Số liệu thống kê về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 6 tháng đầu năm 2006
Trong tháng 6/2006 cả nước co 58 dự án được cấp giấy phép Kết quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến năm 2004 Tính đến cuối năm 2004, cả nước đã cấp giấy phép đầu tư cho 5424 dự án ĐTNN ...
Trong tháng 6/2006 cả nước co 58 dự án được cấp giấy phép
Kết quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến năm 2004
Tính đến cuối năm 2004, cả nước đã cấp giấy phép đầu tư cho 5424 dự án ĐTNN với tổng số vốn đăng ký đạt 54,8 tỷ USD. Trong đó có 4376 dự án FDI còn hiệu lực tổng vốn đầu tư đăng ký là 41 tỷ USD. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiêm 66,9% về số dự án và chiếm 57,2% tổng số vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ với 19,5% về số dự án và 35,8% về vốn đầu tư đăng ký, lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 13,6% số dự án và chiếm 7% vế vốn đầu tư đăng ký.
Trong số 64 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào VN Sigapore đứng đầu với 6,6% về số dự án và 19% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp đó là Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Hồng kông.
Các kiều bào ở nước ngoài cũng đã tham gia đầu tư nhưng với mức đầu tư còn rất khiêm tốn: 63 dự án vớI vốn đầu tư đăng ký 208,67 triệu USD chỉ bằng 0,5% tổng vốn đầu tư, quy mô bình quân của một dự án thấp hơn quy mô bình quân của cả nước. Số vốn này chủ yếu là từ CHLB Đức, LB Nga và Pháp.
Các dự án đầu tư vẫn tập trung ở một số thành phố lớn có điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi. TP.HCM dẫn đầu cả nước, chiếm 31.2% số dự án và 26% tổng vốn đăng ký. Hà Nội đứng thứ hai , chiếm 11% số dự án và 11,1% tổng số vốn đăng ký. Tiếp đó là Đồng Nai và Bình Dương. Chỉ tính riêng vùng kinh tế trọng điểm phía nam (TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa-Vũng Tàu) đã chiếm 50% tổng vốn ĐTNN đăng ký của cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội, Hải Dương, HảI Phòng, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh) chiếm 26,35 tổng vốn ĐTNN đăng ký của cả nước.
Tính đến hết năm 2004 cả nước có khoảng 1400 dự án ĐTNN vào KCN, KCX còn hiệu lực (không kể các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN) vớI tổng vốn đăng ký 11,145 tỷ USD tương đương 26,7% tổng vốn ĐTNN của cả nước.
Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp FDI
Tổng vốn đầu tư của các dự án FDI thực hiện từ năm 1988 đến hết năm 2004 đạt được trên 28 tỷ USD (gồm cả vốn thực hiện của các dự án đã hết hạn hoặc giải thể trước thời hạn). Trong đó vốn nước ngoài khoảng 25 tỷ USD, chiếm 89% tổng vốn thực hiện. Tính riêng cho thời kỳ 1991-1995 vốn thực hiện của các dự án FDI đạt 7,15 tỷ USD, thời kỳ 1996-2000 đạt 13,4 tỷ USD. Và tính cho bốn năm 2001-2004, vốn thực hiện các dự án FDI đạt 8,7 tỷ USD bằng 80% mục tiêu đề ra của nghị quyết chính phủ số 29/2001/MQ-CP cho 5 năm 2001-2005
Trọng quá trình hoạt động, nhiều dự án triển khai sản xuất – kinh doanh có hiệu quả đã tăng vốn đăng ký, mở rộng quy mô sản xuất. Từ năm 1988 đến cuối năm 2004 đã có khoảng 2100 lượt đăng ký vốn của các dự án, với số vốn tăng thêm đạt trên 9 tỷ USD. Thời gian từ 2001-2004 các dự án đã bổ sung gần 4 tỷ USD, bằng 47,6% tổng vốn đầu tư đăng ký mới.
Tính đến hết năm 2004, các dự án ĐTNN đã đạt doanh thu hơn 75 tỷ USD (không kể dầu khí), riêng 4 năm từ 2001-2004 đạt 51tỷ USD . Giá trị xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt trên 30 tỷ USD, tính riêng 4 năm 2001-2004 đạt 18 tỷ USD. Giá trị xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có vốn ĐTNN tăng nhanh , với mức tăng bình quân trên 20%/ năm đã làm cho tỷ trọng xuất khẩu của khu vực này tăng liên tục qua các năm: năm 2001 là 24,45, năm 2002 là 27,5%, năm 2003 là 30,6%, năm 2004 là 31,4%
Đến hết năm 2004, khu cực kinh tế có vốn ĐTNN thu hút 765 nghìn lao động trực tiếp và hơn 1,5 triệu lao động gián tiếp.
