú về mặt kinh tế , và cũng chỉ khi nào mà những đền bù vật chất thừa thải , xoa dịu được những nổi bất bình , thì tín đồ Hồi giáo mới chịu đựng đựơc sự hiện diện của những người không cùng tôn giáo . Nhưng trong những năm gần đây , các điều kiện cam kết đã thay đổi . Khi giá dầu giảm và dân số tăng , chi tiêu tăng , phần bù đắp ( rewards) không còn đầy đủ , thì những mối bất bình càng ngày càng càng trở nên nổi trội hơn ,ồn ào hơn . Và nước ngoài không chỉ nhúng tay vào các họat động kinh tế .Cách mạng tại Iran , các tham vọng của Saddam Hussein , và tất cả các vấn đề tại khu vực càng ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn , nhất là cuộc xung đột Israel-Palestine, đã làm cho nước ngoài can thiệp sâu hơn về mặt chính trị và quân sự , và như thế những tiếng kêu gào” chủ nghĩa đế quốc”càng được nhiều người nghe cho là có lý hơn .Khi có vấn đề liên quan đến đất thánh , dân Hồi giáo có khuynh hướng nhìn cuộc chiến , và đôi khi với cả kẻ thù nữa , dưới khía cạnh tôn giáo và cho rằng quân đội Mỹ chỉ là quân vô đạo và xâm lăng khi được gởi tới để giải phóng Kuwait và bảo vệ Saudi Arabia khỏi bị Saddam Hussein tấn công . Nhận thức này càng rõ hơn khi nước Mỹ là nước đầu têu rành rành trong số các cường quốc thuộc thế giới vô đạo .
Đối với đa số người Mỹ , tuyên bố của bin Ladin là 1 sự đùa cợt , một sự bóp méo trắng trợn về bản chất và mục đích sự hiện diện của Mỹ tại bán đảo Ả -rập . Họ cũng nên biết là đối với nhiều người , có lẽ là đa số dân Hồi giáo , tuyên bố này cũng là 1 sự đùa cợt trắng trợn về bản chất của Hồi giáo , ngay cả đối với học thuyết về thánh chiến Jihad . Kinh Qur’an đề cập đến chiến tranh cũng như hòa bình . Trong số hàng trăm ngàn truyền thuyết và lời dạy ít nhiều đựơc gán cho Đấng tiên tri và đựơc diễn giải đôi khi theo rất nhiều cách , dẫn tới nhiều chỉ dạy khác nhau , trong số đó sự diễn giải tôn giáo dưới khía cạnh bạo lực và vũ lực chỉ là một .
Trong lúc đó , có một số đáng kể các tín đồ Hồi giáo sẳn sàng đồng ý , và một số ít đem ra áp dụng , cách thể hiện tôn giáo của họ theo kiểu này . Chủ nghĩa khủng bố chỉ cần đến 1 số ít người . Hiển nhiên là phương tây phải tự vệ bằng bất cứ phương tiện nào có được . Nhưng trong khi nghĩ ra cách để chống lại bọn khủng bố , rõ ràng là cũng cần hiểu rõ động lực nào đã thúc đẩy chúng .
Chương 1
Định nghĩa Hồi giáo
Khó mà khái quát hóa về Hồi giáo . Trước hết , bản thân của từ này thường đựơc sử dụng với 2 nghĩa khác nhau nhưng lại liên quan với nhau , tương đương với đạo Cơ đốc ( Christianity ) và thế giới Cơ đốc ( Christendom ) . Một nghĩa để biểu thị một tôn giáo , 1 hệ thống niềm tin và thờ phượng ; một nghĩa khác , đó là 1 nền văn minh được sản sinh và nẩy nở dưới sự bảo trợ của tôn giáo đó . Bản thân từ Hồi giáo ( Islam ) đã là một lịch sử trên 14 thế kỷ , với 1 tỷ 300 triệu tín đồ và một truyền thống tôn giáo và văn hóa cực kỳ đa dạng . Đạo Cơ đốc và thế giới Cơ đốc đại diện cho một thời kỳ dài hơn và giáo đồ lớn hơn – trên 2 tỉ tín đồ , trên 20 thế kỷ và tính đa dạng thậm chí còn lớn hơn. Tuy nhiên , một số khái quát hóa có thể đưa ra và đã được đưa ra về cái gọi là nền văn minh Cơ đốc , Do thái – Cơ đốc , hậu Cơ đốc và – đơn giản hơn – phương Tây . Trong khi việc khái quát hóa nền văn minh Hồi giáo có thể khó khăn hơn và có lúc nguy hiểm , nhưng lại là việc không thể không làm và lắm khi cũng có phần hữu dụng .
