18/06/2018, 15:31

Sự bành trướng củaTrung Hoa xuống phương nam

C.P. FITZGERALD Ngô Bắc dịch và phụ chú 1. Trường Hợp Vân Nam Vân Nam, một trong các tỉnh nằm ở góc xa nhất phía tây nam của Trung Hoa, đã là một phần liên hợp của Đế Quốc và Cộng Hòa sau này kể từ giữa thế kỷ thứ mười ba, khi nó bị chinh phục bởi quân Mông Cổ, vào lúc đó ...

C.P. FITZGERALD
Ngô Bắc dịch và phụ chú

van nam

1. Trường Hợp Vân Nam

Vân Nam, một trong các tỉnh nằm ở góc xa nhất phía tây nam của Trung Hoa, đã là một phần liên hợp của Đế Quốc và Cộng Hòa sau này kể từ giữa thế kỷ thứ mười ba, khi nó bị chinh phục bởi quân Mông Cổ, vào lúc đó đang cai ttrị phần lớn lãnh thổ Trung Hoa.  Thế kỷ thứ mười ba trong lịch sử Trung Hoa gần như thời kỳ hiện đại, chắc chắn không phải là một giai đọan quá cổ xưa.  Bởi mười lăm thế kỷ trước khi có cuộc chinh phục của Mông Cổ tại Trung Hoa, Vân Nam đã không được biết đến như một tỉnh, mà như một vị trí của một vương quốc xa lạ và thường đối nghịch.  Danh xưng Vân Nam được đặt ra lần đầu tiên hồi thế kỷ thứ ba sau Công Nguyên khi triều đại phía tây, nhà Thục Hán (Shu Han), một trong ba nước thời Tam Quốc, đã áp đặt quyền chủ tể ngắn ngủi trên một vài phần của xứ sở này.  Vân Nam có nghĩa “Phía Nam Của Các Đám Mây”, và cái tên mang nhiều chất thơ này thực sự mô tả đặc tính khí hậu của nước này.  Cao nguyên của Vân Nam, ở phía tây có cao độ 7,000 bộ Anh (feet), đổ dốc theo hướng đông nam xuống  còn khoảng 4,000 bộ Anh, thực sự là nằm ở phía nam của các đám mây, các tỉnh nhiều mây giăng ẩm ướt của Tứ Xuyên và Quý Châu.  Tục ngữ có câu nói về tỉnh thứ nhất không mấy tốt  “các con chó của Tứ Xuyên sủa lên khi mặt trời rọi sáng”, ám chỉ sự hiếm hoi của hiện tượng này.  Về tỉnh thứ nhì, Quý Châu, tục ngữ nói “Quý Châu không bao giờ có ba ngày khí hậu tốt (liền nhau)” – và bổ túc thêm rằng nó không bao giờ có khoảng đất bằng dài ba dặm [li, tiếng Hán trong nguyên bản, ND] hay ba đồng tiền bạc, với âm điệu theo vần trong tiếng Hán. ( “Kueichou mei yu san t’ien ch’ing, san li p’ing, san k’uai yin.”).  Nhưng tại Vân Nam khí hậu thì khô và ấm, thời tiết nhiệt đới của nó được ôn hòa nhờ cao độ, mùa đông khô ráo kéo dài được đền bù bởi các giòng suối và sông luôn luôn tràn trề chảy xuống từ các rặng núi cao của nó.

     Các rặng núi vĩ đại ôm sát cạnh sườn của cao nguyên này, từ bắc xuống nam, chia xứ sở tại bên phía tây thành các thung lũng hẹp và sâu, và tại bên phía đông thành các thung lũng rộng hơn, mở ngỏ thoáng hơn, gồm chứa các hồ nước lớn, hay được tạo thành từ đáy các hồ mà nước đã rút đi.  Về hướng tây bắc núi vươn cao tới 20,000 bộ Anh, giảm dần khi chúng xuôi nam, xuống còn ít hơn phân nửa cao độ đó.  Nhưng các ngọn núi hiếm khi cao hơn cao nguyên dưới bốn hay năm nghìn bộ Anh tại bất kỳ khu vực nào.  Các ngọn núi thì dốc và tại nhiều nơi còn bị rừng rậm bao phủ, không thích hợp cho việc canh tác; các cao nguyên và các thung lũng là các vùng đất phong phú được tưới nước rất tốt trong mọi mùa, không bao giờ sợ gặp nạn hạn hán, và thường cũng tránh được nguy cơ bị lụt.  Đó là một đất nước được sắp đặt bởi thiên nhiên để ưu đãi cho sự định cư nặng tính chất địa phương của các dân tộc canh nông bị ngăn cách, bởi các rặng núi cao không người ở, với các láng giềng gần cận nhất.  Điều này trong thực tế là lịch sử chủng tộc của Vân Nam, một lich sử của sự chia cắt manh múng, không phải chỉ thành các nhóm chủng tộc khác biệt tại các thung lũng khác nhau, mà cũng còn giữa một dân tộc trên các vùng đất tốt với các dân tộc kém tiến bộ hơn ở các rặng núi trên cao so với họ.  Chính bởi thế đã luôn luôn có, và hãy còn kéo dài đến nay, các sự phân chia theo hàng dọc cũng như hàng ngang trong các cư dân của Vân Nam.  Những dân tộc mạnh hơn chiếm cứ các thung lũng trồng lúa gạo, kẻ yếu hơn bị đẩy lên trên núi, rất thường lại xua đuổi các dân tộc sơ khai hơn nữa lên đến các mức độ cao nhất.  Các sắc dân sinh sống bằng săn bắn và thu lượm thực phẩm có thể sống sót ở đó, bởi có đầy thú để săn bắn.  Dưới thấp hơn, kiểu canh tác “chặt cây rồi đốt rẫy, làm hủy hoại các khu rừng, được thực hành rộng rãi.  Bằng chứng về các tầng lớp còn lưu tồn của các dân tộc biến đổi, rất khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ và lối sống, cho thấy người Trung Hoa không thể nào là các kẻ xâm lăng đầu tiên đến chiếm chỗ các kẻ canh tác tại các thung lũng và bờ hồ màu mỡ.

     Vân Nam đã nhiều lần bị xâm lăng, và chiếm ngụ, một phần hay trên một quy mô rộng lớn bởi các dân mới tới.  Nguồn gốc của các sự di chuyển thời tiền lịch sử này và các dân tộc cấu thành họ không thể bị khám phá, và khảo cổ học vẫn chưa chiếu rọi ít ánh sáng nào về thời tiền sử của Vân Nam.  Ít nhất có thể nói rằng các con đường theo đó họ phải đi qua có thể phỏng đoán được, nếu không phải chỉ vì có quá ít con đường khả dĩ thông lưu.  Một số dân tộc đã xuống từ cao nguyên Tây Tạng, vẫn còn cao hơn cao nguyên Vân Nam, bởi vùng thung lũng cao của sông Dương Tử và thượng lưu sông Cửu Long, các con đường hiện vẫn còn được sử dụng như các xa lộ từ Vân Nam sang Tây Tạng.  Các ngọn đèo thì cao, các thung lũng thường rất hẹp, và các con sông nhiều đá ngầm và chảy thật xiết khiến không thể hải hành.  Các con đường như thế chỉ có thể được sử dụng với sự chấp thuận của các cư dân vùng thung lũng, bởi chúng dễ dàng bị phong tỏa.  Rất nhiều phần rằng sự thẩm nhập chứ không phải là xâm lăng đã là khuôn mẫu của sự di chuyển từ phương bắc vào Vân Nam.  Về phía đông bắc một con đường hơi dề dàng hơn dẫn tới Vân Nam từ miền tây của Tứ Xuyên, thành phốSuifu trên thượng lưu sông Dương Tử đã là điểm khởi hành.  Tuy thế, con đường này, như không thể tránh khỏi đối với bất kỳ hành trình nào tại Vân Nam, băng qua nhiêu rặng núi cao, chính yếu xuyên ngang cao nguyên.  Nó vẫn còn được sử dụng trên một tầm mức lớn bởi các đoàn lữ hành bằng la và lừa, vận tải lụa Tứ Xuyên sang Miến Điện và từ đó, bằng tàu chạy bằng hơi nước trên sông và hành lang trên biển đến Calcutta, mãi cho tới thời Thế Chiến Thứ Nhì.  Con đường đoàn lữ hành đi từ Suifu đến Bhamo trên sông Irrawaddy [Miến Diện, ND] dài hơn sáu trăm dặm.  Con đường này là con đường mà nhiều đạo quân đã đi qua, đặc biệt trong các thế kỷ trước đó khi mà Quý Châu chưa được bình định.

