Sự cần thiết của kế toán thành phẩm và tổ chức hệ thống kế toán
Sản xuất hàng hoá ra đời đã đánh dấu sự phát triển của nền sản xuất xã hội và cho đến nay nó đã phát triển đến giai đoạn cao, đó là nền kinh tế thị trường. Thị trường là nơi tập trung các quan hệ sản xuất hàng hoá, là mục tiêu và cũng là nơi ...
Sản xuất hàng hoá ra đời đã đánh dấu sự phát triển của nền sản xuất xã hội và cho đến nay nó đã phát triển đến giai đoạn cao, đó là nền kinh tế thị trường. Thị trường là nơi tập trung các quan hệ sản xuất hàng hoá, là mục tiêu và cũng là nơi kết thúc quá trình kinh doanh. Điều quyết định sự tồn tại của một doanh nghiệp là thị trường chấp nhận sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp đó cả về chất lượng, mẫu mã và đi tới chấp nhận giá cả của sản phẩm. Để đánh giá khách quan và giám đốc toàn diện mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kế toán được sử dụng như một công cụ sắc bén và có hiệu lực nhất.
Một trong những nội dung chủ yếu của kế toán quá trình sản xuất và tiêu thụ là kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm. Ý nghĩa to lớn của kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm đòi hỏi các doanh nghiệp áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để tổ chức kế toán thành phẩm khoa học, hợp lý đúng chế độ Tài chính kế toán của Nhà nước, đảm bảo phản ánh chính xác, trung thực, khách quan tình hình nhập - xuất - tồn kho thành phẩm, tình hình thực hiện kế toán tiêu thụ thành phẩm, xác định doanh thu bán hàng, từ đó xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiêp. Thực hiện chính xác, nhanh chóng kế toán thành phẩm, doanh thu bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ không chỉ mang lại lợi ích đối với từng doanh nghiệp mà ở tầm vĩ mô công tác đó còn góp phần định lượng toàn bộ nền kinh tế.
Thành phẩm và ý nghĩa cuả thành phẩm
Thành phẩm là những sản phẩm đã kết thúc quy trình công nghệ do doanh nghiệp thực hiện hoặc thuê ngoài gia công chế biên, đã được kiểm nghiệm phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật quy định đã được nhập kho để bán hoặc giao thẳng cho người mua.
Trong doanh nghiệp công nghiệp, sản phẩm của từng bước công nghệ, từng giai đoạn sản xuất mới chỉ là nửa thành phẩm, nửa thành phẩm còn lại phải tiếp tục chế biến cho đến khi hoàn chỉnh. Những nửa thành phẩm đóng vai trò quan trọng và có giá trị sử dụng tương đối đầy đủ trong nền kinh tế thì nửa thành phẩm đó có thể bán ra ngoài. Tức là thành phẩm và nửa thành phẩm chỉ là những khái niệm xét trong phạm vi một doanh nghiệp cụ thể. Do vậy, thanh phẩm của doanh nghiệp này có thể chỉ là nửa thành phẩm của doanh nghiệp khác và ngược lại. Chính vì vậy, việc xác định đúng đắn thành phẩm trong từng doanh nghiệp là vấn đề cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, nó quyết định đến quy mô, trình độ tổ chức quản lý sản xuất và tổ chức kế toán thành phẩm.
Thành phẩm được biểu hiện trên hai mặt: hiện vật và giá trị. Hiện vật được biểu hiện cụ thể bằng khối lượng hay số lượng và chất lượng hay phẩm chất.
Giá trị chính là giá trị của thành phẩm sản xuất nhập kho hay trị giá vốn của thành phẩm đem bán.
Ý nghĩa: Thành phẩm là kết quả lao động sáng tạo của cán bộ công nhân viên trong toàn doanh nghiệp. Vì vậy cần đảm bảo an toàn tới mức tối đa thành phẩm, tránh rủi ro làm ảnh hưởng tới tài sản tiền vốn và thu nhập của doanh nghiệp.
Sản phẩm sản xuất ra muốn đáp ứng được nhu cẩu tiêu dùng phải thông qua tiêu thụ.
