18/06/2018, 11:38

Quyển IV: Nói về các ngạch thuế và tiền tệ

Trong sách Chu-quan (đời nhà Chu) có đánh thuế "quan" (của quan) và "thị" (chợ), "sơn" (núi) và "trạch" (Chằm, đồng lầy). Thuế "quan" tức là tuần thuế ngày nay, thuế "thị" tức la thuế chợ ngày nay, thuế "sơn" tức là thuế mỏ ngày nay, thuế "trạch" tức là thuế đầm, ao ngày nay. Núi và chằm ...

      Trong sách Chu-quan (đời nhà Chu) có đánh thuế "quan" (của quan) và "thị" (chợ), "sơn" (núi) và "trạch" (Chằm, đồng lầy). Thuế "quan" tức là tuần thuế ngày nay, thuế "thị" tức la thuế chợ ngày nay, thuế "sơn" tức là thuế mỏ ngày nay, thuế "trạch" tức là thuế đầm, ao ngày nay. Núi và chằm đều có đặt chức "ngu-quan". Núi to, chằm to đặt Trung-sĩ 4 người, Hạ-sĩ 8 người, núi to vừa, chằm to vừa đặt Hạ-sĩ 6 người, núi nhỏ, chằm nhỏ đặt Hạ-sĩ 2 người. Rừng và sông đều có đặt chức "Hành-quan". Rừng nhớn, sông nhớn đặt Hạ-sĩ 12 người, rừng nhớn vừa, sông nhớn vừa đặt Ha sĩ 6 người, rừng nhỏ, sông nhỏ đặt Hạ-sĩ 2 người. Còn các thuộc viên như phủ, sử, tư, đồ rất nhiều. Người đời xưa không vì e lệ cùng dân tranh mối lợi mà không đặt ra chính lệnh thuế khóa cho kỹ càng.  

  Mối lợi thủy sản ở hai xứ Thuận Quảng rất nhiều, cứ theo như bản giấy kê khai của Cai- bạ, Cai-hợp về năm Giáp Ngọ (1774), các ngạch thuế đầu nguồn, đầm, đeo, sở, tuần, chợ, đò, đăng đánh cá và khâu đề (đáy) cộng sổ tiền đến 76.476 quan 2 mạch 40 đồng kẽm, tính ra vàng là 14 hốt, 8 lạng, 3 tiền, 1 phân, tính ra bạc là 145 hốt, 2 tiền, 2 phân, 10 ngà voi, 9 sừng tê giác, ngựa đực 2 con và sáp ong, dầu thơm, dầu thắp đèn, xong rồng (long đăng), xong sắt (thiết đăng), đuốc nhựa trám, đuốc mãn-dương, chiếu mây, mật ong, hải sâm, hải hàm v.v... các thứ hóa vật kể hàng trăm hàng ngàn, nhiều lắm. Trong các ngạch thuế kể trên, về thuế đò, thuế chợ tăng lên gấp quá nặng như mỡ lợn, giàu không, lấy thuế cả đến các vật vụn vặt, về nhà nuớc đuợc một phần mà kẻ trung lấy hai phần, dân tình ta thán là vì cớ ấy. Nếu nay nhân ngạch thuế ấy mà châm chước bớt đi, tha bỏ những thứ dân không thể đóng được, chỉ đánh thuế những sản vật thực có, đó là phép thông thường dản dị, khiến cho dân yên nghiệp mà nước vẫn thu được mối lợi. Lấy tiền thuế thổ sản ở hai xứ để cung cấp cho lương quan lại và lương binh lính hai xứ ấy thật là có thừa thải vậy. Xem như ngày xưa nuớc Tề là nước nhỏ, chỉ khéo cách xếp đặt, thu lợi sản vật ở núi và lợi muối, cá ở bể còn đủ làm giàu, huống chi nguồn lợi gấp mười nuớc Tề mà lại không giàu thịnh đuợc ư ?  

  Thuận Quảng hai xứ, tiền thuế "sơn", "trạch", 'quan", "thị" cộng 76.467 quan 2 mạch, 40 đồng kẽm, về tiền thuế ấy, Quảng-nam chiếm 6 phần, Thuận-hóa chỉ có 11.222 quan 2 mạch 54 đồng kẽm. Hỏi, mọi người nói : các thứ tạp thuế ở Quảng-nam do Trương-phúc-Loan mới tăng thêm.  

  Sự mở mang mỗi ngày mỗi tiến dần, cho nên núi sông, đất đai, người và vật sản  cùng của cải có nhiều nơi trước còn bỏ hoang, nay đã khai khẩn, nhiều thứ trước khan ít, nay thêm nhiều. Như xứ Thuận-hóa về thời Hồng-đức chỉ nộp thổ sản, xem tập "Thiên-nam du hạ" không thấy có lệ nộp thuế tô. Nay xét ở sổ cũ họ Nguyễn, ruộng đất công tư mỗi năm nộp thóc tô đến 3.533.356 cân. Xứ Quảng-nam từ thời Hồng Đức mới lấy 3 phủ Chiêm-thành, đến thời họ Nguyễn đánh lấy quá nửa đất Chiêm-thành và Chân-lạp, đem dân của hai nước ấy biên vào hộ tịch, đặt thêm 5 phủ, tô thuế rất nhiều.  

  Hai châu Sa-bôi và Thuận-bình đều là nơi dân Mán ở, chúng ở vào mạn thượng luu suối Cam-lộ huyện Đăng-xương và suối Sái huyện Hải-lăng.  