     Con đường rõ rệt nhất, từ điểm giới hạn hải hành trên các con sông thuộc phía tây tỉnh Hồ Nam, các con sông là phụ lưu của sông Dương Tử, là con đường chạy ngang qua tỉnh Quý Châu.  Các rặng núi ở đây thấp, mặc dù gồ ghề; rặng núi giáp ranh với Vân Nam lại là rặng cao nhất.   Trong hồi cuối thời đế chính (triều đại Mãn Châu), đây là con đường chính từ Bắc Kinh đến Vân Nam.  Cũng chính do con đường này mà hoàng đế Vĩnh Lạc nhà Minh đã có các phiến đá cẩm thạch to lớn, vẫn còn tô điểm cho các bậc thang của Cấm Thành, được kéo hàng trăm dậm băng ngang núi đồi và thung lũng cho đến khi chúng được thả thành bè tại miền tây Hồ Nam và đến Bắc Kinh qua ngả sông Dương Tử và Đại Vận Hà (Grand Canal), một khoảng cách hơn ba nghìn dặm một chút.  Trong các thời trước đây, con đường Quý Châu ít được sử dụng hơn, bởi vì tỉnh vẫn chưa được bình định và vẫn còn bị chia cắt bởi các nhóm thị tộc đối nghịch nhau cho đến khi các hoàng đế nhà Minh chinh phục nó vào hồi đầu thế kỷ thứ mười tám.  Ít trực tiếp hơn, mặc dù quan trọng cho một vài ngành mậu dịch, là con đường từ điểm giới hạn hải hành trên sông Tây Giang (West River) (chảy ra biển ở phía dưới Thành Phố Quảng Châu (Canton), xuyên qua miền tây bắc của tỉnh Quảng Tây và sau đó băng ngang cao nguyên Vân Nam để đến Côn Minh (K’unming), tỉnh lỵ.  Đây là con đường nối liền Vân Nam với miền nam Trung Hoa, không phải với các tỉnh miền bắc nơi mà từ đó thẩm quyền, các đội quân và quyền lực thường được phóng ra.

     Rất ít, nếu có, dòng sông nào của Vân Nam là lối đi cho du lịch hay mậu dịch, và không có dòng sông nào có thể hải hành trong biên giới của tỉnh.  Tại phía tây, ba con sông vĩ đại, Salween, Cửu Long và Dương Tử, chảy vào các thung lũng song song rất sâu trong vài trăm dặm, chỉ bị phân cách bởi các rặng núi cao, lởm chởm.  Sau đó chúng phân tán, sông Dương Tử hướng về phía bắc và rồi quay sang phía đông, sông Cửu Long tiếp tục xuôi nam đến Căm Bốt và Lào, sông Salween chảy vào Miến Điện.  Ba con sông mà các dòng nước chỉ lần lượt cách nhau ba mươi dặm tại miền tây Vân Nam đã đổ ra biển ở những địa điểm cách xa nhau biết bao, ở vùng phụ cận của Thượng Hải, Sàigòn và Ngưỡng Quang (Rangoon).  Các thung lũng cao của chúng ở phía đông có độ cao hơn vài nghìn bộ Anh (feet) so với phía tây: sông Salween chảy ở độ cao khoảng 2,000 bộ Anh tại Vân Nam, sông Cửu Long ở độ cao khoảng 4,000 bộ Anh, và sông Dương Tử trên cao, có cao độ 6,000 bộ Anh trên mặt biển khi nó đột ngột uốn khúc về hướng bắc và hướng đông, cắt đôi rặng núi có độ cao 20,000 bộ Anh.  Nằm giữa các thung lũng sâu này là các rặng núi thường vượt quá 12,000 bộ Anh và lên cao hơn nữa khi hướng về phía đông.  Các thung lũng thì hẹp, cung cấp rất ít đất khả canh, và độ dâng cao và hạ thấp của dòng sông giữa mùa hè và mùa đông (hè là mùa của nước dâng cao) có thể đo bằng hàng bộ Anh.  Các thung lũng này, đặc biệt các thung lũng của sông Cửu Long và sông Salween, bị tàn phá bởi một loại sốt rét; đặc biệt hiểm ác, và người Trung Hoa sẽ không định cư tại những nơi đó; ngay các khách du hành cũng vội vã đi ngang qua chúng và không bao giờ nghỉ đêm tại vùng thung lũng.  Sông Tây Giang, tạo thành lộ trình huyết mạch của các tỉnh miền nam Trung Hoa, Quảng Tây và Quảng Đông, được nâng lên cao tại cao nguyên Vân Nam, nhưng không thể hải hành được cho đến sau khi nó đến được Quảng Tây.

     Các rào cản cho việc giao tiếp với các người bên ngoài xem ra, và thực đáng sợ, ở các biên giới phía tây của Vân Nam, hơn là ở phía đông hay phía nam; song chúng đã được qua lại trong nhiều thế kỷ bởi các nhà mậu dịch và các khách du hành, nếu còn ít thường xuyên hơn nhiều bởi các đội quân.  Một khi khách du hành đã chuyển sang con sông Salween và phụ lưu của nó, độ dốc xuống ở Miến Điện và thung lũng Irrawaddy thì tương đối dễ dàng, dù đôi khi có nguy hiểm.  Con sông vĩ đại mang lại một sự tiếp cận dễ dàng đến biển, và các chuyến du hành cận duyên đã có thể nối liền Miến Điện và Ấn Độ.  Ít có sự nghi ngờ nào rằng một vài loại tiếp xúc đã hiện diện dọc theo con đường gián tiếp này từ những thời kỳ ban sơ nhất, ngay dù nó bị giới hạn lúc đầu vào hoạt động mậu dịch giữa các thị tộc.  Con đường trực tiếp sang Ấn Độ, băng ngang qua các cánh rừng của miền bắc Miến Điện tới Manipur và các thung lũng vùng Assam thì khó khăn hơn và ít an toàn hơn.  Ngay tthời hiện đại, các khu rừng này vẫn còn là căn cứ của các bộ lạc săn người, chỉ đem lại một sự đón tiếp rùng rợn cho các khách lữ hành.  Sự nối kết giữa Vân Nam là với Đông Nam Á, Miến Điện và Việt Nam, chứ không trực tiếp với Ấn Độ.  Con đường tới Việt Nam, ngày nay là con đường rầy xe hỏa được xây dựng trong những năm đầu tiên của thế kỷ thứ hai mươi bởi người Pháp, không phải dễ dàng hay được sử dụng nhiều trong thời cổ xưa. Độ đổ dốc từ cao nguyên Vân Nam thì rất cheo leo, và nhiều khe sông cắt ngang con đường.  Thung lũng sông Hồng, tạo thành châu thổ phì nhiêu của Bắc Kỳ, bị nhiễm chứng sốt rét và chật hẹp, mặc dù dòng sông này, phát sinh từ cao nguyên Vân Nam, có vẻ mang lại một sợi dây liên kết tự nhiên và hiển nhiên giữa Vân Nam và Việt Nam.  Như quá thường xảy ra tại Vân Nam, con sông này thực sự là vô dụng cho mục đích này, và khách du hành phải đi tìm một con đường xem ra gian lao hơn,  xuyên qua núi đồi.  Khi người Pháp có được đặc nhượng mở đường xe hỏa, chính phủ đế triều Trung Hoa đã từ chối chấp thuận con đường dẫn tới thung lũng sông Hồng, vốn sẽ tương đối dễ dàng hơn để xây cất, với lý do rằng khu vực đó quá nguy hại cho sức khỏe, và rằng một đường rầy hỏa xa sẽ không phục vụ gì cho mục đích kinh tế ở đó.  Lý do thực sự rằng họ tin con đường qua núi sẽ quá khó khăn và quá dốc khiến không một đường sắt nào trong thực tế lại có thể xây cất được trên hàng lối đó.  Tuy thế người Pháp đã xây dựng nó, một trong những lộ trình ngoạn mục nhất của thế giới, bắc ngang các khe sông sâu và chui qua từ rặng núi này sang rặng núi kia.  Về mặt chiến lược, như được chứng tỏ trong Thế Chiến Thứ Nhì, nó thì vô dụng; chỉ cần giựt sập vài cây cầu và phong tỏa một ít đường hầm sẽ làm cho lộ trình không thể thông qua được.  Người Nhật Bản không bao giờ xâm nhập vào Vân Nam bằng con đường này.  Về mặt kinh tế, nó chỉ có giá trị tối thiểu, nhưng như thành tích về kỹ thuật, nó thật tuyệt diệu.

