18/06/2018, 15:59

Quốc gia dân tộc

Lê Văn Tâm Giới thiệu Một quốc gia dân tộc (tiếng Anh: Nation-state hay Country) là một quốc gia tồn tại để đại diện chủ quyền cho một dân tộc. Quốc gia dân tộc không chỉ là một thực thể chính trị và địa lý; nó còn là một thực thể về văn hóa và dân tộc; bản thân thuật ngữ ...

0730-ORESOURCES-Mongolia-MINERALS_full_600

Lê Văn Tâm

Giới thiệu

Một quốc gia dân tộc (tiếng Anh: Nation-state hay Country) là một quốc gia tồn tại để
đại diện chủ quyền cho một dân tộc. Quốc gia dân tộc không chỉ là một thực thể chính
trị và địa lý; nó còn là một thực thể về văn hóa và dân tộc; bản thân thuật ngữ quốc gia
dân tộc đã hàm ý hai yêu tố này phải đồng thời có mặt cùng với nhau và chính điều đó
làm nên điểm khác biệt rõ rệt giữa một quốc gia dân tộc với những quốc gia tiền dân
tộc và phi dân tộc trước nó. Và , tất cả những công dân trong một quốc gia dân tộc đúng
nghĩa phải có chung ngôn ngữ, văn hóa và nhiều giá trị khác, trên thực tế là điều này khó
xảy ra do nhiều biến động của lịch sử. Một thế giới của các quốc gia dân tộc cũng có
nghĩa là trong đó, mỗi dân tộc đều có quyền tự quyết và quyền tự trị, hai điều đó chính
hạt nhân cơ bản của hệ tư tưởng của chủ nghĩa dân tộc.

Trong tiếng Anh, do sự mơ hồ của thuật ngữ state (nó vừa có nghĩa là một quốc gia,
vừa có nghĩa là một tiểu bang của Hoa Kỳ), thuật ngữ “quốc gia dân tộc” – nation-state
thường được dùng để chỉ bất kỳ quốc gia có chủ quyền nào, bất chấp việc đường biên
giới của nó có trùng khớp với đường biên giới về dân tộc và văn hóa hay không. Việc
gọi tên này có mục đích phân biệt giữa một quốc gia độc lập có chủ quyền với một thực
thể là thành viên của một quốc gia liên bang (ví dụ một tiểu bang của Hoa Kỳ hay một
nước Cộng hòa nằm trong Liên bang Nga).

Các quốc gia dân tộc điển hình

Trong một số trường hợp, biên giới của các quốc gia dân tộc gần như trùng khớp với
đường “biên giới” về mặt chủng tộc và chính trị. Cụ thể là trong các trường hợp này, sự
di cư và nhập cư hiếm xảy ra, vì vậy số lượng người dân không sống ở quốc gia dân tộc
“gốc” của mình khá ít.

Một số ví dụ về các quốc gia dân tộc hiện nay:

Iceland: mặc dù những người dân sống trên Iceland có nguồn gốc từ vùng Scandinavia,
nền văn hóa và ngôn ngữ tại đảo này mang tính chất rất riêng biệt. Ở đây không có các
vùng giao thoa về văn hóa/dân tộc hay ngôn ngữ, do Iceland cách quá xa các châu lục
khác.

Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên: Ở Hàn Quốc có vài nhóm nhỏ Hoa kiều, còn ở
CHDCND Triều Tiên gần như không có nhóm dân tộc thiểu số nào.

Nhật Bản: Nhật Bản là một ví dụ kinh điển về một quốc gia dân tộc và được xem là
quốc gia dân tộc lớn nhất với dân số người Nhật Bản thuần gốc là 120 triệu người. Tuy
nhiên trong lãnh thổ Nhật vẫn tồn tại vài nhóm dân tộc thiểu số đáng kể: người Hán,
người Triều Tiên, người đảo Lưu Cầu và người Ainu ở đảo Hokkaidō. Mặc dù vậy, do
số lượng quá ít ỏi trước dân tộc “đa số” (người Ainu) hoặc/và sự khác biệt với dân tộc
“đa số” là không đáng kể (sự khác biệt giữa người Lưu Cầu và người Nhật Bản gốc ít rõ
rệt, tựa như trường hợp người Đức và người vùng Flanders), hoặc là bị đồng hóa (người
Tại Nhật). Xem thêm Nhân khẩu Nhật Bản và Các nhóm sắc tộc ở Nhật Bản.