  Về đời Hồng-đức, lệ cống thổ sản đã có lệ. Đến thời họ Nguyễn đặt quan cai trị ở các mang thuộc về suối Sái. Có hai hạng thuế : thuế công đệ nộp nhà nước, thuế tư để làm ngụ lộc cho quan trông nom ở các mang ấy. Về châu Sa-bôi, hai mang Thác-bôn và Thượng-kế, họ Nguyễn sai một đội trưởng áp thu. Theo lệ, mỗi một mang nộp thuế công là : 1 con voi đực 5  thước 5 thốn, 2 bức màn vải, 13 thước vải trắng, 100 giỏ gạo nếp, mỗi giỏ 30 cân, 4 sừng con tê giác, 20 dao đánh lửa, 3 giỏ đá lửa. Thuế tư là : 1 bức màn vải, 15 thước vải trắng, 15 con dao đánh lửa, 1 giỏ con đá lửa, trưng mua gạo nếp 20 giỏ, mỗi giỏ 15 cân, phát tiền mỗi giỏ 3 mạch, trưng mua trâu 1 con, phát tiền 5 quan, mua sáp ong cân nặng bằng 5 quan tiền phát mỗi quan (nặng) tiền 5 mạch.  

  Về đạo Mang-vinh, do quan châu áp thu, về lệ thuế công : voi đực 1 con, cao 5 thước 5 tấc, vải trắng 40 tấm, chiêng đồng 1 chiếc, bề mặt 2 thước 2 tấc, nếu không có chiêng thì nộp tiền 10 quan, ngà voi một đôi, dao lửa 30 chiếc, đá lửa 20 giỏ, tê giác 3 cặp. Về lệ thuế tư : mua sáp ong cân nặng bằng 15 quan tiền, phát tiền mỗi quan 5 mạch, mua trâu 1 con, phát tiền 5 quan. Mang này khi đã nộp đủ thuế, thì đuợc thưởng 10 quan tiền, 1 tấm đoạn gấm hồng, thuế lụa 2 tấm, sa hoa liễu 1 tấm, tiền quản tượng (trông coi voi) 1 quan, lợn 1 con nộp bằng tiền 1 quan, nuớc mắm 5 chỉnh, rượu 3 chỉnh, muối 2 giỏ, gạo 2 bao.  

  Còn về mang Cù-bông thì do quan châu ở nơi ấy áp thu. Theo lệ, màn vải 8 bức (thuế công), tiền 50 quan, vải trắng 11 tấm (thuế tư). Về sách Làng-đe giao cho một người Cai-đội áp thu thuế ấy. Về thuế công cứ 3 năm phải nộp 1 con voi đực cao 5 thuớc 5 tấc. Về thuế tư, cứ 3 năm phải nộp 1 con trâu và sáp ong cân nặng bằng 10 quan tiền, phát mỗi quan là 5 mạch. Về sách Làng-tổng, do Cai-quan áp thu thuế ấy. Về thuế công 80 cuốn vỏ gai, 400 quả dưa thanh đông qua, chỉ phải nộp 100 quả, còn 300 quả nộp thay bằng tiền là 15 quan. Về thuế tư : 10 giỏ gạo nếp, mỗi giỏ 30 cân, lại mua gạo nếp 10 giỏ, mỗi giỏ 15 cân, phát tiền mỗi giỏ là 3 mạch. Về sách Làng-sen, do đội trưởng áp thu. Thuế công : thanh đông qua 400 quả, chỉ phải nộp 100 quả, còn 300 quả nộp bằng tiền là 15 quan. Thuế tư : 10 giỏ gạo nếp, mỗi giỏ 30 cân, 3 bát mật trắng, mua gạo nếp 20 giỏ, mỗi giỏ 15 cân, phát tiền mỗi giỏ 3 mạch, mua sáp ong cân bằng 5 quan tiền, phát mỗi quan là 5 mạch. Về sách dân chưa vào sổ ở Toái-Oi, do Côn-quan áp thu. Thuế công : 8 giỏ gạo trắng, mỗi giỏ 30 cân, 6 cuốn vỏ gai. Còn hai sách Làng-Tăn, Lá-Mít để làm ngụ lộc cho Cai-án, chỉ có tu thuế là : gạo nếp 7 giỏ 30 cân, lại mua gạo nếp 10 giỏ, mỗi giỏ 15 cân, phát tiền mỗi giỏ 3 mạch.  

  Làng Cam-lộ huyện Đằng-xương ở về thuợng lưu sông Điền-giang về mạn dưới thông với Cửa-Việt, mạn trên tiếp với các sách về suối Sái thuộc Ai-lao. Tất cả các đường của dân Mán đều đi ra lối ấy. Từ Lạc-hoàn, Vạn-tượng phủ Trấn-ninh châu Quy-hợp, các bộ lạc Ai-lao đều có đường đi thông ra nơi ấy. Từ làng ấy đi một ngày đến phường An-khang, có điếm tuần gọi là Ba-trăng, cũng còn gọi là đồn Hiếu-giang. Các người buôn bán lĩnh giấy thông hành để đi lên miền núi mua bán hóa vật. Tiền thuế nộp vào đồn ấy là 110 quan. Từ đồn ấy đi hai ngày rưỡi đường thì đến biên giới Ai-lao ở bên sông Cái. Họ Nguyễn có đặt 6 cái thuyền binh ở nơi ấy, gọi là dinh Ai-lao. Ở về bên hữu sông Cam-lộ có đồn Cây-lúa cũng theo như thể lệ ở đồn Hiếu-giang. Số thuế đồng niên là 8 quan. Ở nơi ấy người ta có thể đi thông sang Mang-vanh, Vạn-tượng. Ở về bên tả đồn sông Hiếu, nguời Mán ở rất đông, họ làm nghề cày cấy và chăn nuôi. Lái buôn các làng đem đến đất Mán các hàng hóa như muối, nuớc mắm, cá khô, đồ dùng bằng sắt, bằng đồng, đồ nữ trang bằng bạc, đổi lấy thóc gạo, gà vịt, trâu bò, vỏ cây gai, sáp ong, cây mây, cây dâu và vải màn v.v..., thuê voi chở về Cam-lộ. Cũng có khi nguời Mán đem đồ hàng đến Cam-lộ để bán. Mỗi một con voi chở được 30 gánh gạo, mỗi gánh 20 bát. mỗi một phiên chợ ở Cam-lộ, nguời Mán đem 300 con trâu đến bán, mỗi một con trâu giá tiền có 10 quan, mỗi con voi giá 2 hốt bạc. Nếu giảm nhẹ thuế đồn và không thu thuế đầu voi thì có thể có nhiều voi ở Ai-lao mang bán để cung cấp cho việc biên phòng và có thể mua được nhiều hàng hóa quý giá và sản vật về mục súc.  

