Phương hướng đào tạo nguồn nhân lực việt nam
Trước tiên chúng ta hãy xem xét mô hình chuyển dịch của nền kinh tế thế giới. Khi nền kinh tế thế giới chuyển dịch từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, sự lên ngôi của máy móc thiết bị trong sản xuất đã kéo theo một sự chuyển dịch ...
Trước tiên chúng ta hãy xem xét mô hình chuyển dịch của nền kinh tế thế giới.
Khi nền kinh tế thế giới chuyển dịch từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, sự lên ngôi của máy móc thiết bị trong sản xuất đã kéo theo một sự chuyển dịch lớn về lao động. Lúc này nhu cầu về công nhân kỹ thuật là rất lớn, nhằm phục vụ cho bộ máy khổng lổ của nền sản xuất công nghiệp. Chính vì vậy cơ cấu nhu cầu về lao động của nền kinh tế thế giới khi đó được thể hiện qua mô hình “hình tháp nhân lực công nghiệp truyền thống”.
Tức là nhu cầu về cán bộ chuyên môn để quản lý nền kinh tế là khá ít, còn nhu cầu về công nhân kỹ thuật cho nền sản xuất máy móc là rất lớn.
Còn khi nền kinh tế chuyển tiếp từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, lúc này trình độ khoa học kỹ thuật phat triển ở mức cao, máy móc thiết bị đã dần thay thế cho các hoạt động sản xuất của con người, do đó, nhu cầu về công nhân kỹ thuật đã dần giảm xuống.
Mặt khác, thu nhập và mức sống của con người trong nền kinh tế tri thức đã ở mức cao, vì vậy, những đòi hỏi của họ cung lớn và đa dạng hơn trong nghỉ ngơi, giải trí, đòi hỏi các ngành công nghệ, dịch vụ phải được mở rộng và phát triển hơn. Do đó, tất yếu sẽ làm tăng nhu cầu về lao động trí thức có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao.
Lúc này, cơ cấu nhu cầu về lao động sẽ không còn ở dạng “hình tháp nhân lực công nghiệp truyền thống” nữa, mà đã biến đổi sang kiểu “hình tháp nhân lực tri thức”
Tức là, vẫn cần nhiều công nhân kỹ thuật nhưng giảm hơn so với nền kinh tế công nghiệp, đồng thời đòi hỏi một lượng lớn lao động có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao.
Tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét cách phân chia của Martin Trow, một học giả người Hoa Kỳ (cách phân chia này đã được chấp nhận rộng rãi trên thế giới).
Nếu ở một nước có “tỷ lệ độ tuổi đại học”(tức là tỷ lệ sinh viên đại học so với số thanh niên ở độ tuổi từ 18 đến 21) dưới 15% thì đào tạo đại học ở nước đó còn trong giai đoạn “cho số ít người”, khi tỷ lệ đó vượt quá 15% thì nền đào tạo đại học bước vào giai đoạn “đại chúng”, còn khi vượt quá 50% thì đào tạo đại học đã ở giai đoạn “phổ cập”.
Tương ứng với cách phân chia trên, các chuyên gia kinh tế và đào tạo cho rằng: Đào tạo đại học cho số ít người chỉ phù hợp với nền kinh tế nông nghiệp, đào tạo đại học đại chúng sẽ tương ứng với nền kinh tế công nghiệp, còn đào tạo đại học phổ cập tương ứng với đòi hỏi của nền kinh tế tri thức.
Thực tại nền kinh tế thế giới đã chứng minh mô hình này, theo báo cáo của ngân hàng thế giới (năm 1994), chỉ số sinh viên đại học của khối các nước phát triển OECD là 51%, tức là tương ưng với thực tế nền kinh tế tri thức của họ. Còn theo báo cáo của UNESCO (năm 1995), chỉ số này của Bắc mỹ là 82%, của các nước có thu nhập trung bình là 21%, còn của các nước có thu nhập thấp chỉ đạt 6%. Tức là đã thể hiện rất rõ mối quan hệ giữa trình độ đào tạo đại học với trình độ phát triển của nền kinh tế.
Qua mô hình này ta có thể thấy, muốn nền kinh tế phát triển càng cao thì tương ứng với nó trình độ đào tạo đại học cũng phải càng cao, mà cụ thể ở đây là tỷ lệ sinh viên đại học phải càng cao.
Vậy để xác đình được phương hướng đào tạo nguồn nhân lực, trước hết chúng ta phải xét xem nền kinh tế nước ta đang ở đâu và chuyển dịch như thế nào.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp khá phát triển, đã đưa nền kinh tế nước ta chuyển dịch từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu lên nền kinh tế công nghiệp và hiện đang ở khoảng giữa của quá trình chuyển dịch.
Mặt khác, tác động của quá trình toàn cầu hoá và xu hướng chuyển nền kinh tế thế giới từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, đã làm phát triển một số ngành dịch vụ và công nghệ cao ở nước ta như ngân hàng, tài chính, công nghệ thông tin... Điều đó chứng tỏ nước ta cũng đang ở điểm khởi đầu của quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế tri thức.
