24/05/2018, 20:44

Sự cần thiết phải đổi mới cơ cấu hàng xuất khẩu trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam.

Cơ cấu xuất khẩu là tổng thể các bộ phận giá trị hàng hoá xuất khẩu hợp thành tổng kim ngạch xuất khẩu của một quốc gia cùng với những mối quan hệ ổn định và phát triển giữa các bộ phận hợp thành đó trong một điều kiện kinh tế - xã hội cho ...

Cơ cấu xuất khẩu là tổng thể các bộ phận giá trị hàng hoá xuất khẩu hợp thành tổng kim ngạch xuất khẩu của một quốc gia cùng với những mối quan hệ ổn định và phát triển giữa các bộ phận hợp thành đó trong một điều kiện kinh tế - xã hội cho trước tương ứng với một thời kỳ xác định.

Cơ cấu xuất khẩu là kết quả quá trình sáng tạo ra của cải vật chất và dịch vụ của một nền kinh tế thương mại tương ứng với một mức độ và trình độ nhất định khi tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Nền kinh tế như thế nào thì cơ cấu xuất khẩu như­ thế và ngược lại, một cơ cấu xuất khẩu phản ánh trình độ phát triển kinh tế tương ứng của một quốc gia. Chính vì vậy, cơ cấu xuất khẩu mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản của một cơ cấu kinh tế tương ứng với nó, nghĩa là nó mang những đặc trưng chủ yếu sau đây:

- Cơ cấu xuất khẩu bao giờ cũng thể hiện qua hai thông số: số lượng và chất lượng. Số lượng thể hiện thông qua tỷ trọng của từng bộ phận trong tổng thể và là hình thức biểu hiện bên ngoài của một cơ cấu xuất khẩu. Còn chất lượng phản ánh nội dung bên trong, không chỉ của tổng thể kim ngạch xuất khẩu mà còn của cả nền kinh tế. Sự thay đổi về số lượng vượt qua ngưỡng giới hạn nào đó, đánh dấu một điểm nút thay đổi về chất của nền kinh tế.

- Cơ cấu xuất khẩu mang tính khách quan.

- Cơ cấu xuất khẩu mang tính lịch sử, kế thừa. Sự xuất hiện trạng thái cơ cấu xuất khẩu sau bao giờ cũng bắt đầu và trên cơ sở của một cơ cấu trước đó, vừa kế thừa vừa phát triển.

- Cơ cấu xuất khẩu cần phải bảo đảm tính hiệu quả.

- Cơ cấu xuất khẩu có tính hướng dịch, có mục tiêu định trước.

- Cơ cấu xuất khẩu cũng như­ nền kinh tế luôn ở trạng thái vận động phát triển không ngừng từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.

Do những đặc trưng như­ vậy nên cơ cấu xuất khẩu là một đối tượng của công tác kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội và là một trong những tiêu thức quan trọng để đánh giá trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia.

Tổng kim ngạch xuất khẩu có thể được phân chia theo những tiêu thức khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu và cách thức tiếp cận. Thông thường, người ta tiếp cận theo hai hướng: giá trị xuất khẩu đã thực hiện ở đâu (theo thị trường) và giá trị những gì đã được xuất khẩu (theo mặt hàng hay nhóm hàng). Vì vậy, có hai loại cơ cấu xuất khẩu phổ biến.

Cơ cấu thị trường xuất khẩu.

Là sự phân bổ giá trị kim ngạch xuất khẩu theo nước, nền kinh tế và khu vực lãnh thổ thế giới, với tư­ cách là thị trường tiêu thụ. Loại cơ cấu này phản ánh sự mở rộng quan hệ buôn bán với các nước trên thế giới và mức độ tham gia vào phân công lao động quốc tế. Xét về bản chất, cơ cấu thị trường xuất khẩu là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố: kinh tế, chính trị, khoa học công nghệ, chính sách đối ngoại của một quốc gia. Thị trường xuất khẩu xét theo lãnh thổ thế giới thường được chia ra nhiều khu vực khác nhau: thị trường châu á, Bắc Mỹ, Đông Nam á, EU... Do đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội và truyền thống khác nhau nên các thị trường có những đặc điểm không giống nhau về cung, cầu, giá cả và đặc biệt là những quy định về chất lượng, do đó, khi thâm nhập vào những thị trường khác nhau cần tìm hiểu những điều kiện riêng nhất định của họ.

Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.

Cơ cấu hàng xuất khẩu.

Có thể hiểu một cách đơn giản, cơ cấu hàng xuất khẩu là tỷ lệ tương quan giữa các ngành, mặt hàng xuất khẩu hoặc tỷ lệ tương quan giữa các thị trường xuất khẩu.

Thương mại là một lĩnh vực trao đổi hàng hoá, đồng thời là một ngành kinh tế kỹ thuật có chức năng chủ yếu là trao đổi hàng hoá thông qua mua bán bằng tiền, mua bán tự do trên cơ sở giá cả thị trường. Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu là một phân hệ của cơ cấu thương mại, là tổng thể các mối quan hệ chủ yếu, tương đối ổn định của các yếu tố kinh tế hoặc các bộ phận của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thuộc hệ thống kinh doanh thương mại trong điều kiện lịch sử cụ thể.

Mặt hàng xuất khẩu của mỗi quốc gia rất đa dạng, phong phú nên có thể phân loại cơ cấu hàng xuất khẩu theo nhiều tiêu thức khác nhau:

- Xét theo công dụng của sản phẩm: coi sản phẩm xuất khẩu thuộc tư­ liệu sản xuất hay tư­ liệu tiêu dùng và trong tư­ liệu sản xuất lại chia thành nguyên liệu đầu vào, máy móc thiết bị, thiết bị toàn bộ.

- Căn cứ vào tính chất chuyên môn hoá sản xuất theo ngành: phân chia thành: (i) sản phẩm công nghiệp nặng và khoáng sản, (ii) công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp, (iii) sản phẩm nông - lâm - ngư­ nghiệp... Đây cũng chính là tiêu thức mà thống kê của Việt Nam thường lựa chọn và được chia thành 3 nhóm chính (i), (ii), (iii).

- Căn cứ vào trình độ kỹ thuật của sản phẩm: phân chia thành sản phẩm thô, sơ chế hoặc chế biến.

­- Dựa vào hàm lượng các yếu tố sản xuất mà cấu thành nên giá trị của sản phẩm: sản phẩm có hàm lượng lao động cao, sản phẩm có hàm lượng vốn cao hoặc công nghệ cao.

Mỗi loại cơ cấu mặt hàng theo cách phân loại nói trên chỉ là phản ánh một mặt nhất định của cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Điều đó có nghĩa khi nhìn vào cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của một quốc gia trong một giai đoạn, có thể đánh giá được nhiều vấn đề khác nhau, tuỳ vào góc độ xem xét. Nhìn chung, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu phản ánh hai đặc trưng cơ bản: sự dư­ thừa hay khan hiếm về nguồn lực và trình độ công nghệ của sản xuất cũng như­ mức độ chuyên môn hoá.

Hiện nay, theo phân loại của tổ chức thương mại quốc tế (WTO), các hàng hoá tham gia thương mại quốc tế được chia thành 10 nhóm theo mã số như­ sau:

  1. lương thực, thực phẩm
  2. đồ uống và thuốc lá
  3. nguyên liệu thô
  4. dầu mỏ
  5. dầu, chất béo động thực vật
  6. hoá chất
  7. công nghiệp cơ bản
  8. máy móc, thiết bị, giao thông vận tải
  9. sản phẩm chế biến hỗn hợp
  10. hàng hoá khác

Theo cơ cấu này cho thấy một cách tương đối đầy đủ về hàng hoá xuất khẩu của một quốc gia. Tuy nhiên, khi áp dụng vào điều kiện Việt Nam thì cơ cấu này trở nên không đầy đủ, vì sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu nằm ở nhóm 0 và nhóm 2, 3, hơn nữa còn thể hiện ở nhóm sản phẩm thủ công mỹ nghệ (nhóm sản phẩm truyền thống của Việt Nam).