  Họ Nguyễn trước vẫn sai nguời mang cho Lac-hoàn, Vạn-tượng mọi thứ quà. Chúng vui lòng giao dịch, nên thu được nhiều tiền thuế. Cựu Hộ-bộ Thục-thân-hầu Nguyễn-đức-Lưu kể truyện trước kia nuớc Vạn-tượng nộp lễ vật, voi đực, sáp ong, sừng con tê có vằn. Cái phá thêu đỏ (vải Lào) tùy ý họ đem biếu, không có số nhất định. Khi họ về, cho lại hai thanh gươm, 20 khẩu súng tay, gấm Tống-cẩm 2 tấm, gấm nhung 2 tấm, sô đỏ 5 tấm, sô trắng 5 tấm, tơ hồng phương 5 tấm, các thứ kể trên để cho tù trưởng, còn cho bộ sứ thì 5 tấm lụa thuế, 5 bao gạo, 10 quan tiền, 5 chỉnh mắm, 3 giỏ muối, 5 chỉnh rượu.  

  Điếm tuần Nguồn Sái ở sông Hiếu và ở An-khang có dân coi giữ gọi là thủ-lệ. Hai phường chánh và phụ ở Mai-hoa và hai phường Trung-an và Thạch-bãn phụng thờ miếu Đại-càn, có lính 12 suất, cứ theo như đơn tình nguyện, không nhất định lấy ở phường nào.  

  Theo như người lính cũ kê khai, lệ cũ như sau : những viên chức ở miền ấy và người buôn lên đầu nguồn buôn bán, nhân dân vào núi rừng tìm kiếm sản vật, khi trở về phải nộp thuế đồn và thuế thổ nghi, chia ra nhiều hạng, đem theo một con voi thì tiền thuế 2 quan, tiền công phác 1 quan, đem theo 1 người đầy tớ cũng thế. Một lạng vàng tiền thuế và tiền công phác đều 3 mạch, bạc 1 hốt, tiền thuế 8 mạch, tiền công phác 4 mạch, cổ tiền (tiền cũ) 1 quan, thuế 24 văn, công phác 12 văn, sáp ong, kén to, đồng nát nặng bằng một quan tiền, nồi đồng 1 chiếc, hoa bông 1 giỏ, thuế cũng như thế. Mỗi gánh vỏ cây để làm giấy, giàu cau, vỏ gai, hột gai, thóc, gạo, đậu, thuế và tiền công phác cũng đều như nhau.  

  Môt gánh mây (rotin) phải nộp thuế 3000 ngọn (pour une charge de rotin, 3000 brin de taxe), một con lợn, thuế 14 văn, tiền công phác 12 văn, một con trâu thuế 2 mạch, tiền công phác 1 mach, gỗ tạp, hương tạp 1 gánh tiền thuế và công phác đều 3 mạch, thuyền ván 1 phiến, tiền thuế và tiền công phác đều 30 văn. Một con voi hay 1 cái thuyền đi sang đò ngang chở mọi tạp vật, tiền thuế và tiền công phác đều là 3 mạch. Bông, kén, sáp ong chở lên mình voi đi bán, nếu nhiều thì phải chịu tiền thuế thổ nghi. Thuế thổ nghi thì mỗi con voi thuế 1 quan 4 mạch, lệ phí về miên tiền (frais de ligature)  2 mạch 24 văn.   

  Còn như làng Mai-đan làm hương, làng Phúc-giang, làng Viêm-giang làm ván thuyền, làng An-khang, làng An-cần làm đồ dùng bằng mây.  

  Các lệ ngạch trên thật là quá nặng. Khi trước cho lính cũ được theo lệ thu nộp. Nay cho phép thu xuống một nửa, cho yết thị và hiểu thị cho các tuần ty mỗi năm nộp thuế đuợc giảm xuống một phần ba. Dùng cách ấy là để cho buôn bán lưu thông, giá hàng hạ xuống. Về đồn Ngưu-cước cũng thi hành chính lệnh giảm thuế như vây.  

  Nguồn Tầm-ranh ở về bên hữu suối Sái thuộc huyện Hải-lăng. Cai quan ở nơi ấy coi việc thu thuế. Về thuế công nộp cổ tiền (tiền cũ) 64 quan 2 mạch, thiếu hay đủ không nhất định. Thuộc Hà-bá có 11 phường ở theo dọc bờ sông là : phường An-định, phường An-cự, phường An-cát, phường Mai-hoa, phường Chân-lọ, phường Cao bồi, phường Xuân-lâm, phường Tân-an, phường Ba-thung, phường Mỹ-nhạc, phường Tầm-ranh. Theo lệ, cứ nhu số đinh nguời hạng nhất nộp tiền 1 quan, hạng nhì nộp 5 mạch, hạng ba nộp 3 mạch, và hạng phụ thêm 3 mạch "cấp nhân tiền". Về khoản này giao cho Ký- thuộc và Cai-án đốc thu. Số dân ở đó là từ noi đồng bằng đến làm ăn sinh sống, tùy theo từng năm, không có số nhất định.  