Về mặt không gian , cương vực Hồi giáo trải dài từ Morocco tới Indonesia , từ Kazakhstan đến Senegal . Về mặt thời gian , đạo này đã có hơn 14 thế kỷ , tính từ lúc Đấng tiên tri bắt đầu giảng đạo tại bán đảo Ả -rập vào thế kỷ thứ 7 và ngài đã chủ trì dựng ra 1 cộng đồng và 1 đất nước Hồi giáo . Trong giai đoạn mà các sử gia châu Âu gọi là thời kỳ đen tối chen giữa sự suy tàn của nền văn minh cổ đại – Hy lạp và La mã – và sự trổi dậy của văn minh cận đại – Châu Âu , thì Hồi giáo là 1 nền văn minh chủ đạo trên thế giới , đựơc đánh dấu bởi các vương quốc to lớn và hùng mạnh , có nền kỹ nghệ và thương mãi phong phú và đa dạng , nền khoa học và văn chương độc đáo và sáng tạo . Hồi giáo , vượt xa hơn Cơ đốc giáo nhiều mặt , là giai đọan trung gian giữa Đông phương cổ đại và Tây phương cận đại trong đó có phần đóng góp đáng kể của tôn giáo này . Tuy nhiên trong 3 thế kỷ vừa qua , thế giới Hồi giáo đã đánh mất thế thống trị và vai trò lãnh đạo , và đã tụt hậu sau cả phương Tây hiện đại lẫn phương Đông cách tân một cách nhanh chóng . Cái hố ngăn cách càng ngày càng rộng này đã đặt ra những vấn đề cấp bách , cả về mặt thực tiển lẫn tình cảm , mà cho tới nay các nhà lãnh đạo , nhà tư tưởng và kẻ nổi lọan của Hồi giáo vẫn chưa tìm ra được câu trả lời phù hợp
Với tính cách là 1 tôn giáo , Hồi giáo về mọi mặt đều rất gần gũi với truyền thống Do thái- Cơ đốc hơn bất cứ tôn giáo lớn nào tại châu Á như đạo Hindu , đạo Phật hoặc đạo Khổng . Đạo Do thái và đạo Hồi có chung 1 niềm tin về 1 qui luật thần thánh chi phối mọi mặt của sinh họat con người , bao gồm cả đồ ăn thức uống . Tín đồ đạo Cơ đốc và đạo Hồi đều có chung tính thần hiếu thắng ( triumphalism) . Ngược lại với các tôn giáo khác của nhân lọai , kể cả đạo Do thái , 2 tôn giáo trên tin rằng chỉ có họ là những người may mắn tiếp thu và gìn giữ thông điệp cuối cùng của Thượng đế đối với con người , và họ có nhiệm vụ mang lại cho phần còn lại của thế giới . So sánh với những tôn giáo xa hơn ở phương đông , tất cả 2 tôn giáo ở vùng Cận đông – đạo Do thái , đạo Cơ đốc và đạo Hồi – đều có liên hệ chặt chẽ với nhau và đúng ra chỉ là các biến thể của cùng 1 truyền thống tôn giáo .
Thế giới Cơ đốc ( Christendom ) và Hồi giáo về nhiều mặt là những nền văn minh anh em , cả 2 đều bắt nguồn từ di sản chung về sự mặc khải và tiên tri của người Do thái và khoa học , triết học của người Hi lạp , và cả 2 đều đựơc nuôi dưỡng bởi các truyền thống xa xưa của vùng Trung đông cổ đại . Trong phần lớn lịch sử chung của họ , họ đã từng sát phạt nhau , nhưng ngay cả trong chiến đấu và tranh luận , họ đều có những nét giống nhau cơ bản và những đặc trung chung đã nối kết họ với nhau , và làm cho họ xa cách với những nền văn minh xa xôi hơn ở châu Á .
Nhưng dù có những nét tương đồng , vẫn có những cách biệt sâu sắc giữa 2 tôn giáo này , đưa tới những khác biệt hiển nhiên về giáo lý và cách thờ phượng . Không có nơi nào mà những sự khác biệt trở nên sâu sắc –và hiển nhiên- hơn là ở thái độ của 2 tôn giáo này , và ở các điểm dẫn giải có thẩm quyền , đối với các mối quan hệ giữa nhà nước , tôn giáo và xã hội . Người sáng lập ra