12/01/2018, 17:59

Soạn bài Muốn làm thằng Cuội trang 155 SGK ngữ văn 8

Soạn bài Muốn làm thằng Cuội trang 155 SGK ngữ văn 8 Tại sao nhà thơ lại muốn làm thằng Cuội, muốn lên cung trăng với chị Hằng? Nỗi buồn chán của nhà thơ là do đâu? ...

Soạn bài Muốn làm thằng Cuội trang 155 SGK ngữ văn 8

Tại sao nhà thơ lại muốn làm thằng Cuội, muốn lên cung trăng với chị Hằng? Nỗi buồn chán của nhà thơ là do đâu?

1. Tại sao nhà thơ lại muốn làm thằng Cuội, muốn lên cung trăng với chị Hằng? Nỗi buồn chán của nhà thơ là do đâu?

Mở đầu bài thơ, hai câu đề, là tâm trạng của tác giả trước cảnh đời:  thu Đêm buồn lắm chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nửa rồi.

Gặp cảnh đêm thu đã buồn lại buồn và chán nừa. Nỗi buồn chán ấy như thể được nhân lên, chất chứa trong lòng, khiến nhà thơ phái thốt thành lời. Lời thở than cũng là một tâm trạng, một nỗi buồn da diết khôn nguôi. Ấy là nỗi buồn thời thế hay thân thế khiến nhà thơ chán cả cõi đời. Trong bài Giải sầu (1918), Tản Đà đã viết: Từ độ sầu đến nay, ngày cũng có lúc sầu, đêm cũng có lúc sầu. Mưa dầm lá rụng mà sầu, trăng trong gió mát mà càng sầu, nằm vắt tay lân trán mà sầu, đem thơ vẫn ngâm vịnh mà càng sầu... Sầu không có mối, chém sao cho dứt, sầu không có khối đập sao cho tan.. Không chỉ sầu đời, thi sĩ còn chán đời, một nỗi chán đời ngỡ như như đậm đặc trong thơ ông:

Đời đáng chán biết thôi là đủ

Sự chán đời xin nhủ lại tri âm.

Hay:                     Gió gió mưa mưa đã chán phèo

                            Sự đời nghỉ đến lại buồn teo.

Thật đúng như lời thi sĩ Xuân Diệu đã viết: Có ai đã sống những ngày tháng từ 1925 trở về đến 1935 chắc đều đã nhận thấy xã hội ta lúc đó sống trong một không khí tù hãm, u uất, phàm ai có đầu óc đều muốn thoát li, mà không thoát li cho nổi (chỉ có những người làm cách mạng mới sang một hệ thống, một phạm trù tư tưởng, tình cảm, tâm trạng khác). Muốn giải khuây, người ta mượn thơ văn, để thấy mình trong đó, ngõ hầu thơ văn có thốt hộ ra lời nói cái điều gì mà mình chỉ cảm thấy mờ mờ (cái mà châu Âu gọi là “cái mù mờ của những đam mê khát vọng”). Vì vậy, thuở ấy người ta đọc thơ nhiều. Tản Đà, qua những thơ văn trước tác hồi dó, đã nói lẽn đúng cái sầu bàng bạc của đất nước, tiềm tàng trong tim gan người ta (Tìm hiếu về Tản Đà, Tuyển tập Tản Đà NXB Văn học, Hà Nội, 1986).

Tưởng là vô cớ nhưng thực ra nỗi buồn chán của thi sĩ đã chứa chan bao quát nhiều điều: từ nỗi đau trước sự tồn vong của đất nước, của dân tộc đến nỗi đau kiếp người trước cảnh gió gió mưa mưa rồi nỗi cô đơn thất vọng, bế tắc của riêng mình: “Hai mươi năm lẻ hoài cơm áo. Mà đến bây giờ có thế thôi”.

Chính vì thế, thi sĩ Tản Đà muốn thoát li cái xã hội ngột ngạt tầm thường thời bấy giờ bằng mộng tưởng. Ông “muốn làm thằng Cuội” bỏ quách nhân gian để lên cung quế sống bên chị Hằng.

