Nỗi oan của người phòng khuê trang 161 SGK Ngữ văn 10
Nỗi oan của người phòng khuê trang 161 SGK Ngữ văn 10 Bài thơ là tâm trạng của người thiếu phụ diễn biến theo tác động của ngoại cảnh và tinh thần phản đối chiến tranh. Bài thơ có cấu tứ độc đáo, cách chuyển đổi về tâm lí nhân vật. ...
Nỗi oan của người phòng khuê trang 161 SGK Ngữ văn 10
Bài thơ là tâm trạng của người thiếu phụ diễn biến theo tác động của ngoại cảnh và tinh thần phản đối chiến tranh. Bài thơ có cấu tứ độc đáo, cách chuyển đổi về tâm lí nhân vật.
KIẾN THỨC CƠ BẢN
- Vương Xương Linh (698 - 756) thọ 55 tuổi, tự là Chiến Bá, ngưòi Kinh Triệu - Trường An nay là thành phố Tân An, tỉnh Thiểm Tây - Trung Quốc. Ông được coi là một bậc thầy về thể thơ thất ngôn tuyệt cú. Nhà thơ để lại cho đòi 180 bài thơ và một số tạp văn.
- Nội dung thơ Vương Xương Linh rất phong phú, đề cập cuộc sống của tướng sĩ nơi biên cương (Thơ Biên tái), những oán hận của người cung nữ, và nỗi li sầu biệt hận của ngưòi thiếu phụ, khúc ca tình bạn bè chân thành trong sáng ở đề tài ông cũng có những kiệt tác. Phong cách thơ Vương Xương Linh trong trẻo, tinh tế được người đòi hâm mộ.
- Bài thơ là tâm trạng của người thiếu phụ diễn biến theo tác động của ngoại cảnh và tinh thần phản đối chiến tranh. Bài thơ có cấu tứ độc đáo, cách chuyển đôi về tâm lí nhân vật.
HƯỚNG DẪN ĐỌC THÊM
Câu 1. Anh (chị) có nhận xét gì về nghệ thuât câu từ của bài thơ thể hiên qua quá trình chuyển biến tâm trang của người khuê phụ?
- Cấu tứ là hình ảnh, sự kiện, chi tiết tiêu biểu của thơ để cho cảm xúc vận động xung quanh. Cấu tứ của bài thơ này rất đặc biệt. Hai câu đầu thiếu phụ hiện lên “không biết buồn” mà còn say sưa chìm đắm trong trạng thái sảng khoái. Người thiếu phụ ấy trang điểm lộng lẫy, bước lên lầu cao để thưởng thức ngoạn cảnh xuân.
- Tuổi xuân, khuôn mặt trang điểm của nàng và cả cái tầng lầu ấy góp phần tô đẹp cảnh ngày xuân. Trạng thái tâm lí nhân vật, không gian và thòi gian hài hoà một cách tuyệt đối. Song hình ảnh chi tiết ấy đã đảo ngược so với tiêu đề bài thơ (Nỗi oán của người phòng khuê). Cấu tứ đạt đến trình độ nghệ thuật là ở chỗ nào. Tác giả như vậy là để tạo thế cho việc biểu hiện một cách đột xuất, rõ nét và tự nhiên quá trình chuyển biến tâm lí của người thiếu phụ. Đang vui, đang lâng lâng sảng khoái trang điểm đẹp để ngắm ngày xuân thì:
“Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc”
(Nhác trông vẻ liễu bên đường)
(Đầu đường chợt thấy màu dương liễu)
Hối giao phu tế mịch phong hầu
("Phong hầu” nghĩa dại xui chàng kiếm chi)
(Hối để chàng đi kiếm tước hầu)
Câu 2. Vì sao thấy “màu dương liễu” nàng đã hối hân vì để chàng đi kiếm ấn phong hầu?
Mầm liễu, hoa mai trong thơ cổ điển Trung Quốc là vật tiêu biểu tượng trưng cho mùa xuân, được coi là những sứ giả báo tin xuân. Liễu còn tượng trưng cho sự li biệt. Sự xuất hiện bạt ngàn dương liễu lập tức làm dấy lên bao cảm xúc liên tưởng, hồi ức của thiếu phụ. Chắc hẳn là nhớ lại giờ phút chia tay năm nào và nhố bao ngày tháng sông trong cô đơn, nghĩ đến tuổi xuân dần qua, nghĩ tói những điểu rủi ro mà chồng mình có thể gặp phải. Câu thơ thứ ba đóng vai trò là ý chuyển mạch cảm xúc. Nó là mạch nối để từ đáy lòng người thiếu phụ ấy thốt lên lòi tự oán trách sâu lắng mà quyết liệt:
Hối giao phu tế mịch phong hầu
(“Phong hầu” nghĩ dại xui chàng kiếm chi!)
(Hối để chàng đi kiếm tước hầu)
Hình thức là lời oán trách song bản chất là sự phủ định phong kiến. Cấu tứ của bài thơ rất phù hợp vói tâm trạng của ngưòi thiếu phụ.
- Cây liễu xuất hiện trong thơ báo hiệư mùa xuân. Liễu còn chứng kiến sự li biết. Người phương bắc Trung Quốc xưa khi chia tay thường tặng nhau cành liễu. Vì thế nhìn “màu dương liễu” nàng chợt nghĩ tới tuổi xuân ngày một qua đi, cái già sẽ đến với nàng. Những năm tháng sống trong cô đơn chờ đợi và biết đâu người chồng ấy không trở về. Chính vì thế mà nàng hối hận vì đã khuyên chàng đi kiếm ấn phong hầu.
Câu 3. Vì sao toàn bài chỉ có 28 chữ bài“Khuê oán” lạiđược coi là bài thơ tiêu biểu cho tinh thần phản đối chiên tranh phi nghĩa của con người thời Đường
Bài thơ là sự diễn biến tâm trạng của ngươi thiếu phụ. Nàng sung sướng, lâng lâng đầy lãng mạn trẻ trung, ngày xuân phơi phới từng bước nên lầu, ngắm gương trang điểm. Song cách vào đề ấy chỉ là đẩy cao nhận thức và chuyển biến tâm lí của người thiếu phụ có chồng nơi trận mạc khi nàng bất chợt bắt gặp “màu dương liễu”. Nàng nghĩ báo mùa xuân đã trôi qua, ai gây nên cảnh chia li này để nàng phải sống trong cô đơn buồn tẻ? Chồng nàng nơi chiến trận sẽ ra sao? Liệu có ngày trở về hay không. Rút cục chiến tranh phi nghĩa là nguyên nhân của mọi khổ đau. Vì vậy “Khuê oán” đâu chỉ là lòi oán trách mình của người thiếu phụ. Oán trách mình chỉ là hình thức, là cái cớ để Vương Xương Linh lên án chiến tranh phi nghĩa đòi Đưòng. Một lẽ khác, chiến tranh để lại biết bao hậu quả. Nạn nhân của nó là bà mẹ và em bé. Vì thê đây là lời tố cáo chiến tranh, những vần thơ phản chiến.