     Các sự tiếp xúc đầu tiên được ghi chép lai giữa Trung Hoa và Vân Nam có niên đại từ cuối thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, và đã không phải được thực hiện bởi các vương quốc Trung Hoa vào thời khoảng đó tại miền bắc Trung Hoa, mà bởi nhà Ch’u [?], vương quốc phương nam đặt trung tâm tại trung lưu sông Dương Tử, nhưng cũng bao gồm tỉnh Hồ Nam ngày nay.  Nước Ch’u không đúng nghĩa là một vương quốc Trung Hoa; nó không bao giờ được chấp nhận một cách thoải mái như một trong các thành viên của khái niệm cổ thời về Vương Quốc Trung Tâm (Miđle Kingdom), trên đó các nhà vua nước Chou [? Chu] đã trị vì hơn là cai trị.  Ch’u căn bản có thể thuộc sắc dân T’ai (Thái hay Đại [?]) hay Miao (Mèo), hay như một số tác giả xem xét, thuộc một sắc dân hỗn hợp, bao hàm một loạt nhiều dân tộc cổ xưa tại miền nam và trung Trung Hoa.  Chính nước đó về văn hóa chịu ảnh hưởng Trung Hoa sâu đậm là điều chắc chắn từ nhiều sự khám phá khảo cổ đã được tìm thấy tại các khu vực vốn là một phần của nước Ch’u và cũng từ nhiều bằng chứng văn hóa Trung Hoa.  Vào cuối thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, cuộc tranh chấp giữa các vương quốc của Trung Hoa dành quyền chủ tể tối cao thế giới Trung Hoa đã gia tăng mãnh liệt.  Các nước cạnh tranh chính yếu sẵn có mặt là vương quốc tây bắc của nước Ch’in [? Tần], được nghĩ rằng chỉ có một phần nào Trung Hoa về tính chất chủng tộc, và vương quốc miền nam của nước Ch’u, là nước, như được nhận thấy, chắc chắn có phần lớn giống dân phi-Hán (non-Han).  Nước Ch’in liên tục sáp nhập phần lớn các vương quốc miền bắc cũ, và vì thế, trở nên mạnh hơn. Nước Ch’u, có các nước cạnh tranh nằm phía hạ lưu sâu hơn của sông Dương Tử, bị ngăn cản không cạnh tranh hữu hiệu với kẻ thừa kế phương bắc bởi các sự phân trí này, và vào cuối thế kỷ thứ tư đã tìm kiếm một vài sự bù đắp bằng cách bành trướng về phương nam, vào các miền vượt quá Hồ Nam, khi đó bị chiếm ngụ bởi một số dân tộc ít tiến bộ hơn.

     Vua Wei của nước Ch’u (339-329 trước C0ông Nguyên) đã phái một viên tướng, thành viên của hoàng gia, tên là Chuang Ch’iaso đi mở rộng uy quyền của ông theo hướng này.  Chuang Ch’iao có vẻ đã dùng lộ trình xuyên qua Quý Châu cho ít nhất một phần trong lực lượng của mình, mặc dù các đơn vị tăng phái khác có thể đã đi theo con đường từ vùng cao trên sông Dương Tử tại Suifu xuyên qua Chaot‘ung để đến Côn Minh.  Con đường này khi đó đi ngang qua vương quốc Pa (Ba) tại miền nam Tứ Xuyên, là nước đã giao chiến với láng giềng phía bắc của nó, nước Shu [Thục?] và có lẽ vì thế không thể ngăn cản bước tiến của quân đội nước Ch’u.  Tướng Chuang Ch’iao đã có thể tiến hành lộ trình của mình đến đồng bằng Côn Minh, bên bờ của hồ nước vĩ đại Tien Lake [Điền Trì?].  Đây là khu vực lớn nhất và là một trong những khu vực canh tác lúa gạo phì nhiêu nhất của Vân Nam, và thành phố Côn Minh ngày nay, tỉnh lỵ của tỉnh, tọa lạc ở đó.  Chuang Ch’iao đã sáp nhập miền này vào nước Ch’u, và gọi nó là Tien [đất Điền?].  Từ ngữ này không có nghĩa nào khác trong Hoa ngữ ngoài địa danh để chỉ hồ và miền đất, ngoại trừ một tĩnh từ phát sinh khả hữu có nghĩa “vô giới hạn, bao la”.  Nhiều phần đó là một danh từ phát sinh từ các [họ của, ND] người làm chủ quận huyện trước đây.

     Rất ít điều được hay biết về các người dân có thể đã sống ở đó.  Một khám phá khảo cổ học gần đây không quá xa Côn Minh, tại địa điểm đồi núi được gọi là Shih Chia Chai, đã phơi bày ra ánh sáng các đồ vật bằng đồng được trang trí với các hình dạng rõ ràng có tính cách phi-Trung Hoa (non-Chinese), và có vẻ để mô tả một sắc dân chăn dắt các loại gia súc trên các cánh đồng đã được trình bày một cách phong phú.  Niên đại của các đồ vật này được phỏng đóan trên căn bản cách vẽ là gần hay cùng thời với sự chinh phục của nước Ch’u, và nếu các đồ vật chứng tỏ sự du nhập kỹ thuật đồ đồng Trung Hoa, chúng cũng phô bày sức mạnh của một truyền thống nghệ thuật phi-Trung Hoa.  Quân đội nước Ch’u chắc chắn không đủ mạnh để đánh đuổi dân bản xứ tại vùng đất đó, và có lẽ đã không được tháp tùng bởi nhiều phụ nữ của họ.  Không bao lâu các sự phát triển tại miền tây Trung Hoa khiến cho thuộc địa xa xôi này còn bị cô lập hơn nữa.

     Trong năm 316 trước Công Nguyên, vương quốc nước Ch’in hung hổ, lợi dụng cuộc chiến tranh tương tàn giữa hai vương quốc Tứ Xuyên là Shu và Ba (lần lượt tập trung tại Thành Đô (Ch’engtu) và Trùng Khánh (Chungking) ngày nay) đã xâm lăng và chinh phục cả hai vương quốc, sáp nhập toàn thể tỉnh rộng lớn Tứ Xuyên vào nước Ch’in.  Biến cố này, nguyên làm gia tăng vượt mức quyền lực và tài nguyên của nước Ch’in, có lẽ đã là một yếu tố quyết định cho sự chiến thắng tối hậu của nó trong các cuộc tranh chấp không ngừng của thời Chiến Quốc (Warring States).  Hậu quả tức thời của nó là cắt đứt thuộc địa tại đất Điền (Tien) ra khỏi sự tiếp xúc trực tiếp với nước Ch’u.  Tướng Chuan Ch’iao có vẻ đã cố gắng để tái lập giao thông băng ngang Quý Châu, nhưng gặp phải sự kháng cự của các thị tộc địa phương quá mạnh mẽ.  Chính nước Ch’u giờ đây đang gặp mối nguy hiểm lớn lao hơn từ cuộc xâm lăng của nước Ch’in vẫn tiếp tục đe dọa nó cho tới khoảng 90 năm sau đó, trong năm 223 trước Công Nguyên, nó đã bị chinh phục bởi nước Ch’in trong sự sụp đổ toàn diện của các vương quốc cũ.  Nước Tần (Ch’in), thbông  nhất Trung Hoa lần đầu tiên, đã không quan tâm đến việc theo đuổi cuộc chinh phục này bằng một chiến dịch tiền vào miền tây nam xa xôi, và đất Điền (Tien) đã được để yên.  Chung Ch’iao đã cai trị nó như một phó vương kinh lược của nước Ch’u, nhưng các người kế vị ông đã trở thành vua đất Điền (Tien).