Tiêu thụ thành phẩm và ý nghĩa của tiêu thụ thành phẩm
Thành phẩm trước khi đến tay người tiêu dùng phải trải qua quá trình tiêu thụ thành phẩm.
Tiêu thụ thành phẩm (hay còn gọi là bán hàng) là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là giai đoạn cuối cùng của quá trình hoàn vốn của doanh nghiệp. Tiêu thụ thành phẩm là quá trình trao đổi để thực hiện giá trị hàng hoá, tức là chuyển hoá vốn của doanh nghiệp từ trạng thái hiện vật (hàng) sang trạng thái tiền tệ (tiền).
Hàng được đem bán có thể là thành phẩm, hàng hoá, vật tư hay lao vụ dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Việc bán hàng có thể thoả mãn nhu cầu của cá nhân, đơn vị ngoài doanh nghiệp được gọi là bán hàng ra ngoài. Cũng có thể được cung cấp giữa các đơn vị, cá nhân trong cùng một công ty, một tập đoàn…gọi là bán hàng nội bộ.
Quá trình bán hàng được coi là hoàn thành khi hội đủ hai điều kiện:
Hàng hoá đựơc chuyển giao chó khách, lao vụ dịch vụ đã được thực hiện.
Khách hàng đã thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán.
Điều đó có nghĩa là nghiệp vụ bán hàng chỉ xảy ra khi giao xong hàng và nhận được tiền hoặc giấy chấp nhận trả tiền của khách hàng. Đây là lý do dẫn đến tình trạng doanh thu bán hàng và tiền hàng nhập quỹ không đồng thời. Số tiền thu được do bán hàng được gòi là doanh thu bán hàng.
Doanh thu bán hàng gồm: doanh thu bán hàng ra ngoài và doanh thu bán hàng nội bộ.
Tiền hàng nhập quỹ phản ánh toàn bộ số tiền mà người mua đã trả cho doanh nghiệp.
Phân biệt giữa doanh thu bán hàng và tiền bán hàng nhập quỹ giúp doanh ngiệp xác định thời điểm kết thúc quá trình bán hàng, giúp bộ phận quản lý tìm ra phương thức thanh toán hợp lý và có hiệu quả, sử dụng hiệu quả số tiền nhập quỹ đem lại nguồn lợi lớn nhất cho doanh nghiệp.
Doanh thu bán hàng của doanh nghiệp chỉ được ghi nhận khi hàng hoá chuyển cho người mua và thu được tiền hoặc được người mua chấp nhập thanh toán tuỳ theo phương thức thanh toán.
Đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân: Thông qua khâu bán hàng góp phần đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của xã hội, giữ vững quan hệ cân đối tiền hàng, ổn định đời sống nhân dân làm cho nền kinh tế quốc dân phát triền vững mạnh.
Như vậy, chỉ tiêu hàng hoá tiêu thụ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và đối với quá trình sản xuất trong phạm vi doanh nghiệp nói riêng.
Nhiệm vụ của kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm
Thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm là hai mặt của một hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Vì quá trình sản xuất không chỉ dừng lại ở việc sản xuất ra sản phẩm mà phải bán sản phẩm kịp thời. Giữa kế hạch sản xuất và kế hoạch tiêu thụ có quan hệ mật thiết trong đó sản xuất là gốc của tiêu thụ. Nếu sản xuất không đảm bảo kế hoạch thì sẽ kéo theo kế hoạch tiêu thụ bị phá vỡ.
Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp phải tính được kết quả kinh doanh trên cơ sở so sánh giữa doanh thu và chi phí của các hoạt động, kết quả kinh doanh phải được phân phối sử dụng theo đúng mục đích và tỷ lệ nhất định do cơ chế tài chính quy định.
Để tăng cường công tác chỉ đạo sản xuất kinh doanh, để kế toán thực sự là công cụ quản lý sắc bén, có hiệu lực thì kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
Tổ chức theo dõi, phản ánh chính xác, kịp thời và giám đốc chắt chẽ tình hình hiện có và sự biến động của từng loại thành phẩm, hàng hoá, trên cả hai mặt hiện vật và giá trị.
Theo dõi phản ánh giám đốc chặt chẽ quá trình tiêu thụ ghi chép đầy đủ các khoản chi phí bán hàng, thu nhập bán hàng, xác định kết quả sản xuất thông qua doanh thu bán hàng một cách chính xác.
