Sự cần thiết của công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
Phát triển nguồn nhân lực đòi hỏi phải phát triển đồng bộ cả về mặt chất lượng và mặt số lượng: Về mặt chất lượng : nhấn mạnh nguồn vốn nhân lực được tạo ra qua quá trình đầu tư vào nguồn nhân lực bao gồm đầu tư vào giáo ...
Phát triển nguồn nhân lực đòi hỏi phải phát triển đồng bộ cả về mặt chất lượng và mặt số lượng:
- Về mặt chất lượng: nhấn mạnh nguồn vốn nhân lực được tạo ra qua quá trình đầu tư vào nguồn nhân lực bao gồm đầu tư vào giáo dục và học tập kinh nghiệm tại nơi làm việc, sức khoẻ và dinh dưỡng… vốn có tính bổ sung lẫn nhau cao.
- Về mặt số lượng: phụ thuộc chủ yếu vào quy mô và tốc độ tăng dân số hàng năm.
Phát triển nguồn nhân lực là quá trình tạo dựng lực lượng lao động có kỹ năng và sử dụng chúng có hiệu quả. Đây chính là sự nhìn nhận dưới góc độ một doanh nghiệp, còn dưới góc độ là người công nhân thì đó là việc nâng cao kỹ năng, năng lực hành động và chất lượng cuộc sống nhằm nâng cao năng suất lao động và thu nhập của người lao động.
Như vậy phát triển nguồn nhân lực là quá trình phát triển giáo dục, tiếp thu kinh nghiệm, tăng cường thể lực, kế hoạch hoá dân số, tăng nguồn vốn xã hội cũng như các quá trình khuyến khích hoặc tối ưu hoá sự đóng góp của các quá trình khác nhau vào quá trình sản xuất như quá trình sử dụng lao động, khuyến khích hiệu ứng lan toả kiến thức trong nhân dân.
Mối quan hệ giữa quá trình công nghiệp hoá và phát triển nguồn nhân lực.
Quá trình này trải qua hai giai đoạn đó là:
- Giai đoạn chuyển dịch lao động dư thừa từ nông nghiệp sang các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động và giá trị gia tăng thấp.
- Giai đoạn chuyển dịch lao động từ các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng thấp lên các ngành có giá trị gia tăng cao.
Như vậy đóng góp chính của phát triển nguồn nhân lực cho quá trình công nghiệp hoá là đào tạo và cung cấp đủ nguồn nhân lực đáp ứng kỹ năng và sức khoẻ để thực hiện được hai giai đoạn chuyển dịch trên.
Đặc trưng của việc đầu tư vào nhân lực khác hẳn so với các loại đầu tư khác.
- Không bị giảm giá trị trong quá trình sử dụng mà ngược lại càng được sử dụng nhiều khả năng tạo thu nhập và do vậy thu hồi vốn càng cao.
- Chi phí tương đối cao trong khi đó khoảng thời gian sử dụng lại lớn, thường là khoảng thời gian làm việc của cả đời người.
- Các hiệu ứng gián tiếp và hiệu ứng lan toả của đầu tư vào vốn nhân lực là rất lớn.
- Không chỉ là phương tiện để đạt thu nhập mà còn là mục tiêu của xã hội giúp con người thưởng thức cuộc sống đầy đủ hơn.
- Không chỉ do tỷ lệ thu hồi đầu tư trên thị trường lao động quyết định.
Các lợi ích có được từ đầu tư vào nhân lực mang lại nếu được đặt trong điều kiện được sử dụng hiệu quả và có môi trường phát triển phù hợp và thuận lợi. Ngược lại sẽ là sự lãng phí đầu tư, là mất mát to lớn và đáng sợ nhất.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ đổi mới đó là: nâng cao nguồn vốn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế kết hợp kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, sức khoẻ và dinh dưỡng. Giáo dục có vai trò đáng kể khuyến khích sự phân bổ hợp lý các nguồn lực, giảm chi phí và tăng lợi nhuận cận biên đối với các thông tin về sản xuất ( đặc biệt trong khu vực sản xuất của nhà nước). Nâng cao trình độ giáo dục và giảm nghèo, bất bình đẳng và ổn định kinh tế vĩ mô như phát triển giáo dục đào tạo và tiến bộ công nghệ: đổi mới, sáng tạo, mô phỏng công nghệ làm năng suất tăng tỷ lệ thuận với trình độ vốn nhân lực được tích luỹ từ trước mà đổi mới, sáng tạo, mô phỏng và du nhập công nghệ, năng suất phụ thuộc vào khoảng cách giữa trình độ, kiến thức công nghệ bên ngoài và trình độ nguồn vốn nhân lực trong nước.
Phát triển nguồn nhân lực trải qua bốn thời kỳ cơ bản sau:
- Thời kỳ ổn định và khôi phục phát triển kinh tế ( những năm 1970)đây là thời kỳ tạo nền tảng và phát triển các ngành công nghiệp nhẹ cũng như một số các ngành khác như: xây dựng, năng lượng nhằm tạo ra tích luỹ ban đầu cho nền kinh tế và cơ sở hạ tầng cho cất cánh công nghiệp.