     Có lẽ (có một số chỉ dẫn văn hóa về sự kiện này) rằng nhiều người tỵ nạn từ vương quốc Pa trước đây tại Tứ Xuyên đã chạy trốn xuông phương nam, đến đất Điền (Tien).  Nó trở nên một tiêu điểm biệt lập của văn hóa Trung Hoa tại một khu vực chính yếu vẫn chưa bị đụng chạm bởi các ảnh hưởng như thế, và Côn Minh, vùng thừa kế hiện đại của nó vẫn còn là trung tâm chính của quyền lực và văn minh Trung Hoa tại Vân Nam cho đến thời hiện đại.  Trong hai thế kỷ kế tiếp của đế quốc đại Hán tại Trung Hoa, đất Điền (Tien) vẫn có thể duy trì nền độc lập cho đến thời trị vì của Hán Vũ Hoàng Đế (140-86 trước Công Nguyên).  Nhà vua đó đã tiến hành nhiều cuộc chinh phục và chiến tranh để mở rộng lãnh địa của mình, và vua đất Điền (Tien), chắc hẳn bị ấn tượng bởi cuộc chinh phục của nhà Hán tại Nam Việt (Quảng Châu) và sự xâm nhập ngoại giao đồng thời tại vương quốc Yeh Lang [? Dạ Lang, ND], thuộc Quý Châu (quanh vùng Ts’unyi ngày nay) đã tìm cách sự công nhận với sự thỏa thuận của chính ông bằng cách thừa nhận quyền chủ tể của Hoàng Đế nhà Hán.  Việc này được chuẩn thuận, và vương quốc của ông ta đã được cải danh trên hình thức thành Yi Chou Đô Hộ Phủ.  BởI Nhà Vua được xác nhận là người cai trị, điều này không tạo ra mấy sự khác biệt, mà cho phép ông cảm thấy an toàn và bảo đảm.  Nó cũng khai mở một băng tần mới để tiếp xúc với Trung Hoa, và như thể tăng cường ảnh hưởng của Trung Hoa trong vùng.  Không có vẻ là Hán Vũ Đế hay các kẻ thừa kế ông đã đưa ra bất kỳ nỗ lực nào để áp đặt sự cai trị trực tiếp hơn của Trung Hoa hay mở rộng lãnh địa của họ tại Vân Nam.

     Họ có duy trì một sự quan  tâm đến tỉnh hạt xa xôi này vì một lý do khác.  Trong năm 138 trước Công Nguyên, Hán Vũ Đế có phái một sứ giả, Chang Ch’ien, đến các vương quốc vùng trung Á Châu vốn được thành lập từ các mảnh vỡ của đế quốc của đại đế Alexander tại miền giờ đây là Trung Á thuộc Nga.  Vị sứ giả có nhìn thấy tại đó vải vóc và nhiều cây tre, được trao đổi từ Ấn Độ, mà ông ta nhìn như là các sản phẩm của Tứ Xuyên, một tỉnh lớn ở phía tây của đế quốc Hán.  Khi trở về ông đã báo cáo sự kiện này, trong số nhiều tin tức khác, và Triều Đình Trung Hoa lần đầu tiên đã khám phá rằng một con đường mậu dịch đến Ấn Độ có hiện diện từ Tứ Xuyên băng ngang qua Vân Nam.  Nhiều sứ giả sau đó đã được phái đi thăm dò về con đường, nhưng điều đuợc ghi chép là không có người nào lại hoàn tất hành trình bao giờ, và rằng phần lớn đã không quay trở về.  Điều bị nghi ngờ  rằng liệu Chang Ch’ien lại không có thể bị nhầm lẫn một số sản phẩm của Ấn Độ với sản phẩm của Tứ Xuyên hay sao, nhưng sự đề cập đên “cây tre lớn” có vẻ khiến ta nghĩ rằng ông ấy đã nói đúng.  Các cây tre rất lớn mà một cộng đồng có thể chế tạo thành một cái rổ nhỏ hữu dụng, được biết là chỉ có tại Trung Hoa.  Nếu “vải vóc” của nước Shu là một vài loại sản phẩm lụa sống, sản phẩm chỉ có từ Trung Hoa vào thời điểm đó, sự xác định sẽ vũng chắc.

     Con đường đã hiện hữu trong các thời đại sau này, như đã được nói tới, băng ngang Vân Nam đến Miến Điện.  Có thể ngay vào thời điểm đó, hàng hóa mậu dịch khi đó đổ dọc xuống sông Irrawaddy và theo đường biển sang Ấn Độ.  Thuật hải hành của Ấn Độ, như ảnh hưởng của Ấn Độ Giáo khắp Đông Nam Á chứng thực, đã sẵn được phát triển tốt đẹp.  Các sứ giả nhà Hán có thể đã ngần ngại đi xa đến mức phải băng ngang các biển không hay biết gì (như sứ giả được phái bởi Trung Hoa đến La Mã sau này lấy làm nhụt chí trước việc băng ngang hoặc Vịnh Ba Tư hay Hắc Hải) hay có thể họ đã tìm cách vươn tới Ấn Độ bằng con đường trực tiếp xuyên qua miền bắc Miến Điện.  Nếu đúng như thế, số phận của họ đã bị giải quyết bởi các bộ lạc săn người trong vùng.  Xu hướng này sẽ không nhất thiết có nghĩa rằng không có con đường mậu dịch nào lại có thể hiện hữu xuyên qua xứ sở của họ, bởi trong thời điểm rất gần đây, các thương nhân Trung Hoa có thực hiện một công cuộc mậu dịch như thế, theo các điều khoản đặc biệt và độc quyền.

     Các cánh rừng miền bắc Miến Điện là một trong các khu sinh sống cuối cùng của loài tê giác Á Châu và cũng sản xuất ra nhiều thảo mộc hiếm có, giống như các sừng tê giác, là các sản vật vô cùng quý giá trong ngành mua bán dược liệu Trung Hoa.  Cho đến Thế Chiến Thứ Nhì người mua từ khắp nơi của Trung Hoa, và cũng từ Đông Nam Á, thường tụ tập tại Đại Lý (Tali) miền tây Vân Nam trong một hội chợ hàng năm được tổ chức vào tháng Tư, nơi mà các sản phẩm này có thể mua với các giá cả có lợi cho những người thu gom chúng, và vẫn còn sinh lợi rất nhiều cho những kẻ sẽ bán chúng tại các thành phố lớn của Trung Hoa và vùng đất phía nam.  Các người sưu tập là các thương nhân Trung Hoa địa phương thuộc vào các gia tộc đã thiết lập các quan hệ thân thiết với các bộ lạc săn người và là các kẻ duy nhất có thể tiến vào xứ sở họ một cách an toàn.  Chỉ có các thành viên của các gia tộc này mới có thể tiến vào lãnh địa của các bộ tộc.  Họ mang các sản phẩm chẳng hạn như các dụng cụ và vũ khí mà các thị tộc coi trọng, đổi lại họ thu mua các dược thảo và nếu may mắn, một chiếc sừng tê giác, hoặc bằng cách trao đổi hay bằng khả năng mua sắm của chính họ.  Nếu muốn gia tăng nhân số, ngay dù chỉ thêm một người, họ phải trước tiên, thương thảo với các nhà lãnh đạo thị tộc, những kẻ thường chỉ chấp thuận một thành viên mới, kẻ phải có một sự liên hệ gần gũi với những người đã sẵn được chấp nhận.  Người nào khác sẽ mất đầu, ngay dù anh ta đi theo một nhà mậu dịch đã được thừa nhận.  Nhân số được giữ thấp, và sự cạnh tranh ở mức tối thiểu.  Nhưng công việc mậu dịch có lợi cho cả đôi bên được thực hiện một cách có hệ thống từ năm này sang năm kia.  Tại các huyện xa hơn, người Trung Hoa chỉ đến trong mùa đông khô ráo và không được phép, với lệnh tử hình, ở lại hết năm.  Không có phụ nữ nào được chấp thuận.  Tại ven biên của vùng, đôi khi có thể đi ngang qua trong mùa hè, nếu gia đình mậu dịch rất nổi tiếng và lý do cho một sự trì hoãn lâu dài, chẳng hạn như bệnh tât, thì rõ ràng.