Bồ Đào Nha: mặc dù bao quanh nó là lãnh thổ của Tây Ban Nha và ít có một sự cách ly
địa lý nào rõ rệt, lãnh thổ mà dân tộc Bồ Đào Nha kiểm soát gần như không đổi trong
suốt 9 thế kỷ. Dân tộc Bồ Đào Nha hiện nay có thể coi là một sự “hỗn hợp” của nhiều
dân tộc thời cổ: người bản địa Iberia cổ, người Celt cổ, người Hy Lạp, người Phoenicia,
người La Mã, các bộ tộc người German như người Suebi và Tây Goth, người Ả Rập và
Berber xâm nhập, và người Do Thái.

Một vài quốc gia thuộc quần đảo Polynesia như Tonga, Tuvalu,…

Ba Lan sau Thế chiến II (Xem thêm Cuộc trục xuất người Đức sau Thế chiến II).
Khái niệm về một quốc gia dân tộc thống nhất cũng mở rộng cho một số quốc gia đa
dân tộc, đa ngôn ngữ. Ví dụ như Ấn Độ sau khi giành được độc lập năm 1947. Một ví
dụ khác, Thụy Sĩ thực chất là một liên bang giữa các châu và có 4 ngôn ngữ chính thức,
nó cũng có đặc trưng dân tộc “Thuỵ Sĩ”, một lịch sử riêng của dân tộc, và một anh hùng
dân tộc, Wilhelm Tell.

Việc các đường biên giới về chính trị không trùng khớp với các đường biên giới về sắc
tộc và văn hóa là nguyên nhân của vô số cuộc xung đột trong lịch sử. Ví dụ, tỉnh Hatay
của Syria đã được chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ sau khi đa phần dân cư ở đây – những người
gốc Thổ – lên án về sự ngược đãi của người Syria. Một ví dụ khác là về vấn đề người
Kurd: lãnh thổ quê hương họ nằm trên ba quốc gia: Iran, Iraq và Thổ Nhĩ Kỳ. Và tất
nhiên, đã có rất nhiều phong trào của người Kurd nổ ra để chống lại sự ngược đãi của
chính quyền Iraq và Thổ, thậm chí tiến xa hơn là thành lập một quốc gia Kurd độc lập.
Một trong số đó là cuộc đấu tranh giành độc lập bằng quân sự lẫn chính trị, ngoại giao
của Đảng Công nhân người Kurd đối với với chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ, kéo dài từ năm
1984 tới nay.

Bỉ là một ví dụ cổ điển về một “quốc gia dân tộc” không rõ ràng. Nó được thành lập dựa
trên sự li khai của các tỉnh phía Nam của Vương quốc Liên hiệp Hà Lan vào năm 1830
và được bảo đảm độc lập, chủ quyền thông qua Hiệp ước Luân Đôn 1839. Tuy nhiên,

phía Bắc và Đông Bắc của Bỉ, cụ thể là vùng Flander cư dân sử dụng tiếng Đức và ở đây
có phong trào li khai Vlaams Belang phát triển rất mạnh. Còn người dân vùng Wallonia
ở phía Nam dùng tiếng Pháp, đúng hơn đây là khu vực có đặc trưng riêng biệt về ngôn
ngữ và theo chủ nghĩa địa phương. Ngoài các phong trào ly khai, ở Bỉ cũng có những
nhóm người Bỉ theo chủ nghĩa dân tộc, chủ trương giữ vững sự thống nhất và cũng có
những nhóm theo thuyết Đại Hà Lan. Trong lãnh thổ Bỉ cũng có một cộng động người
Bỉ nói tiếng Đức sống trong một vùng lãnh thổ sát nhập từ Phổ năm 1920, vùng này bị
nước Đức phát xít thu hồi trong giai đoạn 1940-44.

Quốc gia Đan Mạch hầu như chỉ bao gồm dân tộc Đan Mạch, số dân của các cộng đồng
sắc tộc thiểu số chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Tuy nhiên nó lại thực thi chủ quyền ở Đảo Faroe và
Greenland.

Mặc dù Trung Quốc có tới hơn 55 dân tộc thiểu số và công nhận dân tộc Hán là dân tộc
“đa số”, khái niệm “Dân tộc Trung Quốc” cũng được dùng khá rộng rãi.
Dân tộc thiểu số và lãnh thổ phụ thuộc

Một nhóm dân tộc sống chung với dân tộc “chính” trong một quốc gia dận tộc được gọi
là dân tộc thiểu số. Một số quốc gia dân tộc có dân tộc thiểu số của các quốc gia xung
quanh mình và ngược lại, ví dụ trong lãnh thổ Hungary có một số nhóm dân cư người
Slovakia và trong lãnh thổ Slovakia có một số nhóm dân cư người Magyar (đồng tộc với
người Hungary).