Cung cấp những thông tin kinh tế cần thiết cho các bộ phận liên quan, đồng thời định kỳ tiến hành phân tích kinh tế đối với hoạt động bán hàng và xác định kết quả.
Kiểm tra, giám sát tiến độ thực hiện kế hoạch thực hiện tiêu thụ. Kế hoạch lợi nhuận, kỷ luật thanh toán và nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Như vậy, thông tin mà kế toán cung cấp giúp nhà quản lý doanh nghiệp biết được tình hình hiện có và sự biến động của từng loại thành phẩm từ đó giúp nhà quản lý điều hành, đánh giá, phân tích..tình hình hoạt động của doanh nghiệp và đề ra các biện pháp, quyết định phù hợp với đường lối chính sách của doanh nghiệp.
Tổ chức công tác kế toán hợp lý và khoa học, phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm phát huy vai trò của kế toán là một yêu cầu quan trọng đối với người chủ doanh nghiệp và kế toán trưởng, đặc biệt là bộ phận kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm. Kế toán cung cấp những thông tin cần thiết giúp giám đốc doanh nghiệp và những nhà quản lý doanh nghiệp biết được mức độ hoàn thành sản phẩm của doanh nghiệp, giá thành sản phẩm tiêu thụ…Để phát hiện kịp thời thiếu sót, mất cân đối ở từng khâu của quá trình lập và thực hiện kế hoạch. Làm tốt khâu này sẽ tạo điều kiện cho bộ phận kế toán giá thành… tạo ra một hệ thống quản lý chặt chẽ, có hiệu lực cao. Như vậy, việc tổ chức công tác kế toán thành phẩm và kế toán tiêu thụ thành phẩm một cách khoa học hợp lý phù hợp với điều kiện của từng doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thu nhận, xử lý, cung cấp thông tin cần thiết cho chủ doanh nghiệp, giám đốc điều hành, các cơ quan chủ quả…Để lựa chọn phương thức kinh doanh có hiệu quả…
Như vậy, mục đích của kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm là cung cấp thông tin đầy đủ và cần thiết cho các đối tượng khác nhau với nhiều mục đích khác nhau để đưa ra những quyết định quản lý phù hợp. Điều này nói lên vai trò vô cùng quan trọng của kế toán thành phẩm, tiêu thụ thành phẩm trong công tác quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đế hạch toán nghiệp vụ thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm kế toán sử dụng sổ kế toán có liên quan đến toàn bộ quá trình tiêu thụ, từ khâu kiểm kê đối chiếu số lượng thành phẩm nhập, tồn kho, giá thành thành phẩm nhập kho, giá bán thành phẩm xuất kho, tập hợp thuế giá trị gia tăng đầu ra phải nộp cho nhà nước, đến tình hình thanh toán của khách hàng với đơn vị. Vì vậy, để thuận tiện cho công tác quản lý, kế toán tiêu thụ sử dụng các sổ tổng hợp và sổ chi tiết có liên quan đến toàn bộ quá trình tiêu thụ. Số lượng sổ kế toán tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý và việc áp dụng hình thức tổ chức kế toán của từng đơn vị.
Hiện nay, ở các doanh nghiệp sản xuất thường sử dụng một trong các hình thức sổ sau:
Hình thức kế toán “Nhật ký chung”
Đặc chưng của hình thức này là: tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều phải đưpưck ghi vào sổ Nhật ký chung theo trình tự thời gian phát sinh và định khoản từng nghiệp vụ kế toán đó. Sau đó lấy số liệu trên sổ Nhật ký chung để ghi sổ theo từng nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Các loại sổ kế toán chủ yếu của hình thức Nhật ký chung sử dụng trong hạch toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm:
- Số Nhật ký chung
- Một số sổ Nhật ký chung đặc biệt: Sổ Nhật ký thu tiền, sổ nhật ký chi tiền, sổ nhật ký mua hàng, nhật ký bán hàng.