Yêu cầu đối với phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục đào tạo là mở rộng cơ hội tiếp nhận giáo dục tiểu học cho trẻ em. Đây là mục tiêu cấp thiết để giúp lực lượng lao động dôi dư trong nông nghiệp chuyển dịch lên khu công nghiệp và các khu vực khác có năng suất lao động cao hơn.
- Thời kỳ thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển tỷ trọng công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân ( những năm cuối 1970 đầu 1980).
Yêu cầu phát triển nguồn nhân lực bằng cách mở rộng giáo dục trung học bao gồm cả nhánh phổ thông lẫn nhánh giáo dục nghề nghiệp. Tuy nhiên mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học không được lơi lỏng mà phải tiếp tục củng cố và nhấn mạnh tiêu điểm vào nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học để làm nền tảng cho chất lượng các cấp học tiếp theo.
- Thời kỳ những năm 1990: giai đoạn có những bước điều chỉnh quan trọng trong chiến lược công nghiệp hoá, định hướng phát triển các ngành có giá trị gia tăng cao và có hàm lượng vốn kỹ thuật lớn.
Yêu cầu phát triển nguồn nhân lực trên cơ sở tiếp tục mở rộng giáo dục trung học kể cả giáo dục nghề nghiệp cấp trung học, cao đẳng đồng thời mở rộng giáo dục nghề sau trung học và giáo dục đại học.
- Thời kỳ công nghiệp hoá ( cuối năm 1990 đến nay ): phát triển các ngành kinh tế có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, đặc biệt các ngành có hàm lượng tri thức công nghệ cao. Mặt khác tạo dựng xã hội hậu công nghiệp với mục tiêu phát triển con người toàn diện thông qua chính sách thiết lập xã hội học tập suốt đời.
Yêu cầu phát triển nguồn nhân lực bằng việc cải cách nền giáo dục đã từng phục vụ thành công cho quá trình công nghiệp hóa chuyển đổi định hướng của nền giáo dục phổ thông theo yêu cầu phát triển của thời kỳ mới.
Các yếu tố quốc tế:
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức và toàn cầu hoá. Trong điều kiện công nghệ quốc tế thay đổi nhanh và nguy cơ khoảng cách phát triển ngày càng xa giữa các nước giàu và các nước nghèo.
Các yếu tố trong nước:
- Đặc thù kết hợp nhiều quá trình kinh tế trong công nghiệp hoá ở Việt Nam:
Việt Nam tiến hành công nghiệp hoá từ xuất phát điểm là một nước nông nghiệp đông dân nghèo nàn lạc hậu lại chịu ảnh hưởng nặng nề sau chiến tranh còn rất nhiều việc phải làm trước mắt để ổn định về mọi mặt. Nhưng quá trình công nghiệp hoá ở Việt Nam được tiến hành đồng thời với quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Công nghiệp hoá đi đôi với hiện đại hoá là một đặc điểm của Việt Nam khi tiến hành công nghiệp hoá từ một nền kinh tế lạc hậu, lao động thủ công là chính.
- Nhiệm vụ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010:
Đối với khu vực nông nghiệp và nông thôn đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ.
Đối với khu vực công nghiệp phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, áp dụng khoa học công nghệ phát triển, xây dựng chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng then chốt, phát triển các ngành may mặc, giầy da, điện tử, ưu tiên phát triển các doanh nghiệp các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đối với khu vực dịch vụ phát triển nâng cao chất lượng dịch vụ, sớm phổ cập sử dụng tin học, Internet trong nền kinh tế và đời sống xã hội.
Về chiến lược phát triển vùng trong đó phát triển vai trò các vùng động lực có mức tăng trưởng cao, tích luỹ lớn đồng thời tạo điều kiện để phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng vùng, liên kết với vùng động lực tạo mức tăng trưởng khá.
- Những nét khác biệt:
Thuận lợi: sự phát triển của nền kinh tế tri thức và toàn cầu hoá, tạo cơ hội lớn hơn cho việc sử dụng tri thức vì mục đích phát triển nhanh. Hiệu ứng lan toả hình thức lớn hơn nhờ sự phát triển và bùng nổ thông tin, sự ra đời và ứng dụng các công nghệ và phương thức truyền tải thông tin hiệu quả hơn cũng như xu hướng mở cửa và giao lưu kiến thức giữa các nước lớn hơn. Mặt bằng công nghệ và tri thức cao hơn vừa là thách thức song cũng vừa là cơ hội đối với Việt Nam hiện nay.
Khó khăn: những áp lực và thách thức lớn hơn đối với phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục đào tạo ở Việt Nam xuất phát từ sự tụt hậu tương đối xa hơn hiện nay của Việt Nam so với các nước trong khu vực. Do tầm nhận thức đối với sự cần thiết của phát triển nguồn nhân lực đã trở nên cao hơn trên toàn thế giới cũng như do nền công nghệ và tri thức trên thế giới hiện nay đã cao hơn nhiều so với cách đây hơn ba thập kỷ