Dân tộc thiểu số không nên bị nhầm lẫn với các dân tộc tha hương, thường xuất hiện ở
những khu vực xa với biên giới của các quốc gia. Các dân tộc tha hương ngày nay có
nguồn gốc từ việc di cư và nhập cư, ví dụ các dân tộc tha hương người Ái Nhĩ Lan.
Việc nắm quyền kiểm soát các lãnh thổ phụ thuộc có ảnh hưởng đến tình trạng và địa vị
của một quốc gia dân tộc. Một quốc gia có các thuộc địa rộng lớn và có nhiều sắc dân
sinh sống trên các thuộc địa đó thì không thể nào là một quốc gia chỉ gồm một dân tộc.
Tuy nhiên, trong phần lớn các trường hợp thì các thuộc địa và lãnh thổ lệ thuộc không
được xem như là một phần của mẫu quốc. Một số quốc gia châu Âu như Đan Mạch có
một số lãnh thổ phụ thuộc nằm tại Châu Âu.

Nguồn gốc và lịch sử

Nguồn gốc và lịch sử thời kỳ đầu của quốc gia dân tộc vẫn còn là một điều gây tranh
cãi. Vấn đề chính ở đây là: quốc gia có trước hay dân tộc có trước ? Đối với những
người theo chủ nghĩa dân tộc, tất nhiên câu trả lời chính là dân tộc có trước, và những
phong trào theo chủ nghĩa dân tộc luôn đề cao yêu cầu về chủ quyền hợp pháp của dân
tộc mình; rõ ràng một quốc gia dân tộc là cái mà họ đòi hỏi. Một số “học thuyết hiện
đại” của chủ nghĩa dân tộc cho rằng tính dân tộc đa phần là sản phẩm của chính sách

của Nhà nước: đồng nhất và hiện đại hóa một quốc gia đã tồn tại trước đó. Và phần lớn
học thuyết cho rằng quốc gia dân tộc là một hiện tượng của châu Âu thế kỷ XIX, được
thúc đẩy bởi việc xóa mù chữ, phổ cập giáo dục và truyền thông đại chúng. Tuy nhiên
các nhà sử học cũng chú ý tới việc hình thành và nổi lên vào thời gian trước đó của một
số quốc gia tương đối thống nhất về lãnh thổ, hành chính và tương đối đồng nhất về dân
tộc và văn hóa, ví dụ Bồ Đào Nha và Hà Lan.

Trong trường hợp của Pháp, theo Eric Hobsbawn, quốc gia Pháp ra đời trước dân tộc
Pháp. Hobsbawn cho rằng quốc gia Pháp hình thành nên dân tộc Pháp (chứ không phải
chủ nghĩa dân tộc Pháp nở rộ vào cuối thế kỷ XIX vào thời của vụ án Dreyfus). Cụ thể
là vào thời điểm Cách mạng tư sản Pháp năm 1789, chỉ có 1/2 sô dân Pháp tạm xem là
biết nói “tiếng Pháp”, và chỉ có 12-13% nói được lưu loát (theo Hobsbawm) (chú ý là
trong thời kỳ diễn ra Sự thống nhất nước Ý (1859-1870) thì tỉ lệ người biết nói “tiếng
Ý” còn tệ hơn). Nhưng sau đó, nước Pháp bắt xúc tiến sự thống nhất của ngôn ngữ và
những tiếng lóng, giọng điệu, khác biệt ngôn ngữ… của từng địa phương được hòa nhập
lại và tạo thành tiếng Pháp. Và cùng với sự ra đời và phổ biến của chế độ nghĩa vụ quân
sự và việc nền Cộng hòa Thứ ba (1871-1940) ban hành laws on public instruction (thập
niên 1880), tính đặc trưng và đồng nhất của dân tộc Pháp được xúc tiến và hình thành từ
đó.

Học giả Benedict Anderson thì cho rằng dân tộc là một “cộng đồng tưởng tượng” (trong
đó những thành viên chưa chắc biết lẫn nhau), và nguyên nhân của sự bùng nổ của chủ
nghĩa dân tộc và việc xúc tiến một “cộng đồng tưởng tượng” như vậy là kết quả của việc
the reduction of privileged access to particular script languages (e.g. Latin), phong trào
khởi nghĩa lật đổ vương quyền và thần quyền, sự phổ biến của ngành in trong hệ thống
của chủ nghĩa tư bản. Học thuyết “state-driven” của nguồn gốc của quốc gia dân tộc có
xu hướng nhấn mạnh một số quốc gia như Anh và Pháp. Các quốc gia trên phát triển
từ một số vùng địa phương, sau đó hình thành ý thức về dân tộc và đặc tính của dân
tộc mình. Cả hai xâm lấn những vùng đất ngoại biên (xứ Wales, Brittany, Aquitaine,
Occitania); chủ nghĩa địa phương lại hồi sinh một chút vào thế kỷ XIX và dẫn đến sự
hình thành của phong trào tự trị vào thế kỷ XX.