Như vậy, nền kinh tế của ta đang diễn ra quá trình chuyển dịch kép, một mặt, vừa chuyển dịch lên nền kinh tế công nghiệp và đang ở khoảng giữa, đồng thời, lại vừa chuyển dịch lên nền kinh tế tri thức và đang ở điểm khởi đầu của sự chuyển dịch.
Chính đặc điểm này đã làm cho nền kinh tế có nhưng đòi hỏi cao hơn và phức tạp hơn về nguồn nhân lực nhằm phục vụ cho sự phát triển và chuyển dịch của nó.
Trước tiên và chung nhất nó đòi hỏi nguồn nhân lực phải có một mặt bằng chung về trình độ cao hơn. Khác với trước kia trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chỉ đòi hỏi người lao động phải có đức tính tốt, cần cù, trung thành, và có tinh thần trách nhiệm. Với ngày nay, nền kinh tế đòi hỏi người lao động phải có tính sáng tạo, có khả năng xử lý vấn đề, có khả năng phân tích, tinh thần đồng đội, rồi khả năng ăn nói, diễn đạt… Tức là phảI có một trình độ, năng lực ở mức khá trở lên.
Đấy là xét chung cho nguồn nhân lực, còn cụ thể, quá trình chuyển dịch lên nền kinh tế công nghiệp của nước ta, như đã phân tích ở mô hình lý thuyết trên, sẽ đòi hỏi một nguồn nhân lực có cơ cấu theo mô hình “hình tháp nhân lực công nghiệp truyền thống” và trình độ đào tạo đại học đại chúng.
Tức là phải có tỷ lệ độ tuổi đại học trên 15%, trong khi tỷ lệ này của nước ta hiện nay chỉ đạt khoảng 8%. Như vậy, cần phảI mở rộng quy mô đào tạo đại học để tăng nhanh hơn nữa số lượng sinh viên, phục vụ cho nhu cầu của nền kinh tế. Mặt khác, cơ cấu trong “hình tháp nhân lực công nghiệp truyền thống”, như ở các nước phát triển trước kia đúc rút ra là khoảng: 1 đại học 4trung cấp chuyên nghiệp 10 công nhân kỹ thuật, nước ta tỷ lệ này vào năm 2000 là khoảng 1 1.31 4.8. Như vậy, để phục vụ cho tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta phải có nhiều hơn nữa lượng công nhân kỹ thuật và trung cấp chuyên nghiệp, đặc biệt là công nhân kỹ thuật.
Thực tế nền kinh tế nước ta đã chứng minh về nhu cầu cần sử dụng lao động như phân tích trên, thể hiên rất rõ trong biểu sau:

Mặt khác, sự chuyển dịch lên nền kinh tế tri thức lại đòi hỏi nguồn nhân lực phải có một trình độ cao hơn nữa, trình độ đào tạo đại học phổ cập và cơ cấu nhân lực theo mô hình “hình tháp nhân lực tri thức”.
Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta mới chỉ ở điểm khởi đầu của quá trình chuyển dịch này, nên đòi hỏi trên về nguồn nhân lực mới chỉ nằm trong một số ngành dịch vụ và công nghệ cao, thể hiện như trong biểu sau:

Ngoài ra, sự chuyển dịch nền kinh tế theo vùng lãnh thổ cũng rất đáng phải quan tâm, sự hình thành các trung tâm kinh tế, các vùng công nghiệp, các khu, cụm, điểm… công nghiệp đang diễn ra rất nhanh chóng trên toàn nền kinh tế. Cùng với sự chuyển dịch đó, chúng ta cũng cần phải đào tạo nguồn nhân lực cho các vùng kinh tế đó, đăc biệt là vấn đề đào tạo tại chính các vùng kinh tế đó.
Tóm lại, để đáp ứng những đòi hỏi trên về nguồn nhân lực cuả nền kinh tế, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của ta cần phải đặt ra những phương hướng như sau:
Trước tiên là phải mở rộng quy mô và nâng cao trình độ đào tạo trên phạm vi toàn nền kinh tế, nhằm nâng cao mặt bằng của nguồn nhân lực.
Trong đó, chú trọng vấn đề về quy mô chất lượng đào tạo công nhân kỹ thuật và đào tạo đại học, để nhanh chóng cung cấp đủ lượng công nhân và cán bộ chuyên môn có trình độ phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần sớm thực hiện được mục tiêu trở thành một nước công nghiệp.
Đồng thời phải chú trọng đào tạo một đội ngũ công nhân kỹ thuật và cán bộ chuyên môn có trình độ thật sự cao trong các ngành công nghiệp tiềm năng và mũi nhọn, các ngành dịch vụ và công nghệ cao, các trung tâm kinh tế lớn, các vùng, khu, cụm, điểm công nghiệp…
Và đặc biệt cần chú ý trong chính nội tại vấn đề, là phải mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ quản lý, giáo viên, giảng viên để tăng quy mô và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Đây chính là hướng đi gốc rễ, lâu dài và đúng đắn nhất cho nền giáo dục, đào tạo nước ta.