  Thuế tư theo như nguồn Sái : mua gạo nếp 20 giỏ, mỗi giỏ nặng 30 cân, phát tiền 3 mạch 1 giạ, mua sáp ong nặng 5 quan, phát tiền 5 mạch một quan.  

  Nguồn Viên-kiều ở vào miền núi Trach-độ thuộc huyện Hải-lăng, do Cai-quan nơi ấy coi việc thu thuế. Thuế công 104 quan, 2 đôi chiếu mây, 1 giỏ tạp hương, 2 cây đuốc Mãn-dương, 60.000 lá nón. Khoản thuế tư để làm ngụ lộc cho quan coi ở Sái nguyên là 20.000 lá nón, 8 cuốn long đằng (rotin dragon), 8 cuốn thiết đằng (rotin-fer), 10.000 ngọn mây chu-biên 2 bó, thịt khô 1 giỏ, com khô 1 giỏ, tạp hương 1 giỏ, chiếu mây 1 đôi. Tuần (đồn) Viên-kiện ở xã Trương-thuộc, thuế đồng niên 98 quan 1 mạch, 35 đồng kẽm thì nộp riêng.  

  Các sách thuộc về 3 miền An-đại, An-kiều và Cẩm-lý đều ở vào miền núi huyện Khang-lập, ở đấy đều là dân Mán. Xét tờ loại khai của Cai-án ở 3 miền núi ấy kê thuế lệ năm Giáp-Ngọ cứ theo số đinh thu tiền, rất là nặng, không biết trước kia thế nào. Về miền An-đại cộng 11 đinh :  

 - Tra bố nghi ngu Phạm-Triển và vợ : tiền kỳ niên 15 quan, thuế 45 quan, cộng 60 quan.

  - Tổng ngu Phan-Đa và vợ con : tiền kỳ niên 17 quan, thuế 53 quan, cộng 70 quan

  - Thượng trường ngu Phan-Mạnh và vợ con : tiền kỳ niên 15 quan, thuế 37 quan, cộng 52 quan.

  - Bố nghi ngu Phan-Vụng và vợ : tiền kỳ niên 10 quan, thuế 35 quan, cộng 45 quan.

  -Thượng trường ngu Phan-Đinh : tiền kỳ niên 11 quan, thuế 34 quan, cộng 45 quan.

  - Phan-Tinh và vợ : tiền kỳ niên 8 quan, thuế 24 quan, cộng 32 quan.

  - Phan-Ý : tiền kỳ niên 8 quan, thuế 12 quan 3 mạch 30 văn, cộng 20 quan 3 mạch 30 văn.

  - Phan-Duệ : tiền kỳ niên 8 quan, thuế 14 quan, cộng 22 quan.

  - A ký Ngu : tiền kỳ niên 7 quan, thuế 13 quan, cộng 20 quan.

  - Phan-Đức : tiền kỳ niên 5 quan, thuế 10 quan, cộng 15 quan.

  Hợp cộng cổ tiền 434 quan 3 mạch 30 văn.  

  Về miền An-miễu và Cẩm-lý cũng theo thể lệ ấy. Tổng cộng các thứ tiền 994 quan 6 mạch 30 đồng kẽm. Trong sô ấy tiền thuế 612 quan, tiền lễ kỳ niên 280 quan, còn để làm lễ khai sơn (ngày bắt đầu vào núi tìm kiếm sản vật), lễ kỳ hoa (cầu cho hoa quả tốt), lễ khao xướng (ăn cỗ, ca hát), lễ kỳ niên (lễ cầu cho được mùa và bình yên) và lễ trình quan trưng thu thông hành, lệ phí gạo cánh trắng, lệ phí nhiêu phu, lệ phí hương vị.  

  Nguồn Sơn-bổ-trấn ở vào miền núi huyện Quảng-điền. Có 17 sách dân Mán là : Sách A-la, sách A-xuống, sách A-tác, sách Huyền-đô, sách A-điên, sách A-lỵ, sách A-lý, sách A-ly, sách Cẩn-tôm, sách Cầu-suốt, Sách A-hô, sách Cán-thâm, sách Trác-Việt, sách Cán-ty, sách Ba-măng, sách Tất-Y, sách Huyền-đô (?), chịu thuế cộng là 33 suất. Trước kia họ Nguyễn chỉ Lê-minh-Đức làm Cổn-quan coi sóc các sách dân Mán, lấy dân miền ấy làm lính đề đề phòng ác man (dân man hung ác) và trưng thu tiền thuế. Các dân ở miền dưới muốn lên miền trên tìm nghề sinh sống, phải đến trình đội trưởng lính giấy thông hành, đúng kỳ phải về trình giấy phép, không được sai kỳ hạn. Theo như giấy của Lê-minh-Đức đã kê : 5 sách    động Cây-tôm về Mán ở miền trên chịu thuế 6 suất, 5 sách ở A-la về Mán ở miền núi cao chịu thuế 5 suất. Các sách ở động Làng-cội và Mán ở miền chân núi chịu thuế 4 suất. Các sách ở động Làng-dài và Mán ở miền chân núi chịu thuế 5 suất. Mỗi suất chịu thuế thiết đằng (rotin-fer) 1000 ngọn, 20 suất chịu thuế 20.000 ngọn. Mỗi một năm Côn-quan đem gạo muối phát cho các sách đổi lấy thổ sản và bán mây thuế được tiền 230 quan. Trong số tiền ấy trừ các khoản chi về mua trâu lợn, cau, rượu và lễ vật đón khách, tiễn khách cùng đãi cỗ dân Mán cộng 65 quan, lại cho người thông ngôn các sách lương 4 tháng là 24 quan, chỉ còn lại tiền 141 quan để nộp, cũng có năm còn lại 170 quan, số tiền ấy không nhất định.  