     Hệ thống này đã tiếp diễn ttrong nhiều thế hệ, và có lẽ lâu đời hơn bất kỳ tài liệu hay hồi ức còn lưu tồn nào.  Có vẻ với khả tính ít nhất, rằng loại mậu dịch này, được biết từ các nơi khác trên thế giới, đã sẵn hiện hữu từ thời nhà Hán và rằng một số sản phẩm của Trung Hoa được truyền từ bộ tộc này sang bộ tộc khác, băng ngang qua miền bắc Miến Điện để tới Ấn Độ.  Nhưng nếu các tình trạng mậu dịch khi đó cũng giống như trong hiện thời, điều rất bất thường rằng bất kỳ sứ giả Trung Hoa nào từ một vùng xa xôi lại có thể được chấp nhận, hay sống sót sau một mưu toan nhằm xâm nhập vào vùng đất của các bộ tộc.

     Có thể như một kết quả của các nỗ lực này nhằm tìm kiếm một con đừng sang Ấn Độ băng ngang Miến Điện mà các giới chức thẩm quyền nhà Hán đã thiết lập một xác quyền cai quản vùng nằm phía tây sông Cửu Long.  Ở đó họ đã thiết lập, hay đặt tên, một Đô Hộ Phủ (hay Chỉ Huy Sứ) (Commandery) gọi là Yungch’ang tại địa điểm của thành phố mang cùng tên cho đến lúc kết thúc triều đại Mãn Châu, nhưng đã được đặt lại tên là Paoshan dưới thời Cộng Hòa.  Người Hán cũng gán tên Lan Thương Giang (Lan Ts’ang Chiang) cho con sông Cửu Long, một cái tên mà dòng sông vẫn mang tại Vân Nam và thường được biết tới bởi người Trung Hoa qua tên nà,y trên suốt dòng chảy của nó.  Các biên giới của Đô Hộ Phủ Yungch’ang được tuyên bố vươn quá sông Salween đến tận thành phố ngày nay là Tengyueh, là trung tâm hành chính cuối cùng của miền tây Vân Nam ngày nay.  Sự xâm nhập về phía tây này không được đi kèm bởi bất kỳ sự bành trướng đáng kể nào vào phương nam của Vân Nam, nơi mặc dù có các rặng núi thấp hơn, chứng bịnh sốt rét lại hoành hành nhiều hơn.  Người Trung Hoa có lẽ hay biết rằng khu vực miền nam Vân Nam này giáp ranh với Việt Nam, vùng mà họ đã sẵn cai trị, và là vùng mà sự tiếp cận qua biên giới với tỉnh Quảng Tây ngày nay thì trực tiếp và dễ dàng hơn nhiều.  Đã không có động lực đặc thù nào để thiết lập thẩm quyền tại miền nam Vân Nam.  Mặt khác, Yungch’ang (hay Paoshan) lại còn là trung tâm giao thương với miền bắc Miến Điện.  Nó chiếm cứ một đồng bằng phì nhiêu trên cao nguyên nằm giữa sông Cửu Long và sông Salween và là trung tâm tự nhiên cho sự quản trị miền tây Vân Nam.  Như tại đất Điền (Tien) (Côn Minh), có lẽ sự cai trị của Trung Hoa mang tính cách gián tiếp, một thủ lĩnh địa phương được nhìn nhận như vị tổng đốc, nhưng bị yêu cầu cung cấp sự bảo vệ và hỗ trợ cho các sứ giả chính thức và khách du hành từ Trung Hoa.

     Chính sách của nhà Hán chính vì thế là một sự cai trị gián tiếp, nhưng nó đã thiết lập các bàn đạp dọc theo chiều ngang của Vân Nam gần như sát tới biên giới Miến Điện ngày nay.  Biên giới thực sự được tuyên nhận là bờ phía tây của cao nguyên Vân Nam, trước khi có sự “đổ dốc lớn lao” vào thung lũng sông Irrawaddy, mà Marco Polo  đà mô tả bằng các từ ngữ này nhiều thế kỷ sau này.  Ngay trong thời hiện đại, xứ sở này còn hoang vu và chỉ có ít dân cư ngụ: các thung lũng to lớn của sông Cửu Long và sông Salween, bị chứng sốt rết hoành hành dữ dội, là các rào cản chính, và các rặng núi với rừng rậm nằm giữa chúng cũng là các trở ngại đáng kinh sợ, mọc thẳng đứng từ các khe nước sâu của các con sông.  Mười hai thế kỷ sau này, trong thời nhà Minh, người Trung Hoa đã nối liên cả hai con sông bằng các chiếc cầu treo đong dưa trên các sợi xích sắt to lớn, nhưng sự trợ giúp để du hành này còn vắng mặt trong thời nhà Hán.  Nước sông dâng lên trong mùa hè thường cao hơn cả bảy mười bộ Anh (feet), đến nỗi việc đi phà thành khó khăn và trong thực tế gần như bất khả thi khi con sông gặp lũ.  Đô Hộ Phủ tại Yungch’ang hẳn phải bị cô lập khỏi mọi sự truyền thông với Côn Minh và Trung Hoa đôi khi trong nhiều tháng trời.  Cần có một động lực mạnh mẽ để thiết lập bất kỳ xác quyền nào đối với xứ sở này, và thật khó khăn để nhìn thấy động lực nào khác hơn là sự tìm kiếm một con đường mậu dịch dẫn tới Ấn Độ, sẽ ngắn hơn hành trình mênh mông băng ngang qua miền trung Á Châu và qua vùng Kush của Ấn Độ, hầu có thể khích động được một Triều Đinh xa vời.

     Người Trung Hoa có vẻ đã không thực hiện sự bành trướng nào hơn nữa, hoặc trong sự khám phá hay mở rộng chính quyền của họ trong hai thế kỷ của triều đại Hậu Hán (25-221).  Các sự xác quyết quyền chủ tể vẫn được duy trì, nhưng không có sự kiểm soát chặt chẽ hơn được thiết lập.  Lúc có sự sụp đổ của triều đại nhà Hán, đế quốc bị tranh dành bởi ba kẻ tuyên nhận chính là các người đã lập nên ba Vương Quốc (Tam Quốc), trong đó nước yếu nhất là Thục Hán (hay triều đại nhà Hán tại Từ Xuyên [tức đất Thục, ND], vốn chỉ cai trị  ra ngoài tỉnh một chút.  Có lẽ các hy vọng bành trướng của nó bị bác bỏ bởi nước Ngụy ở phương bắc và nước Ngô ở phía đông hùng mạnh hơn, nước Thục Hán đã cố gắng bành trướng theo hướng tây nam vào Vân Nam.  Đây là chính sách của vị đại tha6`n nổi tiếng Chu-ko Liang [Chư Cát Lượng, theo tiếng Hán, không rõ tại sao sách vở Việt Nam lại dịch thành Gia Cát Lượng?, chú của người dịch ?], kẻ đã khống chế Triều Đình của vị vua thứ nhì (và sau cùng) của nhà Thục Hán.  Chu-ko nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa vừa như một đại thần trung thành, tự kiềm chế việc thoán đoạt ngôi báu của một vị vua yếu đuối, vừa như một vị tướng quân kinh nghiệm và tinh khôn, bậc thầy của mưu lược và đột kích, kẻ đã bành trướng thẩm quyền Trung Hoa đến tận vùng tây nam.  Các chiến công này đã trở thành các đề tài của tiểu thuyết và kịch nghệ làm che lấp phần nào bản chất thực sự của công nghiệp táo bạo này.  Chu-ko đã giảm hạ nước chư ha6`u trước đây ở đất Điền (Tien) xuống quy chế một Đô Hộ Phủ do Trung Hoa cai trị trực tiếp, và sau đó mở rộng thẩm quyền của ông theo hướng tây khoảng một trăm dặm cho tới Ch’uhsiung.