Một số quốc gia dân tộc như Đức và Ý hình thành do kết quả của những phong trào lãnh
đạo bởi những người theo chủ nghĩa dân tộc vào thế kỷ XIX. Trong cả hai trường hợp,
lãnh thổ của chúng từng bị chia sẻ bởi rất nhiều quốc gia khác nhau, trong đó có những
quốc gia có lãnh thổ rất nhỏ. Ý thức về dân tộc và sự thống nhất bắt đầu với những
phong trào mang tính chất văn hóa (ví dụ Phong trào Völkisch ở Đức), nhưng sau đó
nhanh chóng gây được nhiều ảnh hưởng lớn về chính trị. Trong các trường hợp đó, tình
cảm dân tộc và các phong trào cùa chủ nghĩa dân tộc đã tạo một nền tảng cho việc thống
nhất nước Đức và nước Ý.

Các sử gia như Hans Kohn, Liah Greenfeld, Philip White và nhiều người khác phân loại
các quốc gia như Đức và Ý – nơi sự thống nhất về văn hóa diễn ra trước sự thống nhất

về lãnh thổ – là những ethnic nation hay ethnic nationality. Trong khi đó các quốc gia
dạng state-driven (Anh, Pháp, Trung Quốc) khi thống nhất lại có xu hướng duy trì và
phát triển những xã hội đa dân tộc và hình thành một truyền thống về civic nation hay
cộng đồng sắc tộc theo lãnh thổ.

Ý tưởng về một quốc gia dân tộc thường đi đôi với sự hình thành và trỗi dậy của hệ
thống các quốc gia thời cận đại, cụ thể là hệ thống các quốc gia Châu Âu xác lập sau
Hòa ước Westphalia năm 1648 (gọi là Trật tự Westphalia). Sự cân bằng quyền lực trong
quan hệ quốc tế tiêu biểu cho hệ thống đó, phụ thuộc vào hiệu quả dựa trên các thực thể
độc lập được định nghĩa rõ ràng và được điều hành bởi một cách tập trung, bất chấp nó
là một đế quốc hay một quốc gia dân tộc, trong đó mỗi thực thể thừa nhận độc lập và
chủ quyền lãnh thổ của các thực thể khác. Trật tự Westphalia không tạo ra những quốc
gia dân tộc, nhưng các quốc gia dân tộc lại xem đó như là tiêu chuẩn cho những quốc
gia cấu thành (trong trường hợp như không có bất cứ lãnh thổ tranh chấp nào).

Các quốc gia dân tộc nhận được một nền móng (về mặt triết học) vững chắc từ thời
kỳ của chủ nghĩa lãng mạn, ban đầu là biểu hiện “tự nhiên” của những cá nhân (chủ
nghĩa dân tộc lãng mạn – xem aun niệm về Volk của Fichte, quan niệm mà về sau Ernest
Renan đã phản bác). Tầm quan trọng ngày càng tăng lên của dân tộc và nguồn gốc chủng
tộc vào thế kỷ XIX đã dẫn đến sự tái định nghĩa về thuật ngữ “quốc gia dân tộc”. Chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc trong thuyết của Boulainvilliers vốn đã phản dân tộc và chống
lại chủ nghĩa yêu nước, bắt đầu kết hợp với chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc và
“chủ nghĩa đế quốc lục địa”, thể hiện rõ nét nhất trong phong trào Liên Đức và phong
trào Liên Xlavơ. Mối liên hệ giữa chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa ethnic
nationalism đạt đỉnh cao nhất dưới dạng chủ nghĩa phát xít và phong trào Nazi vào đầu
thế kỷ XX. Sự kết hợp đặc trưng giữa “dân tộc” và “quốc gia” thể hiện trong những thuật
ngữ như “Völkische Staat” và được thực thi trong các bộ luật như luật Nuremberg vào
năm 1935, khiến cho các quốc gia phát xít như Đức Quốc xã mang tính chất khác hẳn
với các quốc gia dân tộc không theo chủ nghĩa phát xít. Rõ ràng, các dân tộc thiểu số
không phải là thành phân của các Volk không có bất cứ vai trò và địa vị gì trong một
“quốc gia” như vậy. Ở Đức, người Do Thái lẫn người La Mã không được xem là một
phần của Volk và họ bị các phần tử Nazi thanh trừng dã man. Tuy nhiên bộ luật quốc
tịch Đức xem “German” là nền tảng của tổ tiên các tộc German, loại trừ tất cả các dân
tộc không phải German ra khỏi Volk.

