Rainer Maria Rilke

Rainer Maria Rilke (1875–1926) tên đầy đủ là René Karl Wilhelm Johann Josef Maria Rilke, là nhà thơ Áo gốc Bohemia viết bằng tiếng Đức, một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỉ XX. Rainer Maria Rilke sinh ở Prague, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là cộng hoà Czech) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Prague, sau đó ở Munchen (Munich), Berlin, Paris, Thuỵ Sĩ. Học văn học, lịch sử nghệ thuật, triết học ở Đại học Prague, Đại học Munchen, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Những giấc mộng đăng quang, 1897),... là sự thể hiện những đề tài của chủ nghĩa suy đồi cuối thế kỉ XIX. Sau hai chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Leo Tolstoy và chịu sự ảnh hưởng của văn học Nga, chuyển sang khuynh hướng nhân đạo trong sáng tác. Năm 1901 cưới Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến I xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở Munchen, năm 1919 sang Thuỵ Sĩ. Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Những khúc bi ca Duineser) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Geneva. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Hậu quả là Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ khắc trên bia mộ: “Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern” (Hoa hồng, ôi vẻ hai mặt trắng trong, đỏng đảnh, Làm một giấc mộng không của ai dưới gánh nặng của bao đời). Rilke sáng tác từ khi còn rất trẻ và thi tập đầu tay của ông Leben und Lieder: Bilder und Tagebuchblatter (Cuộc sống và những bài ca: Những hình ảnh và những trang nhật ký) được xuất bản năm 1894. Sự nghiệp sáng tác của ông có thể chia làm bốn giai đoạn: - Thời kỳ hình thành (1897-1902) với những tập thơ tình đầu tay mang phong cách lãng mạn của thế kỷ XIX như Traumgekrönt (Mơ mộng, 1897), Dir zur Feier (Dâng hiến, 1897-1898), Advent (Mùa vọng, 1898)... Giai đoạn này ông gặp nữ văn sĩ – thi sĩ – nhà tâm lý học người Nga Lou Andreas-Salomé, người có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp và cuộc đời của ông đến tận cuối đời; ông đã cùng bà đi sang Nga hai lần vào năm 1899 và 1900, nơi đã khơi gợi thi hứng để ông sáng tác thi tập Das Stunden-Buch (Kinh Nhật tụng, 1899-1903) mà ông dành tặng Salomé. - Thời kỳ hiện thực (1902-1910), phần lớn thời gian này ông sống tại Paris và từng làm thư ký cho hoạ sĩ – nhà điêu khắc nổi tiếng Auguste Rodins, người mà ông đã học được cách quan sát bằng năng lực tri giác và biến những quan sát đó thành nghệ thuật; trong thời gian ở Paris Rilke đã phát triển một phong cách mới li khai khỏi thơ trữ tình truyền thống của Đức được gọi là Ding-Gedicht (thơ vật thể). Các thi tập mang phong cách tượng trưng như Das Buch der Bilder (Kinh Hình tượng, 1899-1906), Neue Gedichte (Những vần thơ mới, 1902-1908), cuốn tiểu thuyết mang phong cách hiện sinh Die Aufzeichnungen des Malte Laurids Brigge (Ghi chép của Malte Laurids Brigge) và trường ca Requiem-Gedichte (Thơ Cầu hồn) của ông đã được hoàn thành trong thời kỳ này. - Thời kỳ thứ ba (1910-1919) là thời kỳ đánh dấu một khoảng ngừng lặng trong sự nghiệp văn học của ông. Sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết Ghi chép của Malte Laurids Brigge , ông bị ám ảnh vì chiến tranh đến độ hầu như không thể sáng tác được gì. - Thời kỳ cuối cùng và cũng cũng là thời kỳ sáng tác cao độ nhất của ông (1919-1926), tâm trạng ám ảnh vì chiến tranh kết thúc vào năm 1922 khi ông hoàn thành bản Duineser Elegien (Bi ca Duino) mà ông bắt tay vào viết từ năm 1912. Ngay sau đó ông cho ra đời Die Sonette an Orpheus (Sonnet dành tặng Orpheus). Hai tác phẩm này là đỉnh cao trong sự nghiệp của ông. Đây cũng là thời gian ông sáng tác nhiều bài thơ mang đậm nét trừu tượng và triết lý như Vorfrühling (Chớm xuân), Mausoleum (Lăng mộ), Vergänglichkeit (Thoảng qua)... Rilke chịu ảnh hưởng của hai triết gia là Schopenhauer và Nietzsche; nhiều tác phẩm của ông mang tính triết lý về cái đẹp, nỗi thống khổ, cuộc sống và cái chết. Ngoài thi ca và tiểu thuyết, ông còn viết tiểu luận, truyện ngắn và dịch một số tác phẩm từ tiếng Nga và tiếng Pháp. Ông cũng sáng tác bằng tiếng Pháp. Rilke khiến nhiều thế hệ say mê bằng những vần thơ đầy cảm xúc, bằng thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh, âm điệu và luôn day dứt của mình. Ông thường sử dụng những cú pháp mới mẻ, sáng tạo, và biến ngôn từ thành bất tử. Rilke, như lời phát biểu của nhà văn và nhà phê bình kịch người Áo Robert Musil đọc tại lễ tưởng niệm ông, là “nhà thơ vĩ đại nhất từ thời Trung cổ mà người Đức từng có...”, và “...ông không làm gì khác ngoài việc làm cho nền thi ca Đức lần đầu tiên trở nên hoàn hảo...” Thơ: - Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894) - Traumgekrönt (Những giấc mộng đăng quang, 1897) - Advent (1898) - Erste Gedichte (Những bài thơ đầu tiên, 1903) - Mir zur Feier (Cho tôi trong ngày lễ, 1909) - Buch der Bilder (Quyển sách những hình tượng, 1902) - Stundenbuch (Nhà nguyện, 1905) - Neue Gedichte (Những bài thơ mới, 1907-08) - Duineser Elegien (Những khúc bi ca Duineser, 1912/1922) - Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus, 1923) - Das Marien-Leben (Cuộc đời của trinh nữ Marie, 1912) - Die Weise von Liebe und Tod des Kornets Christoph Rilke (Bài ca về tình yêu và cái chết của Kornets Christoph Rilke, 1906) Văn xuôi: - Die Aufzeichnungen des Malte Laurids Brigge (Những ghi chép Malte Laurids Brigge, 1910) Rainer Maria Rilke (1875–1926) tên đầy đủ là René Karl Wilhelm Johann Josef Maria Rilke, là nhà thơ Áo gốc Bohemia viết bằng tiếng Đức, một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỉ XX. Rainer Maria Rilke sinh ở Prague, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là cộng hoà Czech) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Prague, sau đó ở Munchen (Munich), Berlin, Paris, Thuỵ Sĩ. Học văn học, lịch sử nghệ thuật, triết học ở Đại học Prague, Đại học Munchen, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Những giấc mộng đăng quang, 1897),... là sự thể hiện những đề tài của chủ nghĩa suy đồi cuối thế kỉ XIX. Sau hai chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Leo Tolstoy và chịu sự ảnh hưởng của văn học Nga, chuyển sang khuynh hướng n…