2.Nhiều người đã nhận xét một cách xác đáng rằng Tản Đà là một hồn thơ “ngông”. Ngông là gì? Ngông là làm những việc trái với lẽ thường, khác với mọi người xung quanh mình. Trong văn học, ngông là biếu hiện cùa ngòi bút có cá tính mạnh mẽ, bất hòa sâu sắc với xã hội đương thời, không chịu gò ép mình trong khuôn khổ chật hẹp của lễ nghi lề thói thông thường, chẳng hạn Nguyễn Công Trứ lấy mo cau che đít bò đủng đỉnh cưỡi lên chùa trong Bài ca ngất ngưởng hay Trần Tế Xương trong bài Bần nhi lạc đã ngợi ca lối sống của chú Mán: “Không đội nói chịu màu da dãi nắng. Chẳng nhuộm răng, dể trắng dễ cười đời”.

Còn Tản Đà, chính nhà thơ cũng tự nhận:

              Bẩm quả cỏ tên Nguyễn Khắc Hiếu

              Đầy xuống hạ giới về tội ngông.

Trong bài thơ này, cái ngông đó bộc lộ trong ý muốn được làm thằng Cuội, bỏ quách trần gian lên cung trăng cùng sống bên chị Hằng, bầu bạn vui cùng gió cùng mây trông xuống cõi người mà cười cợt.

Tuy nhà thơ gọi Hằng Nga là chị, tự xưng mình là em nhưng giọng điệu bài thơ không khỏi ít nhiều có tình ý lơi lả, ý vị cợt đùa. Trong cách xưng hô trò chuyện cùa ông với người đọc ít nhiều cũng hàm chứa thái độ chơi ngông. Đặc biệt là tư thế ở cuối bài thơ: Tựa nhau trông xuống thể gian cười thì đúng là một thái độ ngông nghênh khác lạ so với đương thời.

Vì sao nhà thơ là ngông như thế? Phải chăng là do mối bất hòa sâu sắc với hiện thực. Hơn nữa, ông lại có cá tính phóng khoáng và “thuộc giống đa tình” như chính ông đã tự nhận.

Câu 3:Sau cùng, hai câu kết càng bộc lộ tâm trạng của nhà thơ:

Rồi cứ mồi năm rằm tháng tám

Tựa nhau trông xuống thế gian cười.

Hình ảnh “tựa nhau” giữa nhà thơ cùng chị Hằng mới lãng mạn làm sao. Rằm tháng Tám, đêm Trung thu chính là lúc trăng tròn và sáng nhất trong năm. Khi đó, người người trong cõi trần gian này đều ngẩng đầu lên ngắm trăng. Cùng chính khi đó, nhà thơ ngồi trên cung trăng tựa vai chị Hằng “trông xuống thế gian, cười”,

Buồn chán cõi trần gian xô bồ, nhố nhăng, bất hòa với thực tế, nhà thơ muốn tìm nơi ẩn náu. Nơi ấy là thiên nhiên, là cung quế chị Hằng, đẽ từ đó giễu cợt lại đời bằng thái độ kiêu bạc của mình.

Câu 4 :Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ

   Bài thơ tuy được viết theo thể Đường luật nhưng không hề gò bó, trái lại, rất tự nhiên, đậm đà và có duyên. Nhà thơ lại đưa cả lời ăn tiếng nói dân gian vào đây một cách nhuần nhị, mộc mạc và giàu sức biểu hiện, tạo được một không khí trò chuyện thân tình (“chị Hằng ơi!”, “chán nửa rồi”, “ai ngồi đó chứa, nhắc lên chơi...”)

Cả bài thơ thể hiện sức tưởng tượng phong phú, dồi dào và táo bạo của hồn thơ lãng mạn Tản Đà, nói lên một thấm thía tâm sự buồn chán của nhà thơ đối với thực tại khi ấy. Ý tình này về sau được nhiều nhà thơ mới kế thừa và đẩy tới mức sâu sắc hơn.

0