  Làng Hiền-sĩ ở về hạ lưu có sở tuần (đồn) theo lệ, thuế 160 quan, tiền ngoại phụ về dầu đèn 40 quan. Người buôn lên miền trên phải nộp 30 đồng kẽm, khi ở trên nguồn xuống phải nộp 2 bó sản vật ở trong thuyền mà mình đã chở. Về gỗ kiền kiền, cứ 10 phiến phải nộp 7 mạch, về gỗ tạp, cứ 10 phiến phải nộp 2 mạch. Trên núi có lò chiêu đúc luỡi liềm, người buôn liềm hạng nhớn cứ 100 cái phải nộp 6 mạch. Về thuế than gỗ, mỗi thuyền nộp 200 cân hay là 7 mạch.  

  Nguồn Tả-trạch ở về miền núi huyện Hương-trà, mỗi suất đinh nộp thuế thiết đằng 1.000 ngọn, trừ cho khoản tiền chi vào lễ khai sơn là 10 quan. Đến năm Kỷ-Sửu, họ Nguyễn sai Cai-đội Chu-đức-hầu thu thuế mây và song, được tiền là 47 quan 3 mạch 47 văn.  

  Nguồn Hữu-trạch cũng ở vào miền núi huyện Hương-trà, năm Kỷ-Sửu thu tiền thuế 4181 mạch 11 đồng kẽm. Lại có 2 sách A-la, A-nhuyễn ở về phía ngoài nguồn Hữu-trạch, nộp thuế 20 quan.  

  Nguồn Hưng-bình ở vào miền núi huyện Phú-vinh, có 3 sách dân núi ở, sách Cao-đội 34 người, sách Tân-an 12 người, sách Phụ 10 người, sách My-gia 57 người. Trong số ấy chia làm ba hạng, hạng nhất mỗi người 1 quan, hạng nhì 7 mạch, hạng ba 5 mạch, Còn hạng cùng túng và hạng miễn sai không phải nộp thuế.  

  Ngoài 3 sách ấy lại có mán gọi là Mọi. Theo giấy kê của Cai-đội coi nơi ấy là Chua-đức-hầu đã khai về năm Kỷ-Sửu :  

  10 nguời về ngạch tráng hạng, mỗi người nộp thuế thổ nghi 2.000 ngọn thiết đằng, 400 ngọn bạch đằng, nộp lê sai dư 2.000 ngọn thiết đằng, 500 ngọn bạch đằng, nộp thuế tiết liệu 7 thang gạo, để thay bạch đằng 1,400 ngọn.  

  11 người về ngạch quân hạng, mỗi người nộp thuế thổ nghi 2.000 ngọn thiết đằng và 400 ngọn bạch đằng, nộp lệ sai dư 1.500 ngọn thiết đằng, nộp lệ tiết liệu 5 thưng gạo để thay 1.200 ngọn thiết đằng và bạch đằng, nộp lệ sưu 500 ngọn bạch đằng.  

  4 người về ngạch dân hạng nộp thuế thổ nghi 2.000 ngọn thiết đằng và 500 ngọn bạch đằng, nộp sai dư 1.000 ngọn thiết đằng, nộp lệ tiết liệu bằng gạo để thay 800 ngọn thiết đằng và bạch đằng và nộp lệ sưu 500 ngọn bạch đằng.  

  2 người về ngạch dân mới đến, mỗi người nộp thuế thổ nghi 2.000 ngọn thiết đằng, 400 ngọn bạch đằng, nộp lệ sai dư 1.000 ngọn thiết đằng, nộp lê tiết liệu bằng gạo để thay 100 ngọn bạch đằng, nộp lệ sưu 500 ngọn thiết đằng và bạch đằng.  

  3 người về hạng lão nhiêu mỗi người nộp một nửa phần về hạng thuế trên. Hạng tàn tật không phải chịu thuế.  

  Số thiết đằng mỗi 1.000 ngọn giá là 4 mạch, cũng có thứ giá 6 mạch, số bạch đằng có thứ giá 4 mạch, có thứ giá 5 mạch, có thứ giá 3 mạch. Thu được cộng 156.900 ngọn thiết đằng và bạch đằng  để phát mại, cộng được tiền là 73 quan 57 đồng kẽm. Trừ các lễ khai sơn, kỳ hoa, tạ trường cộng tiền 16 quan 5 mạch, lệ gạo bạch cánh, tiền dầu đèn 7 mạch 42 đồng kẽm, chỉ còn tiền thuế đem nộp là 52 quan 8 mạch 12 đồng kẽm.  

  Ba miền về huyện Khang-lộc, để làm ngụ lộc cho trấn thủ Quảng-bình là Nguyễn-phúc- Lý, phải nộp thuế 600 quan.  

  Nguồn An-đại nộp thuế 189 quan 3 mạch và 7 khối sáp ong, mỗi khối nặng 3 quan, thành tiền 21 quan, 41 chỉnh mật ong, giá mỗi chỉnh 2 mạch, cộng tiền 8 quan 2 mạch, lệ phí về khoản hương vị là 3 quan, 87 chỉnh khô lô giá mỗi chỉnh 1 mạch, cộng 8 quan 7 mạch, tất cả cộng tiền 230 quan 2 mạch.  

  Nguồn An-nẻo nộp thuế 235 quan 9 mạch, thuế họa ngu 86 quan 3 mạch, sáp ong 3 khối, mỗi khối 3 quan, cộng 9 quan, khoản tiền hương vị 31 quan, khô lô 50 chỉnh, mỗi chỉnh giá 1 mạch, cộng là 5 quan, tất cả tỗng cộng là 280 quan 9 mạch.  