Gần đây, việc các quốc gia dân tộc tuyên bố về chủ quyền tuyệt đối về lãnh thổ của
mình đang bị chỉ trích dữ dội. Một hệ thống chính trị toàn cầu dựa trên luật quốc tế và sự
xuất hiện của các liên minh và các khối mang tính chất siêu quốc gia đã tạo nên một đặc
trưng của thời kỳ hậu chiến tranh lạnh. Các nhân tố phi quốc gia, ví dụ như các tập đoàn
đa quốc gia và các tổ chức phi chính phủ được xem là đang xói mòn hệ thống chính trị
và kinh tế của các quốc gia dân tộc, và từ đó dẫn đến sự biến mất của chúng.

Các quốc gia tiền dân tộc

Ở Châu Âu vào thế kỷ XVIII, các quốc gia phi dân tộc điển hình thường là các đế quốc
đa dân tộc (ví dụ Đế quốc Nga, Đế quốc Pháp, Đế quốc Anh, Đế quốc Áo-Hung và Đế
quốc Ottoman) và là một số quốc gia nhỏ có quy mô “dưới” một dân tộc. Về trường hợp
một đế quốc, thông thường nó theo chế độ quân chủ, người lãnh đạo có thể là một vị vua
(Anh), Hoàng đế (Pháp) hay Sultan Hồi giáo (Ottoman). Và tất nhiên, thành phần dân
cư của đế quốc rất đa dạng về dân tộc và ngôn ngữ. Nhưng trong số đó chỉ có một cộng
đồng dân tộc nắm địa vị thống trị, và thuồng ngôn ngữ của dân tộc thống trị là ngôn
ngữ chính thức của đế quốc, các thành viên trong hoàng tộc cũng thường thuộc dân tộc
thống trị này. Lãnh thổ của các đế quốc cũng không chỉ nằm giới hạn trong phạm vi châu
Âu, có một số đế quốc có lãnh thổ trải rộng khắp trên nhiều châu lục khác nhau (vd:
Ottoman, Anh,…) Ở trường hợp thứ hai, một số quốc gia nhỏ ở châu Âu có thể có thành
phần dân tộc không quá phức tạp, nhưng cũng là những nước quân chủ, được thống trị
bởi một gia đình vương tộc. Lãnh thổ của chúng có thể thay đổi bằng việc kết thông
gia giữa các vương tộc với nhau, qua đó lãnh thổ các quốc gia này hợp nhất với nhau
hoặc mở rộng thêm. Ở một vài khu vực của Châu Âu, ví dụ Đức, một số “quốc gia” nhỏ
cũng tồn tại. Các “quốc gia” này có hệ thống chính quyền, luật pháp riêng biệt được các
nước lân bang công nhận về mặt độc lập, chủ quyền. Người đứng đầu không nhất thiết
là “vua”, mà có thể là một Công tước hay một giám mục,… Và vì chúng quá nhỏ, nhiều
khi văn hóa và ngôn ngữ của các “quốc gia” này hoàn toàn giống như các nước lân bang.
Một vài quốc gia trong số này bị các phong trào dân tộc chủ nghĩa lật đổ vào thế kỷ XIX.
Một số quốc gia dân tộc như Anh và Pháp thì lại lớn mạnh lên thông qua việc sát nhập
một vài trong số này, or chiefdoms earlier in history. Các tư tưởng tự do như mậu dịch
tự do đóng một vai trò quan trọng trong việc thống nhất nước Đức, tiền đề là sự thành
lập Đồng minh thuế quan Zollverein. Và các cuộc chiến tranh Áo-Phổ (1864) và chiến
tranh Pháp-Phổ (1870) quyết định sự thống nhất hoàn toàn. Các đế quốc khác, như Đế
quốc Áo-Hung và Đế quốc Ottoman tan rã sau Thế chiến thứ nhất, còn Đế quốc Nga thì
trở thành Liên bang Xô Viết vào năm 1922 sau một cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài 3
năm.

Một số quốc gia nhỏ tồn tại đến ngày nay: Liechtenstein, Andorra, Monaco, Cộng hòa
San Marino. Vatican thì không tính, mặc dù trước đây từng có một nước Giáo hoàng.
Lãnh thổ và tình trạng chủ quyền hiện có là nhờ vào Hiệp ước Lateran ký với Ý vào năm
1929.

Các đặc điểm của một quốc gia dân tộc

Các quốc gia dân tộc có nhiều đặc trưng riêng biệt so với các quốc gia tiền dân tộc. Đầu
tiên, quan điểm về lãnh thổ của họ khác hẳn với các “quốc gia” do các dòng tộc vương
triều thống trị trước đó: lãnh thổ của đất nước là thiêng liêng và không thể chuyển dời
được, dù là một tấc đất. Không dân tộc nào muốn quốc gia mình sát nhập hay chuyển
giao lãnh thổ vì những lý do như “công chúa nước mình kết hôn với một hoàng tử nước
khác”. Đường biên giới của quốc gia dân tộc cũng khác, nó dựa trên diện tích và vị trí
sinh sống của các cộng đồng cư dân của các dân tộc, mặc dù đôi khi biên giới của các
quốc gia dân tộc cũng dựa theo các đường biên giới tự nhiên như sông, núi (ví dụ như
dãy Pyrenee là biên giới giữa Pháp và Tây Ban Nha, một đoạn sông Danube làm nên
đường biên giới giữa Bulgaria, Romania, Ukraina và Moldavia).