- Sổ cái các tài khoản: 155,157,632,511,512,641,642,911…
- Các sổ, thẻ kế toán chi tiết về TK 131,331,211,152…
Ưu điểm: hình thức này thuận lợi cho việc đối chiếu kiểm tra với chứng từ gốc, tiện lợi cho việc sử dụng máy tính…
Nhược điểm: Số liệu ghi sổ bị trùng lặp.
Hình thức kế toán “Nhật ký - Sổ cái”
Đặc chưng của loại sổ Nhật ký – Sổ cái là các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được kết hợp ghi chép theo trình tự thời gian và nội dung kinh tế trên cùng một quyển sổ kế toán tổng hợp duy nhất là Nhật ký – Sổ cái.
Căn cứ để ghi Nhật ký – Sổ cái là các chứng từ gốc hoặc bảng tổng hợp chứng từ gốc.
Để hạch toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm hình thức này sử dụng các loại sổ chủ yếu sau:
- Số Nhật ký – Sổ cái
- Các sổ, thẻ kế toán chi tiết TK 155,157,131,511….
Ưu điểm: - Đơn giản trong ghi chép
- Số liệu rõ ràng, dễ đối chiếu, dễ kiểm tra
- Không cần lập bảng cân đối số phát sinh tài khoản
Nhược điểm: - Không thuận tiện cho đơn vị sử dụng nhiều TK kế toán
- Khó phân công cho nhiều người ghi sổ
- Không thuận tiện cho cơ giới hoá tính toán
Hình thức kế toán Chứng từ ghi sổ
Đặc chưng của hình thức này là mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh phải căn cứ vào chứng từ gốc để lập “ Chứng từ ghi sổ”. Việc ghi sổ kế toán tổng hợp bao gồm:
- Ghi theo trình tự thời gian trên sổ đăng ký chứng từ ghi sổ.
- Ghi theo nội dung kinh tế trên sổ cái.
Chứng từ ghi sổ do kế toán lập trên cơ sở từng chứng từ gốc hoặc bảng tổng hợp chứng từ gốc cùng loại, có cung nội dung kinh tế.
Chứng từ ghi sổ được đánh thức tự trong từng tháng, năm (theo số thứ tự trong sổ đăng ký chứng từ ghi sổ) phải có đính kèm chứng từ gốc và phải được kế toán trưởng duyệt trước khi ghi sổ kế toán.
Các loại sổ sử dụng trong hạch toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm :
- Sổ đăng ký Chứng từ – ghi sổ
- Sổ cái TK 155,157,632,641,642,611…
- Các sổ, thẻ kế toán có liên quan
Ưu điểm: - Lập chứng từ ghi sổ giảm được số lần ghi sổ kế toán
- Kiểm tra đối chiếu số liệu chặt chẽ giữa kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết
- Không đòi hỏi trình độ kế toán cao
Nhược điểm: - Số liệu ghi chép có sự trùng lặp, hiệu suất kế toán thấp
- Số liệu ghi chép dồn vào cuối tháng, cung cấp số liệu chậm
Hình thức kế toán Nhật ký chứng từ
Đặc chưng cơ bản của hình thức sổ này là tổ chức sổ sách theo nguyên tắc phù hơp và hệ thống hoá các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo một vế của tài khoản kết hơp với việc phân tích các nghiệp vụ kinh tế đó theo các tài khoản đối ứng.
Hình thức Nhật ký – Chứng từ sử dụng các loại sổ kế toán sau trong hạch toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm:
- Nhật ký – Chứng từ số 8 và các nhật ký chứng từ khác có liên quan.
- Các bảng kê: bảng kê số 5, bảng kê số 8, 9,10,11 và các bảng kê khác có liên quan
- Sổ cái các TK 155,157,632,641,642,911….
Ưu điểm:
- Giảm đáng kể công việc ghi chép hàng ngày do tránh được trùng lặp và nân cao năng xuất lao động của nhân viên kế toán.
- Thuận tiện cho việc lập báo cáo tài chính.
- Rút ngắn thời gian làm quyết toán và cung cấp số liệu cho quản lý.
Nhược điểm:
- Không thuận tiện cho kế toán máy.
- Không phù hợp đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ, ít nghiệp vụ kinh tế.
- Không phù hợp đối với nhứng doanh nghiệp mà trình độ nhân viên kế toán còn yếu và không đồng đều