  Nguồn Cẩm-lý nộp thuế 64 quan, một khối sáp ong nặng 3 quan, 3 chỉnh mật ong, giá mỗi chỉnh 2 mạch, cộng là 6 mạch, khô lô 13 chỉnh, mỗi cỉinh 1 mạch, cộng 1 quan 3 mạch, tổng cộng các khoản 68 quan 9 mạch.  

  Các trang dân Siamois nộp thuế 20 quan. Năm Mậu-Tý, Cai đồn Hòa-chiêu-hầu nộp 20 quan tiền thuế về đạo Ý-ta.  

  Các sách ở miền núi thuộc về châu Nam-bố-chính do quan trấn thủ trông nom việc thu thuế. Mỗi năm phải nộp thuế 60 quan (kể cả lệ phí về hương vị).  

  Nguồn Câu-đe ở phủ Thăng-hoa về xứ Quảng-nam, mỗi năm nộp thuế 300 quan và 2 chỉnh dầu.  

  Nguồn Lỗ-động mỗi năm nộp thuế vàng 7 hốt và 188 quan về thuế thổ nghi.  

  Các sách O-gia và Ý-xanh, mỗi năm nộp sáp ong 60 bát, mỗi bát nặng 3 mạch 30 đồng kẽm. Nguồn O-gia nộp thuế mỗi năm 550 quan, 20 cuốn long đằng (rotin-dragon), 3.500 ngọn thiết đằng, 3.900 chiếc đuốc cam lãm (torche de résine) 73 chỉnh dầu thơm.  

  Nguồn Thu-bồn mỗi năm nộp thuế 3 hốt 8 lạng 3 tiền 1 phân vàng, tiền thuế và tiền phù lưu 712 quan, sáp ong nặng bằng 40 quan, 30 chinh dầu giá 3 mạch một chỉnh, 120 cuốn long đằng, mỗi cuốn giá 1 mạch, 2 đôi chiếu mây, mỗi đôi giá 1 quan, 2.800 chiếc đuốc cam lãm, mỗi chiếc giá 9 đồng kẽm, 2 đèn mãn đường đăng, mỗi chiếc giá 5 mạch.  

  Nguồn Chiêu-đan mỗi năm nộp thuế 2.060 quan, cấp ngụ lộc cho quan Nội-hữu, quan ấy phải nộp giáp ngân 20 lạng 6 hốt.  

  Về phủ Quảng-nghĩa, nguồn Ba-địa mỗi năm nộp thuế 610 quan, nguồn Ba-tu mỗi năm nộp thuế 1.292 quan 4 mạch 3 kẽm và 91 quan về lệ thuế thổ nghi, nguồn Cù-ba Cây-mít mỗi năm nộp thuế bạc 18 hốt, tiền 3.000 quan và 2 đôi chiếu mây, 2 giỏ hương vị, nguồn Đa-bông mỗi năm nộp thuế 1.850 quan và 60 quan về thuế thổ nghi.  

  Về phủ Quy-nhân, nguồn Hà-mao mỗi năm nộp thuế 166 quan 5 mạch và 27 quan 5 mạch thuế thổ nghi, 3 chỉnh mật trắng, 4 cuốn chiếu mây nhỏ, 99 cân hoa bông, 3 bao kỳ hoa nặng bằng 105 quan, 52 giỏ quả trám, 60 sợi long đằng, 2 chinh dầu thơm, 3.325 chiếc đuốc to, 600 chiếc đuốc nhỏ, 70 bát sáp ong.  

  Nguồn Trà-định và Trà-vân mỗi năm nộp thuế 255 quan, trước vẫn cấp ngụ lộc cho Ngoại tả Trương-phúc-Loan phải nộp giáp ngân 3 hốt. Nguồn Trà-vân nộp 590 ngọn đuốc cảm lãm chứa để ở kho hậu du.  

  Nguồn Ô-kiêm mỗi năm nộp 749 quan 5 mạch, cấp cho Nội tả Chương-Noãn, Noãn phải nộp giáp ngân 5 hốt.  

  Nguồn Kiều-bông mỗi năm phải nộp thuế 1.500 quan, cấp cho Nội hữu Chuởng-Khoan, Khoan phải nộp giáp ngân 11 hốt 2 lạng 5 tiền.  

  Nguồn Đá-bàn mỗi năm nộp thuế 1.000 quan cấp cho Chưởng cơ Trương-lộc-hầu ở đảo Lưu-đồn, y phải nộp 8 lạng giáp ngân và 50 quan 3 mạch lệ thổ nghi.  

  Về phủ Phủ Phú-an, nguồn Hà-di mỗi năm nộp thuế 1.836 quan 23 kẽm, 30 cân sáp ong, 30 chinh mật trằng (mỗi chinh 2 nồi ruỡi) 4 cái ngà voi, mỗi ngà voi nộp thay 2 bát sáp ong, 7 sừng tê giác, mỗi sừng nộp thay 4 bát rưỡi sáp ong.  

  Nguồn Nam-ban mỗi năm nộp thuế 100 quan. Nguồn Đá-bạc mỗi năm nộp thuế 1.300 quan, sáp ong 200 cân, mật trắng 200 chĩnh.  

  Có 9 sách dân Mán nộp lễ quy thuận và nộp thuế là bông, gạo, sáp ong, mật trắng, chăn đệm đều nộp thay bằng tiền 20 quan 4 mạch 36 kẽm và 1 lượng mật trắng, trước vẫn cấp cho Ngoại hữu Chưởng Hoán, y phải nộp giáp ngân 8 lượng 7 tiền 7 phân.  