Rainer Maria Rilke (1875–1926) tên đầy đủ là René Karl Wilhelm Johann Josef Maria Rilke, là nhà thơ Áo gốc Bohemia viết bằng tiếng Đức, một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỉ XX.

Rainer Maria Rilke sinh ở Prague, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là cộng hoà Czech) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Prague, sau đó ở Munchen (Munich), Berlin, Paris, Thuỵ Sĩ. Học văn học, lịch sử nghệ thuật, triết học ở Đại học Prague, Đại học Munchen, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Những giấc mộng đăng quang, 1897),... là sự thể hiện những đề tài của chủ nghĩa suy đồi cuối thế kỉ XIX.

Sau hai chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Leo Tolstoy và chịu sự ảnh hưởng của văn học Nga, chuyển sang khuynh hướng nhân đạo trong sáng tác. Năm 1901 cưới Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp.

Thế chiến I xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở Munchen, năm 1919 sang Thuỵ Sĩ. Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Những khúc bi ca Duineser) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus).

Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Geneva. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Hậu quả là Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ khắc trên bia mộ: “Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern” (Hoa hồng, ôi vẻ hai mặt trắng trong, đỏng đảnh, Làm một giấc mộng không của ai dưới gánh nặng của bao đời).

Rilke sáng tác từ khi còn rất trẻ và thi tập đầu tay của ông Leben und Lieder: Bilder und Tagebuchblatter (Cuộc sống và những bài ca: Những hình ảnh và những trang nhật ký) được xuất bản năm 1894. Sự nghiệp sáng tác của ông có thể chia làm bốn giai đoạn:

- Thời kỳ hình thành (1897-1902) với những tập thơ tình đầu tay mang phong cách lãng mạn của thế kỷ XIX như Traumgekrönt (Mơ mộng, 1897), Dir zur Feier (Dâng hiến, 1897-1898), Advent (Mùa vọng, 1898)... Giai đoạn này ông gặp nữ văn sĩ – thi sĩ – nhà tâm lý học người Nga Lou Andreas-Salomé, người có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp và cuộc đời của ông đến tận cuối đời; ông đã cùng bà đi sang Nga hai lần vào năm 1899 và 1900, nơi đã khơi gợi thi hứng để ông sáng tác thi tập Das Stunden-Buch (Kinh Nhật tụng, 1899-1903) mà ông dành tặng Salomé.