     Các khu vực này dễ dàng được tiếp cận từ Tứ Xuyên bởi con đường phía bắc từ Suifu, và có thể được kiểm soát bởi bất kỳ quyền lực Trung Hoa nào được thiết lập tại tỉnh Tứ Xuyên, căn cứ địa của nhà Thục Hán.  Xa hơn về phía tây, nơi mà Chu-ko Liang mở chiến dịch vượt qua sông Cửu Long xuống đến biên giới Miến Điện ngày nay, ông đã kiềm chế khỏi việc thiết lập nền cai trị ttrực tiếp của Trung Hoa và còn cự tuyệt cả việc đồn trú các đội quân thường trực.  Ông đã đặt chính sách của mình trên ba lập luận.  Trước tiên, các đội quân đồn trú thường trực tại các miền không thể tiếp cận xa xôi như thế có thể dễ dàng khô cạn thực phẩm tiếp tế.  Chắc chắn rằng việc này đã phản ảnh sự khó khăn lớn lao trong việc băng qua các khe sông sâu trong mùa nước dâng cao.  Thứ nhì, các đội quân đồn trú yếu sẽ là đối tượng để tấn công bởi các dân bộ lạc hãy còn thù hận sau khi bị đánh bại.  Thứ ba, ông tranh biện rằng một sự chiếm đóng thường trực sẽ nuôi nấng sự nghi ngờ nơi chính sách của Trung Hoa, dẫn các thị tộc đến việc tin tưởng rằng cuộc chinh phục trọn vẹn đã được nhắm tới.  Ông cũng bác bỏ chính sách nâng cao  các sắc thuế bộ tộc hay trưng dụng lúa gạo.  Tìm hiểu xứ sở từ các chiến dịch của chính mình, ông nhận thức được sự nghèo đói và nhìn thấy rằng sự cai quản trực tiếp hà khắc sẽ chỉ dẫn đến sự xáo trộn và phản kháng.

     Chính vì thế, từ nhật kỳ sớm sủa này mà chính sách thuộc địa của Trung Hoa, nếu người ta có thể sử dụng một từ ngữ rất thường có vẻ gây tổn thương, đã mang một tính chất mà nó đã giữ lại trong nhiều thế kỷ.  Sự kiểm soát trực tiếp của chính quyền Trung Hoa sẽ là giai đoạn cuối cùng của sự xâm nhập.  Trước tiên là các nhà mậu dịch phiêu lưu đên nơi, hay các sứ giả; kế đó các thủ lĩnh của các thị tộc quan trọng được thuyết phục và dụ dỗ với các tước hiệu để nhìn nhận quyền chủ tể của Trung Hoa và cung cấp sự bảo vệ cho các khách du hành. Khi quyền lực Trung Hoa trở nên ổn cố một cách chắc chắn tại miền kề cận, các lãnh địa bộ tộc gần nhất, vào một thời cơ thuận tiện, có thể được đặt dưới thẩm quyền Trung Hoa.  Các thị tộc xa hơn, sau các chiến dịch trừng phạt, một lần nữa được để tự quản dưới quyền chủ tể của Trung Hoa.  Tại Vân Nam, sự phân biệt giữa các lãnh thổ bị sáp nhập hoàn toàn cùng các cư dân của chúng với những vùng hãy còn nằm bên ngoài thẩm quyền trực tiếp của các quan chức tỉnh hạt được gọi là giữa thành phần “shu” với thành phần “sheng”, dịch sát nghĩa “đã nhuần thục (cooked})” (hay “đã chin nhừ” (ripe) với “còn sống sượng”(raw).  Dân chúng thị tộc đã chấp nhận phong tục Trung Hoa và hoàn toàn tùng phục, ngay dù nó vẫn còn sử dụng một ngôn ngữ phi-Trung Hoa trong khi đàm thoại, được chấp nhận như “kẻ đã thuần thục”.  Các bộ tộc hãy còn sống bên ngoài sự cai trị trực tiếp và đã chấp nhận rất ít hay không chấp nận văn hóa Trung Hoa, là “còn sống sượng”.  Điều được hiểu rõ ràng rằng những gì còn sống sượng hôm nay có thể trở thành nhuần nhuyễn ngày mai.

     Chu-ko Liang vẫn còn là một anh hùng địa phương tại Vân Nam, tiêu biểu, trong cái nhìn của ngườii Trung Hoa, cho một nhà hành chính lý tưởng của các vùng đất mới được chinh phục, cương quyết, cẩn trọng, nhân đạo và nhìn xa.  Song công việc của ông ta được chứng minh, theo một nghĩa, có tính cách chuyển tiếp.  Sự chinh phục của nhà Thục Hán tại Vân Nam chỉ kéo dài hơn chính triều đại Thục Hán một chút, đã bị đè bẹp trước sự chinh phục của triều đại nhà Tsin (Tấn) mới, đặt căn cứ tại miền bắc Trung Hoa, trong năm 264.  Sự trị vì của nhà Tấn thì ngắn ngủi trên toàn cõi Trung Hoa, bởi trong năm 316 miền bắc bị thất trận trước cuộc xâm lăng to lớn của các dân tộc Tatar (Thát Đát), đã giữ Trung Hoa bị chia đôi thành hai đế quốc, bắc và nam, trong gần ba trăm năm.  Các đề quốc miền nam tiếp theo, và một đế quốc được thiết lập ngắn ngủi chính yếu ở vùng tây bắc Trung Hoa (nhà Bắc Chu: Northern Chou, 558-81) có tuyên xác cai trị trên phần đất cũ của nhà Thục Hán ở Tứ Xuyên.  Trong thực tế, sự tuyên xác này hoặc là quyền chủ tể trên danh hiệu, hay không có bất kỳ nền tảng nào.  Vân Nam, trong thời kỳ phân chia giữa nam và bắc, đã dành lại nền độc lập thị tộc, và rơi vào sự xáo trộn giữa các bộ lạc.  

     Cũng có vẻ rằng trong thời kỳ này ảnh hưởng ban đầu của Trung Hoa trên nền văn hóa của nó đã bị thử thách, và một phần bị thay thế bởi một ảnh hưởng ngoại lai mới đến từ hướng tây nam, Phật Giáo, lan tràn tại chính Trung Hoa, kể từ thời cuối nhà Hán, và trở nên rất mạnh tại cả hai nam và bắc đế triều, đã vươn tới Trung Hoa bằng con đường mậu dịch trung Á châu từ Ấn Độ.  Sau này đường biển từ Tích Lan và nam Ấn Độ đến nam Trung Hoa trở nên quan trọng.  Nhưng tại Vân Nam, Phật Giáo thẩm nhập từ Miến Điện, một nước có sự tiếp xúc trực tiếp hơn với Ấn Độ.  Hậu quả, đã có tại các đền đài tưởng niệm sớm nhất của Phật Giáo tại Vân Nam một ảnh hưởng Đông Nam Á mạnh mẽ và hiển nhiên phát sinh từ Ấn Độ, chứ không phải từ Trung Hoa.  Các đền đài tưởng niệm và các công trình nghệ thuật còn tồn tại thì ít ỏi và thường vụn nát, nhưng tính chất trong thể điệu của chúng thì rõ ràng.  Tại vùng viễn tây của tỉnh, giữa con sông Salween và các biên giới của Miến Điện, các bộ tộc địa phương chấp nhận phái Theravada (hay Hinayana, tức Tiểu Thừa) của Phật Giáo, được thịnh hành tại Miến Điện, Căm Bốt và Thái Lan, và phát xuất từ Tích Lan.  Các nước này hãy còn gìn giữ giáo phái này ngày nay.