Đến hết năm 2004, đã có 39 dự án kết thúc đúng thời hạn với tổng vốn đăng ký là 658 triệu USD, và 1009 dự án giải thể trước thời hạn vớI tổng số vốn đăng ký khoảng 12,3 tỷ USD chiếm 23% tổng vốn đăng ký. Số dự án giải thể trước thời hạn chiếm 18,6% tổng số dự án được cấp phép
Đánh giá những mặt tích cực, hạn chế của hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của thời kỳ 1998-2004
Những mặt tích cực đã đạt được
Sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực năm 1997, dòng vốn ĐTNN vào VN liên tục tăng. Năm 2002 vốn đăng ký mới đạt 2,8 tỷ USD. Năm 2003 đạt 3,1 tỷ USD, năm 2004 tăng lên 4,2 tỷ USD.
ĐTNN đã bổ xung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng các nguồn lực trong nước tạo thế và tạo lực cho nền kinh tế.
Tỷ lệ đóng góp của khu vực ĐTNN trong GDP tăng dần qua các năm. Năm 1995 là 6,3%, năm 1998 là 10,1%, năm 2001 là 13,1% năm 2003 tăng lên 14,3%.
Hoạt động của các doanh nghiệp FDI đã góp phần nâng cao năng lực xuất khẩu, tạo thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường ngoài nước. Kim ngạch xuất khẩu của khu vự đầu tư nước ngoằi tăng nhanh. Trong thờI kỳ 1996-2000 đạt trên 10,6 tỷ USD (không kể tớI lĩnh vực dầu khí), trong 3 năm 2002-2004 xuất khẩu của khu vực này đạt 14,6 tỷ USD.
Các dự án ĐTNN góp phàn mở rộng các hoạt động sản xuất - kinh doanh trong nước, thúc đẩy sự phát triển của các dịch vụ, đặc biệt là lĩnh vực khách sạn, du lịch, các dịch vụ thu đổi ngoại tệ, dịch vụ tư vấn pháp lý, tư vấn kỹ thuật – công nghệ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với các thị trường quốc tế.
Các hoạt động thu hút vốn ĐTNN đã bắt đầu chú trọng nhiều hơn đến chất lượng, thu hút những dự án có hàm lượng công nghệ cao. Kết hợp các thu hút nhiều lao động, tạo điều kiện phát triển ngồn năng lực.
Việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất đã góp phần nâng cao tính quy hoạch của việc xây dựng và triển khai thực hiện các dự án đầu tư nói chung và các dự án ĐTNN nói riêng.
Những hạn chế và tồn tại
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được trong hoạt động thu hút và triển khai thực hiện các dự án ĐTNN tại VN vẫn còn những mặt hạn chế cần khắc phục.
Vốn đầu tư đăng ký tuy tăng nhưng vẫn còn ở mức thấp, vốn đăng ký mới năm 2004 đạt 4,1 tỷ USD chỉ bằng khoảng 50% vốn đăng ký mới của năm 1996.
Cơ cấu vốn ĐTNN cho các ngành và các địa phương chưa hợp lý, chưa đạt được tính định hướng và chiến lược lâu dài
Dự án đầu tư từ các nước có thế mạnh về công nghệ nguồn như: Mỹ, Nhật, EU tăng chậm
Năng lực của các doanh nghiệp phụ trợ trong nước trong việc cung cấp nguyên liệu, phụ tùng. Linh kiện cho các doanh nghiệp FDI còn rất hạn chế, không tạo được ưu thế nội hoá chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa hai khu vực này.
Hạn chế về khả năng góp vốn của bên VN trong các liên doanh, thiếu cơ chế huy động các nguồn lực khác nhau để góp vốn liên doanh của nước ngoài.
Thiếu sự đồng bộ về thực thi chính sách thu hút đầu tư và quản lý hoạt động ĐTNN giữa các cấp, ngành và các địa phương dẫn đến hiện tượng “phá rào” trong thu hút đầu tư nước ngoài.
Có nhiều dự án FDI không đảm bảo tiến độ triển khai thực hiện dự án, có những dự án triển khai chậm tới 5, 10 năm như dự án công ty liên doanh xi măng Phúc Sơn thời gian triển khai chậm đến 5 năm.
Tỷ lệ dự án đổ bể, giải thể trước thời hạn còn rất lớn chiếm khoảng 26% so với vốn đăng ký mới hàng năm
Vấn đề liên quan đến quyền sử dụng đất, thuê đất, giải phóng mặt bằng đang là những khó khăn đối với nhà ĐTNN trong việc triển khai các dự án.
Các văn bản pháp luật về ĐTNN còn chưa đầy đủ, một số thì chưa rõ ràng. Thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, một số nơi ở một số ban ngành còn có thái độ thiếu hợp tác
Nguồn lao động chưa đáp ứng được các yêu cầu tuyển dụng của các nhà ĐTNN. Cán bộ làm việc trong các doanh nghiệp FDI còn thiếu kiến thức chuyên môn, không nắm vững luật pháp, yếu kém về ngoại ngữ và thiếu kinh nghiệm thương trường.
Quy định quá chặt về tỷ lệ nội địa hoá và tỷ lệ xuất khẩu