  Nguồn Bình-gạo mỗi năm tiền thuế và tiền trầu cau là 567 quan 2 mạch 6 kẽm, 2 sừng tê giác, 30 chinh mật trắng, 30 cân sáp ong, 2 ngà voi.  

  Về phủ Bình-khang :

Có 2 nguồn nhỏ Đồng-hương và Đồng-nai mỗi năm nộp 2.229 quan 3 mạch 20 kẽm, 727 bát sáp ong, 51 thùng mật trắng và lễ tiết liệu 73 bát sáp ong, 4 sừng voi, truớc vẫn cấp ngụ lộc cho Ngoại tả Trương-phúc-Loan, y phải nộp giáp ngân 22 hốt 7 lạng 9 tiền 5 phân.  

  Về phủ Diên-khánh :

Nguồn Nha-trang mỗi năm nộp thuế 10.000 quan.  

  Về phủ Gia-định :

Nguồn Bạc-bình mỗi năm nộp thuế 430 quan. Nguồn Thủy-bột 360 quan.  

  Về xứ Thuận-hóa, huyện Quảng-điền, có đầm An-xuân mỗi năm nộp thuế giáp ngân 8 hốt. Đầm Vịnh-xung mỗi năm nộp thuế 66 quan 6 mạch 40 kẽm. Đầm Vịnh-si mỗi năm nộp thuế 40 quan.  

  Về huyện Phú-vang :

Đầm Thanh-lam 2 kỳ bắt cá và 5 cái đăng đánh cá mỗi năm nộp thuế 70 quan.

Đầm Mậu-lâm mỗi năm nộp thuế 175 quan.

Đầm La-hồng mỗi năm nộp thuế 170 quan.

Đầm Tô-đa mỗi năm nộp thuế 105 quan.

Đầm Đả-đá mỗi năm nộp thuế 620 quan.

Đầm Ô-tề (vịnh chính) từ Hòa-đa đến Bò-liếm mỗi năm nộp thuế 30 quan.  

 

  Về huyện Đăng-xuong :

Đầm Thái-lai mỗi năm nộp thuế 38 quan, đầm Hà-bá mỗi năm nộp thuế 30 quan.

 

  Về huyện Hải-lăng :

Đầm Giáo-liêm (vịnh thuộc) mỗi năm nộp thuế  40 quan.

 

  Về huyện Minh-linh :

Đầm Diêm-hà mỗi năm nộp thuế 28 quan 6 mạch 40 đồng kẽm.

Đầm Tử-lai mỗi năm nộp thuế 14 quan 6 mạch 40 đồng kẽm.

Đầm Duy-phiên mỗi năm nộp thuế 14 quan.

Đầm Hàm-nhuợc mỗi năm nộp thuế 26 quan.

 

  Xứ Quảng-nam, về phủ Thăng-hoa :

Đầm Nhu-quế mỗi năm nộp thuế 40 quan 3 mạch.

Đầm Chiên-đan mỗi năm nộp thuế 67 quan 5 mạch.

 

  Về phủ Điện-bàn :

 Đầm Tiên-dựng và đầm Khúc-vi mỗi năm nộp thuế 22 quan.

 

  Về phủ Quảng-nghĩa :

Đầm Đồng-lãng (vịnh thuộc) mỗi năm nộp thuế 26 quan.

Đầm Cẩm-khê mỗi năm nộp thuế 92 quan 8 mạch.

Đầm Cây-quít mỗi năm nộp thuế 18 quan 4 mạch.

Đầm La-hồng mỗi năm nộp thuế 17 quan 1 mạch. 

Đầm Hải-khang mỗi năm nộp thuế 110 quan.

Đầm Nga-sơn mỗi năm nộp thuế 30 quan.

 

Về phủ Quy-nhân :

Đầm Nha-phiên, đầm Đông-hải và các phường, các vịnh mỗi năm nộp thuế 1.550 quan. Đầm Đông-hải mỗi năm nộp  thuế 1.866 quan.

Đầm Trà-ổ mỗi năm nộp thuế 290 quan 7 mạch.

Đầm Đạm-thủy mỗi năm nộp thuế 100 quan.

Đầm Vịnh-sô 38 quan 5 mạch. Đầm Cù-lao Xanh mỗi năm nộp thuế 18 quan.

 

  Về phủ Phú-an :

Đầm Quỳnh-bà mỗi năm nộp thuế 115 quan 6 mạch,

Đầm và cửa Cù-mông mỗi năm nộp thuế 101 quan 3 mạch.

Đầm Vịnh-cuời mỗi năm nộp thuế 33 quan 5 mạch.

Đầm Ô-luân mỗi năm nộp thuế 165 quan.

 

  Về phủ Bình-khang :

Đầm Ô-rô mỗi năm nộp thuế 125 quan.

Đầm Ngói-đỏ và đầm Bãi-dùi mỗi năm nộp thuế 75 quan.

Đầm Bà-da mỗi năm nộp thuế 52 quan 2 mạch. Đầm Tắc-cu, đầm Cửa-ngu mỗi năm nộp thuế giáp ngân 9 hột và tiền lệ trầu cau 100 quan.

Đầm Nha-tù mỗi năm nộp thuế 93 quan.

 

  Về phủ Diên-khánh :

Đầm Cam-lanh mỗi năm nộp thuế 155 quan 6 mạch.

Đầm Mộ-ổ mỗi năm nộp thuế 89 quan 2 mạch.

Đầm Cát-thẩm mỗi năm nộp thuế 192 quan.

Đầm và vịnh ngoài Cam-lanh mỗi năm nộp thuế 100 quan 4 mạch và 4 hốt vàng.

Vịnh Cam-lanh và vịnh Chính-phủ mỗi năm nộp thuế 130 quan 2 mạch.