     Vân Nam chính vì thế trong thời đại kế tiếp đã trở thành điểm tiếp xúc và tranh chấp giữa văn minh Trung Hoa và Ấn Độ.  Sự kiểm soát chính trị của Trung Hoa đã bị trôi mất, và sự tái áp đặt của nó đã bị kháng cự một cách mạnh mẽ bởi một vương quốc mới và hung mạnh, bao chùm khắp Vân Nam.  Vương quốc Nam Chiếu này chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ một cách đáng kể, biểu hiện trong nghệ thuật Phật Giáo như các đền đài tưởng niệm còn lưu tồn của nó chứng thực.  Nó cũng được tập trung tại một thành phố không được đề` cập đến như một trong các Đô Hộ Phủ cũ của nhà Hán hay các thủ lãnh thị tộc triều cống, Tali (Đại Lý).  Vân Nam vì thế không có cùng lịch sử với vương quốc cũ của Nam Việt, vùng Quảng Châu hiện đại.  Sau cuộc chinh phục sơ khởi và chiếm đóng một phần của Trung Hoa, Vân Nam đã dành lại sự độc lập, tạo lập một vương quốc hùng mạnh, kháng cự lâu dài trước một triều đại Trung Hoa hùng mạnh nhất, nhà Đường (T’ang), và đã không bị đè bẹp cho đến khi phải khuất phục trước sức mạnh áp đảo của cuộc xâm lăng của Mông Cổ.  Trong một vài chiều hướng, lịch sử của nó tương tự như lịch sử của Việt Nam, nhưng kết quả tối hậu lại trái ngược.

     Trong năm 589, triều đại nhà Tùy, được thành lập bởi một gia tộc Trung Hoa hợp chủng với các gia tộc cầm quyền người Thát Đát của đế quốc phương bắc trước đây, đã tái thống nhất Trung Hoa bằng một cuộc chinh phục dễ dàng và mau chóng triều đại nhà Ch’en (Trần) suy yếu ở miền nam.  Nhưng trong khi chiếm cứ các lãnh địa của họ và các sự tuyên nhận mong manh về quyền chủ tể tại miền tây nam, nhà Tùy sẽ nhận ra rằng hình trạng trong miền đã thay đổi lón lao.  Phần lớn Quý Châu và hầu hết Vân Nam giờ đã được tổ chức thành một số vương quốc có thể triệu tập các đội quân đáng kể.  Họ không còn là các bộ lạc man rợ bị chia cắt thành các đơn vị lãnh thổ nhỏ của một thung lũng hay đồng bằng duy nhất.  Chính bản thân nhà Tùy đã sớm bị nhận chìm vào các sự khó khăn tiếp theo sau các cuộc chiến tranh không thành công của nó với Hàn Quốc (Bắc Hàn, vương quốc Koryugo), và Trung Hoa một lần nữa rơi vào sự hỗn loạn.  Màn xen giữa này thì ngắn ngủi: trong năm 618 triều đại nhà Đường, kẻ chiến thắng trong cuộc nội chiến phức tạp, đã xuất hiện để thống nhất Trung Hoa trên một căn bản lâu dài.  Không bao lâu, nó phô diễn để sức mạnh của mình được cảm thấy ở miền viễn nam.  Nhà Đường chấp nhận chính sách cổ truyền và đã được thử thách mà đế quốc nhà Hán đã theo đuổi.  Các tù trưởng bộ tộc và các nhà vua được mời gọi để thừa nhận quyền chủ tể của Trung Hoa, đổi lại nhận được sự xác định thẩm quyền và các tước phong vinh dự.  Hệ thống này có vẻ như vận hành khá tốt trong nhiều năm, và có thể không có gì phải nghi ngờ rằng sự phổ biến văn hóa và phong tục Trung Hoa đã được khích lệ.  Tuy nhiên, các thẩm quyền nhà Đường đã không thỏa mãn với sự phân chia miền thành quá nhiều vương quốc tương đối nhỏ bé, nhận thấy tình trạng này phức tạp và khó quản trị.  Họ nghĩ đến ý tưởng rằng bằng việc thống nhất nhiều vương quốc nhỏ hơn dưới một nhà cai trị, toàn thể sự quản trị chính trị vùng ven biên đế quốc sẽ được dễ dàng hơn.  Việc này, từ quan điểm của họ, là một sai la6`m quan trọng.  Nó đã giúp cho sự trổi dậy của vương quốc Nam Chiếu trở nên đáng sợ và hoàn toàn độc lập cũng như đối nghịch với đế quốc nhà Đường.

     Nam Chiếu đã là một trong sáu vương quốc, Sáu Chiếu (Six Chaos) (từ ngừ trong tiếng Thái chỉ nhà vua) đã chia cắt miền tây và trung Vân Nam.  Nam Chiếu được gọi tên như thế bởi vì bộ chỉ huy nguyên thủy của vị lãnh chúa được đặt tại Menghua, phía nam Đại Lý, sau này trở thành kinh đô của họ, và cũng bởi năm Chiếu kia hoặc là ở phía tây hay phía bắc của Menghua.  Nam Chiếu chình vì thế nguyên thủy là Chiếu Phương Nam (Nan).  Sự lựa chọn Đại Lý làm kinh đô là khôn ngoan, bởi đó là một trong các địa điểm được phòng vệ lý tưởng nhất có thể tưởng tượng được.  Tại sao nó chưa hề, như nó sắp, được nhận thức trong thời nhà Hán thì không rõ, bởi vị trí của nó mời gọi sự thiết lập ít nhất một quyền lực địa phương.  Đồng bằng trên đó thành phố tọa lạc có chiều dài khoảng ba mươi dặm, giáp ranh về phía đông với hồ Erh Hai (Nhĩ Hải?) rộng lớn, có nơi rộng tới năm dặm, và phía tây bởi rặng núi Ts’ang Shan cao sừng sững, một rào cảo vươn cao tới 14,000 bộ Anh, hay 7,000 bộ Anh cao hơn đồng bằng Đại Lý.  Đồng bằng đó ở cả hai đầu được khép kín bằng các ngọn đèo hẹp nằm giữa hồ nước, các con sông dẫn và thoát nước của nó, và rặng núi Ts’ang Shan.  Đèo phía bắc được gọi là Lung T’ou Kuan (Long Đầu Quan), Đèo Đầu Con Rồng, hay theo cách nói thông thường là Shangkuan (Thượng Quan), Đèo Trên; phía dưới, được phòng vệ bởi thành của Hsiaquan (Hạ Quan), Đèo Dưới, là Lung Wei Kuan (Long Vĩ Quan), Đèo Đuôi Rồng.  Con Rồng là hồ Nhĩ Hải (Erh Hai: Nhĩ Hải, theo hình dạng [như lỗ tai, ND] của nó).  Hai ngọn đèo, ngay dù chúng không được củng cố về phòng thủ, sẽ là các vị thế lý tưởng để phòng vệ đồng bằng và ngăn chặn một lực lượng hùng mạnh hơn nhiều.  Chúng đã được củng cố bởi thành phố có tường thành vững chức bao quanh ở Hạ Quan,  trên cửa vào phía nam ngăn chặn con đương đến Côn Minh ở hướng đông, và đèo hẹp theo đó con đường đi qua hướng tây dẫn đến Yungch’ang và giao điểm với sông Cửu Long.  Chính vì thế, nó là giao lộ chiến lược của miền tây Vân Nam, và mặc dù có thể đi vòng quanh đồng bằng Đại Lý và du hành lên phương bắc, con đường này khó khăn hơn nhiều.  (Dù thế, nó đã là con đường đi bởi Cộng sản trong cuộc Trường Chinh năm 1935, bởi họ không thể chọc thủng lối vào đồng bằng Đại Lý được).  Lối vào phương bắc vào đồng bằng Đại Lý được kiểm soát bởi thành tại Thượng Quan, nơi mà một khe nước sâu từ rặng Ts’ang Shan xuống hồ ở cửa sông Nhĩ Hải, đổ nước vào hồ.  Tòa thành được xây dựng bắc ngang lối đi duy nhất giữa khe nước và hồ.