Đặc điểm nổi bật của nhất quốc gia dân tộc là việc nó xem quốc gia như một công cụ
cực kỳ quan trọng trong việc thống nhất dân tộc về mặt kinh tế, xã hội và cả văn hóa.
Một quốc gia dân tộc luôn đề cao sự thống nhất về kinh tế, trước tiên là việc bãi bỏ các
hệ thống thuế quan và hệ thống thu phí công lộ phức tạp trong nước. Ở Đức, quá trình
này – sự thành lập Đồng minh thuế quan Đức (Zollverein) – là bước đầu tiên trong việc
thống nhất dân tộc Đức. Các quốc gia dân tộc cũng thường có chính sách duy trì một
hệ thống cơ sở hạ tầng về giao thông vận tải ở quy mô cấp quốc gia, nhờ đó giúp việc
di chuyển và thông thương trong nước diễn ra được thuận lợi. Việc hệ thống xe lửa và
đường sắt phát triển mạnh vào thế kỷ 19 đã khiến cho các công ti tư nhân về ngành này
phát triển, nhưng về sau tất cả đều trở thành các doanh nghiệp quốc doanh. Hệ thống
đường sắt của Pháp, trong đó các tuyến đường chính xuất phát từ Paris và đi tới tất cả
các địa phương của Pháp, thường được xem là một biểu tượng của sự thống nhất và tập
trung của một quốc gia dân tộc như Pháp, nơi chính quyền trung ương quản lý việc xây
dựng nó. Và các quốc gia dân tộc vẫn tiếp tục xây dựng những hệ thống giao thông vận
tải cấp quốc gia, đặc biệt là hệ thống đường cao tốc. Một “biến thể” cách tân gần đây là
các chương trình về hệ thống giao thông vận tải xuyên quốc gia, ví dụ Mạng lưới xuyên
Châu Âu (TEN).

Một quốc gia dân tộc thường có chính quyền tập trung hơn và cơ cấu hành chính thống
nhất hơn hẳn các “đế quốc” đa dân tộc tiền nhiệm: nguyên do là lãnh thổ nó nhỏ hơn và
thành phần dân cư đồng nhất hơn (một ví dụ về tính không đồng nhất về dân cư chính
là Đế quốc Ottoman). Trào lưu dân tộc chủ nghĩa bùng phát vào thế kỷ 19 đã khiến cho
các đặc tính địa phương trở nên kém quan trọng hơn so với đặc tính chung của toàn
dân tộc, ví dụ như ở các vùng Alsace-Lorraine, Catalonia, Brittany, Sicily, Sardinia và
Corsica. Trong nhiều trường hợp, chính quyền địa phương được xem là kém quan trọng
hơn so với chính quyền trung ương của quốc gia dân tộc. In many cases, the regional
administration was also subordinated to central (national) government. Quá trình này
phần nào bị đảo ngược trong thập niên 1970 về sau, với sự hình thành của các khu vực

tự trị dưới nhiều hình thức khác nhau trong một quốc gia có chính quyền tập trung như
Pháp.

Tuy nhiên, ảnh hưởng rõ rệt nhất của một quốc gia dân tộc so với những quốc gia phi
dân tộc tiền nhiệm là việc hình thành một nền văn hóa dân tộc thống nhất thông qua
các chính sách của quốc gia đó. Hình mẫu của một quốc gia dân tộc ngụ ý rằng thành
phần dân cư của nó phải cấu thành một dân tộc, có chung nguồn gốc, ngôn ngữ và chung
nhiều mặt về văn hóa. Mà khi sự thống nhất nêu trên không/chưa tồn tại, bản thân quốc
gia dân tộc sẽ cố tự tạo ra nó. Cụ thể là một ngôn ngữ dân tộc thống nhất sẽ được tạo
ra thông qua một chính sách ngôn ngữ. Và sự hình thành hệ thống giáo dục bắt buộc
bậc tiểu học cùng với chương trình giảng dạy tương đối thống nhất ở cấp trung học là
một phương pháp hiệu quả để phổ biến ngôn ngữ dân tộc. Nhà trường cũng chú trọng
trong việc giảng dạy về lịch sử dân tộc, nhưng những kiến thức lịch sử trong nhà trường
thường mang nặng tính thần thoại và tuyên truyền, đến ngày nay một vài quốc gia dân
tộc vẫn tiếp tục truyền thụ cho học sinh những kiến thức lịch sử loại này (nhất là trong
thời gian có chiến sự).