Đầm Nha-trang mỗi năm nộp thuế 182 quan.

Đầm Đồi-mồi mỗi năm nộp thuế 19 hốt bạc và 150 quan.

Đầm Cù-lao Ngói mỗi năm nộp thuế 350 quan.

Đầm Vịnh-găng mỗi năm nộp thuế 400 quan và 8 hốt vàng.

 

  Về phủ Bình-thuận :

Đầm Vi-nai mỗi năm nộp thuế 176 quan 6 mạch.

Đầm Ngói-chồng và Vịnh-găng mỗi năm nộp thuế 1.000 quan.

 

  Về phủ Gia-định :

Đầm Cù-luy mỗi năm nộp thuế 50 quan.

Lạch-tra, lạch Kiến, lạch Lam mỗi năm nộp thuế 76 quan.

 

  Về phủ Thuận-hóa, huyện Hương-trà :

Tuần (nơi canh coi) Tam-kỳ mỗi năm nộp thuế 136 quan 6 mạch.

Tuần Cửa-eo mỗi năm nộp thuế 25 quan.

Đò trên và bên duới ở Phú-xuân mỗi năm nộp thuế 684 quan.

Bến canh thành Trường-tiền mỗi năm nộp thuế 285 quan.

Bến Vỹ dạ mỗi năm nộp thuế 114 quan.

Bến chợ dinh Xuân-dương mỗi năm nộp thuế 258 quan.

Đuờng giao thông khứ hồi từ chợ dinh Xuân-dương cho đến dinh Cũ, Chợ-sái, Cam-lộ, Phổ-lại mỗi năm nộp thuế 64 quan 6 mạch.

Đò Phú-xuân đi sang Tu-khách mỗi năm nộp thuế 410 quan. Chợ Phú-xuân 30 quan.

 

  Về huyện Quảng-điền : 

Sở tuần Hiền-sĩ và hai bến đo ngang nộp thuế mỗi năm 71 quan 5 mạch.

 

  Về huyện Phú-vang :

Tuần ty ở cửa Hu mỗi năm nộp thuế 30 quan.

Tuần ty Ải-vân mỗi năm nộp thuế 30 quan.

Ty kiểm soát ở bến Ải-vân mỗi năm nộp thuế 285 quan.

 

  Về huyện Đăng-xương :

Tuần ty Lâm-lang mỗi năm nộp thuế 35 quan 8 mạch.

Tuần Ngưu-cước mỗi năm nộp thuế 121 quan.

Tuần ty An-khang mỗi năm nộp thuế 110 quan.

 

  Về huyện Hải-lăng :

Tuần ty nguồn Lòng ở làng Trường-phúc thuế 29 quan.

Tuần ty Viên-kiều thuế 98 quan 2 mạch.

 

  Về huyện Minh-linh :

Tuần ty nguồn Dù ở làng Tân-an thuế 39 quan 3 mạch.

Tuần ty Cổ-lâm thuế 40 quan 3 mạch. Tuần ty Chợ Dinh, đò Hồ-xá thuế 32 quan.

 

  Về xứ Quảng-nam, phủ Thăng-hoa :

Tuần ty và đò Cân-đe thuế 280 quan.

Đò Thanh-hà thuế 199 quan 5 mạch.

Đò Trà-lý tây thuế 39 quan 5 mạch.

Tuần ty Tiểu-áp-tòa thuế 600 quan.

Đò Tam-kỳ thuế 35 quan 1 mạch.

Tuần ty cửa Đại-Chiêm  mỗi năm nộp thuế 75 quan.

Tuần ty (trông coi) tuần sát (xem xét) tuần bị (canh gác) và cửa Đa-nẵng mỗi năm thuế 64 quan.

Tuần ty Ô-da thuế 275 quan.

Tuần ty Thu-bồn thuế 516 quan 6 mạch.

Đò Thanh-chiêm thuế 244 quan 5 mạch.

Đò Phụ-luy và đò ngang Thạch-nhất thuế 200 quan.

Tuần ty ở lạch nhỏ Hoa-nông thuế 150 quan.

Tuần ty Đại-áp-tòa thuế 64 quạn 5 mạch.

Đo ở chợ Hải-châu mỗi năm thuế 73 quan.

Đo Dưỡng-mông-hạ mỗi năm thuế 59 quan.

Chợ Hội-an thuế 49 quan. chợ Kháng-thọ thuế 48 quan.

Chợ Chiên-đàn thuế 48 quan.

Chợ Phú-Điềm thuế 255 quan.

Chợ Tân-an thuế 70 quan.

Thuế khẩu đáy 318 quan.

 

  Về phủ Điện-bàn :

Đò Hòa-khuê thuế 52 quan 6 mạch.

Đò Cẩm-lệ thuế 318 quan 2 mạch. Đò Cẩm-phổ thuế 32 quan 8 mạch.

Đò Lỗ-giản thuế 55 quan 3 mạch.

Đò Hương-lam, Thủy-bào, Bàng-trạch thuế 36 quan 5 mạch.

Đò Nhánh ở Hóa-khuê-đông thuế 29 quan 8 mạch.

Chợ Thẩm-linh thuế 70 quan.

 

  Về phủ Quảng-nghĩa :

Đò Hỷ-đề và Nghĩa-an thuế 40 quan 6 mạch.

Đò Toàn-an thuế 43 quan 4 mạch.

Tuần ty ở cửa Lòng-khước thuế 37 quan 5 mạch.

Đèo Cẩm-khê và chợ Mộ-lỗ thuế 276 quan 3 mạch.

Tuần ty cửa Sa-kỳ thuế 516 quan 3 mạch.

Tuần ty cửa Đại-chiêm-lũy thuế 150 quan.

0