     Đồng bằng Đại Lý là vùng đất trồng lúa gạo phì nhiêu, không bao giờ bị nguy ngập vì lũ lụt, và không bao giờ bị nguy hiểm vì hạn hán, bởi các luồng nước không dứt chảy xuống từ rặng núi Ts’ang Shan vĩ đại (đỉnh núi co tuyết phủ vào khoảng năm tháng) khiến cho việc dẫn nước thường trực trở nên khả dĩ.  Nó có khả năng sản xuất các khối lượng ngũ cốc lớn, và vụ thu hoạch gạo mùa hè được thay thế bằng đậu và rau trong mùa đông.  Ở trên cao, 7,000 bộ Anh, nhưng thuộc vĩ tuyến nhiệt đới, Đại Lý có một khí hậu gần như lý tưởng với mùa thu và mua đông dài và khô, và một mùa hè ngắn, ẩm ướt nhưng tương đối lạnh, khi gió mùa tây nam mang mưa nhiều đến hàng rào núi.  Không rõ rằng bộ tộc hay nhóm nào bị dời cư hay chinh phục bởi các nhà lãnh đạo Nam Chiếu khi họ di chuyển theo hướng bắc để chiếm giữ Đại Lý.  Các cư dân ngày nay, và chắc chắn trong nhiều thế kỷ đã qua, không phải sắc dân T’ai thuần chủng, mà được biết là dân Pai (trong Hán tự được dịch nghĩa đơn giản là “Bạch: Trắng”).   Trong tiếng Pai là Ber Wa Tze, có nghĩa “dân của Bạch Vương: White King”.  Ai có thể đã là vị vua thần thoại này thì không được ghi chép, nhưng một ngôi mộ cổ xưa và to lớn, bị xâm phạm từ lâu, trên sườn rặng Ts’ang Shan gần thành phố Đại Lý được tôn thờ ở địa phương như ngôi mộ của Bạch Vương.  Nó có vẻ như một ngôi mộ của một trong các vị vua của Nam Chiếu thì đúng hơn, và Bạch Vương thần thoại có lẽ là sự ghi nhớ của dân gian về một trong các vị vua chiến sĩ của Nam Chiếu.  Có vẻ khá rõ ràng rằng các nhà lãnh đạo của Nam Chiếu, và có lẽ các môn đệ của họ, là người T’ai, nhưng còn nhiều ngờ vực rằng liệu sắc dân Bạch theo các phong tục và ngôn ngữ còn sống sót của họ lại có thể được xếp loại như dân T’ai hay không.

     Vân Nam ngày nay, giống như trong quá khứ, là một mảnh chắp vá phức tạp của những người mà giờ đây được gọi là “các dân tộc ít người” – hay các bộ tộc trước đây – thuộc nhiều trình độ văn hóa khác nhau.  Dân Bạch trong bản chất là một sắc dân trồng lúa gạo; họ cư ngụ không chỉ ở đồng bằng Đại Lý mà còn ở cả các thung lũng phía bắc xa mãi đến tại vung sông Dương Tử trên cao, nhưng Đại Lý là trung tâm thực sự của họ.  Ở phía nam, chỉ quá Hạ Quan vài dặm, các sắc dân khác chiếm cư đất đai.  Bởi thế vương quốc Nam Chiếu không bao lâu đã sáp nhập toàn thể Vân Nam và vượt ra ngoài biên giới của tỉnh hạt hiện tại không thể được mô tả như một vương quốc dân Thái (T’ai), trong ý nghĩa rằng vương quốc sau này tại chính nước Thái Lan, và tại Lào là Thái trong thành phần chủng tộc của dân số của họ.  Nam Chiếu là một vương quốc được cai trị bởi một gia tộc có gốc người Thái, được hỗ trợ, có lẽ, bởi một tầng lớp cai trị thuộc cùng giống dân, nhưng cai quản một loạt nhiều sắc dân khác biệt kể cả, khi họ tăng trưởng mạnh hơn, nhiều quận huyện trong đó khu định cư Trung Hoa đã bám rễ.  Tính chất này phân biệt Nam Chiếu một cách rất khác biệt với Việt Nam ở phương nam.  Tại Việt Nam, người Trung Hoa đã cai trị một dân tộc duy nhất, được cư trú ven biên, thực sự, bởi các bộ tộc miền núi, những các bộ tộc này là ngoại vi và khó được mang đặt dưới sự quản trị trực tiếp.  Khi Việt Nam vứt bỏ ách cai trị của Trung Hoa, người Việt trở thành chủng tộc chế ngự và cai trị các bộ lạc như các chư hầu thụ phong.

     Tuy nhiên, tại Nam Chiếu đã không có sắc dân chế ngự được trải rộng hay thu gọn.  Sắc dân Bạch tại Đại Lý ngay khi đó có thể đông đảo, nhưng khu vực của họ bị giới hạn và chỉ tạo thành một phần nhỏ của Vân Nam.  Người Miao (Mèo) thì rải rác dọc theo nhiều rặng núi; người Na Khi được tìm thấy quanh sông Lichiang (Li Giang) ở phía bắc, nhưng không ở nơi nào khác, và cứ thế danh sách có thể được tiếp tục; nhiều dân tộc nhỏ hơn hay lớn hơn chiếm cứ các thung lũng và đông bằng cạnh hồ nước phì nhiêu tách biệt, bị phân cách xa nnhau bởi các rặng núi hoang dại được cư trú, nếu có, bởi các bộ tộc kém tiến bộ chẳng hạn như sắc dân Liu.  Sự phân tán này đã là một trợ lực cho sự thành lập một chế độ quân chủ được đặt nền móng vững chắc tại một địa điểm chiến lược, nhưng lại là một trở ngại chí tử cho sự tiến hóa của một dân tộc  Nó chính là cá tính dân tộc của giống dân Việt cổ của Việt nam mà ngay dù cả một nghìn năm dưới sự cai trị trực tiếp của Trung Hoa đã không thể phá vỡ được; chính sự thiếu vắng bất kỳ cá tính dân tộc nào như thế tại Vân Nam đã giúp cho sự sống sót tối hậu của một vương quốc tranh đấu và mạnh mẽ như Nam Chiếu, vốn đã tồn tại trong sáu trăm năm, là điều bất khả thi khi đối diện với sự cố kết và sức mạnh của Trung Hoa.  Người Việt Nam, ngay khi độc lập, tiếp tục nằm dưới ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa mạnh mẽ, nhưng từ chối không chấp nhận sự kiểm soát chính trị.  Các dân tộc của Vân Nam không bị ảnh hưởng sâu như thế bởi văn minh Trung Hoa, và vẫn có một số bộ phận chưa bị đụng chạm bởi nó, nhưng họ đã không thể duy trì được nền độc lập và kết thúc với việc bị sáp nhập toàn bộ vào đế quốc Trung Hoa.

Thật là một sự mỉa mai của lịch sử rằng Nam Chiếu, nước sẽ là,  trong một thời gian lâu dài,.trở ngại chính yếu cho sự nới rộng thẩm quyền và ảnh hưởng của Trung Hoa tại phương nam, lại đã được hỗ trợ bởi chính đế quốc Trung Hoa.  Vương quốc được cổ vũ trong những năm ban sơ của triều đại nhà Đường để hợp nhất Sáu Chiếu  trước đây và thiết lập kinh đô của nó tại Đại Lý (năm 629) vẫn còn được nhìn như kẻ thừa kế các quốc gia bé nhỏ vốn nhận được sự bảo trợ của nhà Hán bốn trăm năm trước.  Nam Chiếu có vẻ ban đầu chấp nhận vai trò này.  Năm 647, nó thừa nhận quyền chủ tể của Trung Hoa, và vương quốc được trình bày chính thức như “Khu Hạt hay Quận Huyện Minh: Department of Ming” nằm trong tỉnh miền nam to rộng mới lập là Chien nan.  Nhà Đư

0