Các chính sách về ngôn ngữ và văn hóa đôi khi mang tính tiêu cực, cụ thể là nhắm đến
mục tiêu trấn áp tất cả các yếu tố phi dân tộc. Thí dụ chính sách cấm sử dụng một số
ngôn ngữ nào đó hòng thúc đẩy việc dùng ngôn ngữ chính của dân tộc và xóa bỏ các
ngôn ngữ thiểu số. Xem thêm Đức hóa.

Trong một vài trường hợp các chính sách trên là nguyên nhân khơi mào những xung đột
sắc tộc, văn hóa và xa hơn, dẫn đến phong trào li khai. Tuy nhiên ở những nơi nó thực
hiện thành công, tính đồng nhất về văn hóa và sắc tộc tăng lên rõ rệt. Trái lại, sự phân
ly về văn hóa tại những vùng biên giới của các dân tộc càng lúc càng rõ ràng: trên lý
thuyết, ở tả ngạn sông Rhine là vùng ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa và sắc tộc của
người Pháp, còn bên kia là của người Đức. Nhằm củng cố sự khác biệt này, cả hai phía
đều có những chính sách ngôn ngữ, hệ thống giáo dục khác nhau; mặc dù đường biên
giới ngôn ngữ ngay trong lòng nước Pháp cũng khá rõ rệt, và bản thân vùng Alsace đã
đổi chủ 4 lần trong giai đoạn 1870-1945.

Liên Hiệp Anh

Thật ra rất khó xác định xem Liên Hiệp Anh vào dạng “quốc gia dân tộc” hay không:
bản thân nó hình thành bởi sự sát nhập của hai quốc gia dân tộc: Vương quốc Scotland
và Vương quốc Anh. Tuy nhiên Hiệp ước Liên Hiệp có một số nội dung cho thấy rằng
cả hai nước không hoàn toàn hợp nhất với nhau: ví dụ cơ quan lập pháp và Giáo hội của
Anh và Tô Cách Lan hoạt động độc lập với nhau. Suốt 3 thế kỷ sau đó việc “phân loại”
Liên Hiệp Anh vẫn chưa chấm dứt khi vẫn còn hai luồng quan điểm đối nghịch nhau
cho rằng: 1)Liên Hiệp Anh là một quốc gia dân tộc 2)Liên Hiệp Anh là một quốc gia đa
dân tộc. Riêng chính phủ Liên Hiệp thì cho rằng Liên Hiệp Anh là “nhiều quốc gia trong
một quốc gia””.

Các cộng đồng thiểu số

Một trong những vấn đề của ý tưởng “một dân tộc, một quốc gia” chính là sự tồn tại của
các cộng đồng thiểu số, nhất là các dân tộc thiểu số, những người không thuộc nhóm
dân tộc “chính” của quốc gia. Theo định nghĩa về một dân tộc của những người ủng hộ
thuyết “một dân tộc, một quốc gia”, các nhóm sắc tộc thiểu số thường không có được
địa vị ngang hàng với dân tộc “đa số”. Trong đa số các trường hợp, các cộng đồng xung
quanh dân tộc chính của một quốc gia dân tộc bị xem là những thành phần khác biệt.
Những ví dụ về các dân tộc “người ngoài” là người Do Thái và người La Mã ở châu Âu.
Những phản ứng tiêu cực mà các dân tộc thiểu số thường phải gánh chịu khá đa dạng,
từ việc bị cưỡng ép đồng hóa đến việc thanh lọc sắc tộc, bị khủng bố về vật chất và
tinh thần, bị trục xuất hoặc nặng nhất là bị dân tộc “chính” diệt chủng. Việc đồng hóa
thường được thực thi bởi chính quyền, còn các hành động bạo hành, khủng bố các cộng
đồng sắc tộc thiểu số có thể là tự phát, ví dụ như việc những nhóm quá khích tổ chức
các cuộc tấn công vào các cộng đồng thiểu số, ví dụ việc hành hình lynch ở Mỹ và việc
tàn sát người Do Thái. Nhiều vụ bạo hành khủng khiếp và dã man đối với các nhóm sắc
tộc thiểu số đã từng xảy ra trong các quốc gia dân tộc— tại thời điểm đó các cộng đồng
thiểu số không được xem là một phần của quốc gia.

Tuy nhiên, một số quốc gia dân tộc chấp nhận một số cộng đồng thiểu số như là một
phần của quốc gia, và thuật ngữ dân tộc thiểu số được dùng tương đối phổ biến ở các
quốc gia này. Ví dụ người Sorb: suốt nhiều thế kỷ họ sống trong những lãnh thổ của các
cộng đồng nói tiếng Đức, và hiện nay họ được nước Đức xem như là một phần của quốc
gia, được chính quyền đảm bảo đầy đủ các quyền lợi của một công dân Đức. Tuy nhiên
trong số hàng ngàn cộng động sắc tộc và văn hóa thiểu số trên thế giới, rất ít cộng đồng
được tôn trọng và bảo vệ như vậy.