- Thời kỳ hiện thực (1902-1910), phần lớn thời gian này ông sống tại Paris và từng làm thư ký cho hoạ sĩ – nhà điêu khắc nổi tiếng Auguste Rodins, người mà ông đã học được cách quan sát bằng năng lực tri giác và biến những quan sát đó thành nghệ thuật; trong thời gian ở Paris Rilke đã phát triển một phong cách mới li khai khỏi thơ trữ tình truyền thống của Đức được gọi là Ding-Gedicht (thơ vật thể). Các thi tập mang phong cách tượng trưng như Das Buch der Bilder (Kinh Hình tượng, 1899-1906), Neue Gedichte (Những vần thơ mới, 1902-1908), cuốn tiểu thuyết mang phong cách hiện sinh Die Aufzeichnungen des Malte Laurids Brigge (Ghi chép của Malte Laurids Brigge) và trường ca Requiem-Gedichte (Thơ Cầu hồn) của ông đã được hoàn thành trong thời kỳ này.

- Thời kỳ thứ ba (1910-1919) là thời kỳ đánh dấu một khoảng ngừng lặng trong sự nghiệp văn học của ông. Sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết Ghi chép của Malte Laurids Brigge, ông bị ám ảnh vì chiến tranh đến độ hầu như không thể sáng tác được gì.

- Thời kỳ cuối cùng và cũng cũng là thời kỳ sáng tác cao độ nhất của ông (1919-1926), tâm trạng ám ảnh vì chiến tranh kết thúc vào năm 1922 khi ông hoàn thành bản Duineser Elegien (Bi ca Duino) mà ông bắt tay vào viết từ năm 1912. Ngay sau đó ông cho ra đời Die Sonette an Orpheus (Sonnet dành tặng Orpheus). Hai tác phẩm này là đỉnh cao trong sự nghiệp của ông. Đây cũng là thời gian ông sáng tác nhiều bài thơ mang đậm nét trừu tượng và triết lý như Vorfrühling (Chớm xuân), Mausoleum (Lăng mộ), Vergänglichkeit (Thoảng qua)...

Rilke chịu ảnh hưởng của hai triết gia là Schopenhauer và Nietzsche; nhiều tác phẩm của ông mang tính triết lý về cái đẹp, nỗi thống khổ, cuộc sống và cái chết. Ngoài thi ca và tiểu thuyết, ông còn viết tiểu luận, truyện ngắn và dịch một số tác phẩm từ tiếng Nga và tiếng Pháp. Ông cũng sáng tác bằng tiếng Pháp.

Rilke khiến nhiều thế hệ say mê bằng những vần thơ đầy cảm xúc, bằng thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh, âm điệu và luôn day dứt của mình. Ông thường sử dụng những cú pháp mới mẻ, sáng tạo, và biến ngôn từ thành bất tử. Rilke, như lời phát biểu của nhà văn và nhà phê bình kịch người Áo Robert Musil đọc tại lễ tưởng niệm ông, là “nhà thơ vĩ đại nhất từ thời Trung cổ mà người Đức từng có...”, và “...ông không làm gì khác ngoài việc làm cho nền thi ca Đức lần đầu tiên trở nên hoàn hảo...”

Thơ:
- Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894)
- Traumgekrönt (Những giấc mộng đăng quang, 1897)
- Advent (1898)
- Erste Gedichte (Những bài thơ đầu tiên, 1903)
- Mir zur Feier (Cho tôi trong ngày lễ, 1909)
- Buch der Bilder (Quyển sách những hình tượng, 1902)
- Stundenbuch (Nhà nguyện, 1905)
- Neue Gedichte (Những bài thơ mới, 1907-08)
- Duineser Elegien (Những khúc bi ca Duineser, 1912/1922)
- Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus, 1923)
- Das Marien-Leben (Cuộc đời của trinh nữ Marie, 1912)
- Die Weise von Liebe und Tod des Kornets Christoph Rilke (Bài ca về tình yêu và cái chết của Kornets Christoph Rilke, 1906)

Văn xuôi:
- Die Aufzeichnungen des Malte Laurids Brigge (Những ghi chép Malte Laurids Brigge, 1910)
Rainer Maria Rilke (1875–1926) tên đầy đủ là René Karl Wilhelm Johann Josef Maria Rilke, là nhà thơ Áo gốc Bohemia viết bằng tiếng Đức, một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỉ XX.

Rainer Maria Rilke sinh ở Prague, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là cộng hoà Czech) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Prague, sau đó ở Munchen (Munich), Berlin, Paris, Thuỵ Sĩ. Học văn học, lịch sử nghệ thuật, triết học ở Đại học Prague, Đại học Munchen, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Những giấc mộng đăng quang, 1897),... là sự thể hiện những đề tài của chủ nghĩa suy đồi cuối thế kỉ XIX.