Khi định hướng chuyển dịch cơ cấu theo tiêu chuẩn này sẽ gặp nhiều khó khăn. Để có thể phát huy được ư­u điểm và khắc phục được nhược điểm khi áp dụng vào điều kiện Việt Nam, ta đ­ưa ra cách phân loại hàng xuất khẩu Việt Nam thành các nhóm sau:

  1. lương thực, thực phẩm
  2. nguyên liệu thô
  3. nhiên liệu, năng lượng
  4. cơ khí, điện tử
  5. dệt may, da giày
  6. hàng chế biến tổng hợp
  7. thủ công mỹ nghệ
  8. hàng hoá khác

Riêng các sản phẩm hàng hoá, hệ thống phân loại quốc tế SITC (System of International Trade Classification) chia thành 3 nhóm sản phẩm lớn:

  • Nhóm 1: sản phẩm lương thực, thực phẩm, đồ hút, đồ uống, nguyên nhiên liệu thô và khoáng sản.
  • Nhóm 2: sản phẩm chế biến.
  • Nhóm 3: sản phẩm hoá chất, máy móc thiết bị và phương tiện vận tải.

Trên đây là một số loại cơ cấu phân theo các tiêu thức khác nhau, mỗi loại cơ cấu có ư­u điểm, nhược điểm khác nhau, thậm chí ư­u điểm trong thời gian này lại là nhược điểm trong thời gian khác. Luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu việc chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.

Sự cần thiết phải đổi mới cơ cấu hàng xuất khẩu.

Thứ nhất, đổi mới cơ cấu xuất khẩu có mối quan hệ hữu cơ với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập kinh tế. Để có được đánh giá chính xác và toàn diện thực trạng chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu trong thời gian vừa qua và định hướng cho thời gian tới, cần phải dựa trên quan điểm cụ thể về công nghiệp hóa hiện đại hóa.

Báo cáo Chính trị tại Đại hội toàn quốc IX của Đảng đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đư­a nước ta trở thành một nước công nghiệp; ­ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh”. Những mục tiêu, quan điểm và tư­ tưởng chỉ đạo về công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước được phản ánh rõ nét nhất là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa; hướng mạnh về xuất khẩu có lựa chọn; công nghiệp hóa hiện đại hóa theo hướng mở cửa và hội nhập với thế giới.

Rõ ràng, giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế với công nghiệp hóa hiện đại hóa có mối quan hệ biện chứng, cái nọ vừa là hệ quả nhưng lại là tiền đề cho cái kia. Song xuất khẩu hàng hoá chỉ là một khâu trong quá trình tái sản xuất và là một bộ phận trong tổng thể nền kinh tế nói chung, cho nên một mặt nó giữ vai trò thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, mặt khác với tư­ cách là chủ thể vừa diễn ra trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, lại vừa diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu trong bản thân lĩnh vực xuất khẩu.

Thứ hai, những thay đổi trong cơ cấu xuất khẩu trên thị trường quốc tế có những chiều hướng mới, các xu hướng rõ nét nhất là:

- Xuất khẩu ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc dân của các quốc gia, thể hiện mức độ mở cửa của các nền kinh tế quốc gia trên thị trường thế giới.

- Tốc độ tăng trưởng của hàng hoá “vô hình” nhanh hơn các hàng hoá “hữu hình”.

- Giảm đáng kể tỷ trọng các nhóm hàng lương thực, thực phẩm.

- Giảm mạnh tỷ trọng của nguyên liệu, tăng nhanh tỷ trọng của dầu mỏ và khí đốt.