Chủ nghĩa đa văn hóa là một chính sách của nhiều quốc gia hiện nay, dựa trên ý tưởng về
sự tồn tại hòa bình giữa các cộng đồng sắc tộc, văn hóa và ngôn ngữ khác nhau. Nhiều
quốc gia hiện này đã ban hành các quyền thiểu số.

Thuyết phục hồi lãnh thổ

Nhìn chung, một biên giới “lý tưởng” nhất của một quốc gia dân tộc phải khiến quốc gia
ấy chứa đựng tất cả các thành viên của dân tộc mình, đồng thời phải chứa tất cả những
vùng lãnh thổ được xem là quê hương của dân tộc đó. Trên thực tế không phải lúc nào
cũng được như vậy: một bộ phận dân cư của một dân tộc có thể không sinh sống trong
lãnh thổ của quốc gia dân tộc mình, hoặc một phần lãnh thổ quê hương của dân tộc đó
lại hiện thuộc chủ quyền của một quốc gia, một dân tộc khác. Vì vậy, những người theo
thuyết phục hồi lãnh thổ đòi hỏi tất cả những phần lãnh thổ đó phải được trả về cho quốc
gia của mình. Thông thường, những phần lãnh thổ họ đòi lại thường có phần lớn dân
cư là người đồng tộc với mình. Trong một số trường hợp khác dân cư ở đây chỉ có sự

tương đồng về ngôn ngữ chính hoặc chịu ảnh hướng lớn về văn hóa, hoặc lãnh thổ đó
trước đây từng là nơi định cư lâu đời của dân tộc mình, hoặc lãnh thổ đó sẽ giúp cho
quốc gia được thống nhất về mặt địa lý,… và còn nhiều lý do khác. Và những hằn thù
dân tộc trong quá khứ cũng là một phần trong số các nguyên nhân đó (xem thêm chính
sách phục thù). Đôi khi rất khó phân biệt những người theo thuyết phục hồi lãnh thổ với
những người theo chủ nghĩa đại dân tộc, vì tất cả họ đều cho rằng tất cả những người
cùng một dân tộc và chung một nền văn hóa dân tộc nên sinh sống trong cùng một quốc
gia. Tuy nhiên so với những người theo thuyết phục hồi lãnh thổ những người theo chủ
nghĩa đại dân tộc thường ít chú ý hơn đến tính thuần nhất của dân tộc trong một quốc
gia. Thí dụ những người thuộc phong trào Liên Đức có nhiều ý kiến khá khác nhau về
lãnh thổ của một nước Đại Đức (Großdeutschland hay Grossdeutschland), mà quốc gia
Đại Đức đó bao hàm cả những phần lãnh thổ mà người dân thuộc các dân tộc thiểu số
nói tiếng Xlavơ chiếm một tỉ lệ rất lớn.

Thông thường, các yêu cầu phục hồi lãnh thổ được các thành viên của các phong trào
dân tộc phi quốc gia khởi xướng. Khi họ sinh sống trong một vùng lãnh thổ thuộc một
quốc gia khác thì họ thường xuyên có những xung đột và căng thẳng với các chính quyền
sở tại, và những nỗ lực trong việc sát nhập các lãnh thổ này thường dẫn đến một casus
belli, tức là một biến cố khơi mào chiến tranh. Trong nhiều trường hợp, những tuyên bố
và tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ có thể là nguyên nhân của thái độ thù địch kéo dài
hàng năm trời giữa những quốc gia lân bang. Và một điều đáng chú ý là những người
theo thuyết phục hồi lãnh thổ thường cố phổ biến và lưu hành những bản đồ về một quốc
gia “vĩ đại” của dân tộc họ, mà quốc gia lý tưởng này thường có lãnh thổ rộng lớn hơn
hẳn so với lãnh thổ của quốc gia dân tộc hiện tại. Tất nhiên, điều này đóng một vai trò
rất quan trọng trong việc tuyên truyền.

Tuy nhiên không nên nhầm lẫn các hoạt động của những người theo thuyết phục hồi
lãnh thổ với những hoạt động đòi lại các lãnh thổ hải ngoại hoặc các thuộc địa; những
lãnh thổ này thường không được xem là một phần của lãnh thổ quê hương. Một số thuộc
địa của Pháp lại là những ngoại lệ quan trọng: ví dụ chính phủ thực dân Pháp ở Algérie
luôn xem khu vực này như là một khu hành chính của mẫu quốc.

 

0