Sau hai chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Leo Tolstoy và chịu sự ảnh hưởng của văn học Nga, chuyển sang khuynh hướng n…
Bài liên quan

Jaroslav Seifert

Jaroslav Seifert (1901-1986) sinh tại Žižkov, ngoại ô Praha. Bố ông, Antonín Seifert (sinh 1861), là thợ khoá, viên chức, nhà buôn bán ảnh và công nhân tại khoa chỉnh hình. Mẹ ông là Marie Seifertová (tên sinh Marie Borutová) (sinh 1873). Ông theo học một số trường gymnázium (một loại trường trung ...

Francis Carco

Francis Carco - Tusali (1886-1958), bút danh Francis Carco sinh ra ở Nouméa (thành phố, cảng và là trung tâm hành chính của New Caledonia, lãnh thổ hải ngoại thuộc Pháp). Sau về ở Paris, làm thơ viết văn. Ông có chân trong Viện hàn lâm Goncourt. Thơ ông vừa hiện đại vừa dân tộc thường pha giọng đùa ...

Ivan Skála

Ivan Skála (1922-1997) tên thật là Karel Hell. Nhà thơ Séc, sinh trong gia đình thợ nguội ở Brandýs nad Labem. Sau khi tốt nghiệp trung học thương mại, ông làm kế toán kiêm thư ký. Gia đình đã phải sống lưu lạc nhiều nơi. Năm 1942 ông bị bọn phát xít đưa đi lao động khổ sai tại Đức. Sau ngày đất ...

Digioghin Txedev

Digioghin Txedev (1940-) là nhà văn, nhà thơ, nhà hoạt động xã hội Mông Cổ, nguyên chủ tịch Hội nhà văn Mông Cổ. Đã từng sang thăm Việt Nam, dự Hội nghị quốc tế, Hội nghị các nhà lãnh đạo các Hội nhà văn Á Phi. Tác phẩm: - Hơi thở của Gobi (thơ)

Miroslav Holub

Miroslav Holub (1923-1998) sinh tại Plzeň, Czech, mất tại Praha; lớn lên, ông học Y khoa, có bằng tiến sĩ và làm việc trong lãnh vực miễn dịch học, là tác giả của gần 200 bài nghiên cứu về y học. Tuy nhiên, điều làm cho Holub nổi tiếng không những ở Cộng hoà Czech mà còn trên khắp thế giới là thơ. ...

Karel Sýs

Karel Sýs (1946-) là nhà thơ Séc, sinh tại Rychnov nad Kněžnou. Tốt nghiệp Đại học kinh tế ngoại thương, một thời gian làm việc tại Trung tâm xuất khẩu nghệ thuật. Từ năm 1974 chuyển sang công tác trong toà soạn tuần báo Tvorba (Sáng tạo), rồi sau đó làm phó tổng biên tập tuần báo văn học Kmen và ...

Jiří Taufer

Jiří Taufer (1911-1986) là nhà thơ và nhà viết tiểu luận cộng sản, dịch giả thơ ca Nga hiện đại. Sinh tại Boskovice nr. Blansko, mất tại Praha. Ông học luật và đã qua nhiều hoạt động trong các lĩnh vực văn hóa, báo chí và ngoại giao. Từng làm đại sứ tại Nam Tư (nay là Serbi - Montenegro) và Tham tán ...

Everhardus Johannes Potgieter

Everhardus Johannes Potgieter (1808-1875) là nhà văn, nhà thơ Hà Lan, sinh ở Zwolle, Neth và mất ở Amsterdam. Khởi nghiệp ở Antwerp. Sau chuyến thăm Thuỵ Điển, ông về ở hẳn Amsterdam. Là người đã cố gắng thiết lập tiêu chuẩn mới và khuyến khích ý thức quốc gia trên tạp chí "The Guide", được thành ...

Jiří Wolker

Jiří Wolker (1900-1924) là nhà thơ, nhà báo và nhà viết kịch người Séc. Ông là một trong những thành viên sáng lập CPC (Đảng Cộng Sản Séc) năm 1921. Theo http://en.wikipedia.org/wiki/Jiri_Wolker

Miloslav Topinka

Miloslav Topinka (1945-) là nhà thơ, nhà viết tiểu luận, sinh tại Nový Etynk. Tốt nghiệp Đại học Karlovy. Ông từng cộng tác với nhiều tạp chí văn học và xuất bản những tập thơ đầu tiên. Thơ ông đã được dịch nhiều sang tiếng Nhật, tiếng Đức và tiếng Anh. Tác phẩm: - Utopir (thơ) - Tổ chuột (thơ) ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...