- Tăng nhanh tỷ trọng của sản phẩm công nghiệp chế biến, nhất là máy móc thiết bị.

Tình hình trên bắt buộc Việt Nam phải thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu.

Thứ ba, chỉ có thay đổi cơ cấu xuất khẩu hàng hoá, chúng ta mới phát huy thế mạnh lợi thế của đất nước về nguồn lao động dồi dào, tài nguyên thiên nhiên phong phú, và vị trí địa lý thuận lợi, đồng thời khắc phục được yếu kém về vốn, trình độ kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý.

Thứ tư­, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu sẽ tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới.

Một xu hướng của thị trường thế giới hiện nay là các sản phẩm có hàm lượng khoa học và công nghệ cao, sức cạnh tranh mạnh mẽ, trong khi các sản phẩm nguyên liệu thô ngày càng mất giá và kém sức cạnh tranh. Chu kỳ sống của các loại sản phẩm xuất khẩu được rút ngắn, việc đổi mới thiết bị, công nghệ, mẫu mã hàng hoá diễn ra liên tục. Đây là một kết quả tất yếu khi khoa học kỹ thuật phát triển, bởi chính sự phát triển đó làm giảm giá thành sản phẩm, sự tiêu hao ít nguyên liệu, dẫn tới nhu cầu về nguyên liệu ngày càng có xu hướng giảm.

Chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu làm cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam có sự cạnh tranh lớn hơn trên thị trường. Việc tăng cường xuất khẩu những sản phẩm tinh chế sẽ giúp chúng ta thu được giá trị xuất khẩu lớn hơn. Mặt khác, cải biến cơ cấu xuất khẩu sẽ hạn chế việc sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm không đáp ứng nhu cầu thị trường, hạn chế xuất khẩu bằng mọi giá, bất chấp hiệu quả kinh tế - xã hội và lợi ích quốc gia.

Hàng hoá nông sản xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chủ yếu là nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế, vì vậy, sức cạnh tranh kém, người xuất khẩu bị ép giá thiệt thòi. Trong thực tế mấy năm gần đây đã chứng tỏ điều đó, các mặt hàng nông sản trên thế giới đều có xu hướng “cung lớn hơn cầu”, giá giảm. Để nâng cao cạnh tranh, cũng như­ hạn chế sự giao động về giá cả thì không còn con đường nào khác là phải đổi mới cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng cường xuất khẩu các mặt hàng tinh chế, giảm dần sản phẩm thô và sản phẩm sơ chế.

Thứ năm, sự phát triển của thương mại quốc tế ngày càng mở rộng về mức độ, phạm vi, phương thức cạnh tranh với nhiều công cụ khác nhau như­: chất lượng, giá cả, bao bì, mẫu mã, điều kiện giao hàng, thanh toán các dịch vụ sau bán hàng... đòi hỏi xuất khẩu các mặt hàng phải linh hoạt để thích ứng.

Cuối cùng, sự phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế mỗi quốc gia đều tham gia vào các hiệp ­ước, hiệp hội khu vực và quốc tế yêu cầu các nước đang phát triển như­ Việt Nam phải có sự chuyển biến nhanh chóng trong thương mại quốc tế, mà nội dung quan trọng là phải chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu. Bởi những yếu tố khách quan cũng như­ chủ quan, có thể nhìn nhận trong thời gian này, kinh tế thế giới và khu vực vẫn đang ở trong chu kỳ suy thoái, thậm chí dường như­ ở đáy của chu kỳ này. Do vậy, những nỗ lực gia tăng sản lượng đã không đủ bù đắp lại thiệt hại về giá cả trên thị trường thế giới. Chúng ta không thể phát triển đất nước dựa vào xuất khẩu những gì hiện có và nhập khẩu những gì cần thiết, đã đến lúc đòi hỏi phải có chất lượng lâu dài về cơ cấu xuất khẩu hàng hoá.

0