24/05/2018, 21:33

QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG-PHẦN III

Trên thế giới, mọi cơ quan Chính phủ và doanh nghiệp đều đang phải đối đầu với tình trạng ô nhiễm môi trường do sản xuất công nghiệp gây ra và luôn cùng cộng tác để tìm những giải pháp mang tính luật pháp hơn không chỉ trong từng nước mà còn ở phạm vi khu ...

Trên thế giới, mọi cơ quan Chính phủ và doanh nghiệp đều đang phải đối đầu với tình trạng ô nhiễm môi trường do sản xuất công nghiệp gây ra và luôn cùng cộng tác để tìm những giải pháp mang tính luật pháp hơn không chỉ trong từng nước mà còn ở phạm vi khu vực và quốc tê.

Quản lý môi trường là một phương thức tiếp cận hệ thống để chăm lo tới mọi khía cạnh có liên quan tới môi trường trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của một tổ chức. Nó phải được xem như là một bộ phận gắn liền trong hoạt động và chiến lược kinh doanh của tổ chức.

Doanh nghiệp phải quan tâm tới quản lý môi trường vì:

4.1.1. Pháp luật và những sự ép buộc khác đối với doanh nghiệp

Tuy ở các mức độ khác nhau nhưng Chính phủ của tất cả các quốc gia đều đang tăng cường kiểm soát các hoạt động công nghiệp, nghiêm khắc xử phạt việc vi phạm các điều luật và các giới hạn cho phép về môi trường. Các hình phạt dân sự và hình sự mới, nghiêm ngặt hơn về vi phạm luật và các quy định môi trường đang được các nước phát triển đặc biệt chú trọng áp dụng. Đặc biệt là các vi phạm dẫn tới nguy cơ tổn hại về sức khoẻ, tổn hại lâu dài cho tài nguyên đất, nước mặt, nước ngầm, ... Tình hình đó buộc các doanh nghiệp phải tiến hành các biện pháp giám sát cần thiết để minh chứng rằng họ đáp ứng các yêu cầu cho phép hoặc tuân thủ các điều luật. Các nhân viên giám sát khu vực cũng đang được đào tạo cách xác định và kịp chỉ ra các vi phạm về luật pháp hay những quy định về môi trường.

Nhiều xí nghiệp đã nhận thấy để tiếp tục tồn tại và xúc tiến hoạt động sản xuất kinh doanh họ buộc phải chú trọng một chiến lược lâu dài về môi trường. Với chiến lược đó họ mới tạo được cơ hội kinh doanh, cạnh tranh được với các đối thủ đã biết cân nhắc tới các yếu tố môi trường, thu hút được các nhà đầu tư, các cổ đông và các bên liên quan nhờ viễn cảnh tốt đẹp về môi trường của họ.

Trách nhiệm pháp lý, hình sự về vi phạm luật hay các quy định môi trường không chỉ trở nên nghiên khắc hơn mà cơ sở pháp lý của nó cũng đang được chú trọng tại nhiều nước. Điều này giúp kiểm soát được mọi tác hại môi trường ngay cả khi chưa có các bằng chứng vi phạm. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh dù chỉ có nguy cơ rủi ro cũng sẽ bị cấm và chủ doanh nghiệp sẽ bị xử phạt thuế một cách nghiêm khắc.

Ngoài các trách nhiệm pháp lý, hình sự do các nguy hại về sự cố hoặc ô nhiễm, tại nhiều nước, các doanh nghiệp còn gặp khó khăn về các trường hợp xử lý khẩn cấp khi cơ quan chức năng buộc họ phải đình chỉ sản xuất cho tới lúc giải quyết xong sự cố. Trong một số trường hợp, các doanh nghiệp buộc phải di dời địa điểm hoặc đầu tư mua sắm trang thiết bị công nghệ mới để kiểm soát ô nhiễm.

“Đóng cửa hay không đóng cửa?”. “Liệu có địa điểm thích hợp để di chuyển và giải pháp di chuyển có thực thi không?” ... luôn là những câu hỏi khó trả lời đối với các cơ quan chức năng của Chính phủ. Tại Việt Nam các trường hợp như vậy cũng đã xảy ra.

4.1.2. Áp lực về nhận thức, về danh tiếng và về quan hệ cộng đồng:

Nhận thức của xã hội nói chung và của người tiêu dùng nói riêng về môi trường đang dần dần thay đổi. Lẽ thông thường người ta xem một doanh nghiệp có tình trạng môi trường kém thì khó có thể sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao . Xu thế hiện nay người tiêu dùng có sự lựa chọn các sản phẩm được sản xuất trong các điều kiện tốt về môi trường. Bạn hàng, những người luôn cẩn trọng khi lựa chọn, ký kết các hợp đồng hẳn phải cân nhắc kỹ hơn về điều này.

Các bên quan tâm hoặc các bên có quyền lợi liên quan khác như các cổ đông, các tổ chức tài chính, các công ty bảo hiểm ... luôn xem trong yếu tố đảm bảo môi trường trong quá trình đánh giá tổng thể, đánh giá về các khách hàng hiện có và các khách hàng tương lai trước lúc thực hiện các dịch vụ đầu tư, cho vay, dịch vụ bảo hiểm hay chấp nhận các điều kiện đàm phán thích hợp.

Các doanh nghiệp thiếu cẩn trọng về vấn đề ô nhiễm có thể gặp nhiều rắc rối trong quan hệ đối với dân cư địa phương.

4.1.3. Cạnh tranh

ô nhiễm môi trường thường gắn liền với việc tiêu hao lãng phí nhiên liệu và năng lượng, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao nên mất khả năng cạnh tranh ở thị trường nội địa, thị trường nước ngoài, ở nhiều nước, cơ chế hay hệ thống “Tiêu dùng xanh - Green Consumer” đang là áp lực rất lơn trên thị trường. Người tiêu dùng ngày càng đòi hỏi có các sản phẩm mới hơn, bền hơn theo các chuẩn mực môi trường. Các nhu cầu đó có thể bao gồm cả việc phải đảm bảo để các sản phẩm được cung cấp thoả mãn mọi yêu cầu của nước nhập khẩu đồng thời cơ sở sản xuất phải đáp ứng các yêu cầu tối thiểu về môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.

Cho dù trong nhiều trường hợp, việc tuân thủ các điều luật về môi trường có thể làm tăng giá thành nhưng xu thế là các sản phẩm đạt các yêu cầu môi trường cao hơn vẫn được ưa chuộng hơn.

4.1.4. Sức ép về tài chính

Để giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh doanh nghiệp phải tìm các giải pháp giảm thiểu hoặc loại bỏ ô nhiễm, tiết kiệm năng lượng, nguyên nhiên liệu, giảm nguồn thải, tái chế hoặc tái sử dụng các phế liệu.

4.2.1. Hệ thống quản lý môi trường (EMS) là gì?

Vấn đề môi trường ngày càng có ý nghĩa thực tiễn quan trọng cho mỗi tổ chức và doanh nghiệp. Tuỳ theo cách xử lý của mình, các vấn đề liên quan tới môi trường có thể có tác động xấu hoặc tốt cho chiến lược mục tiêu của họ. Các doanh nghiệp thành đạt thường quan tâm tới các nguy cơ hiện tại cũng như các cố gắng đạt cơ hội có thể về môi trường vì ít nhất hai lý do chính sau:

  • Tiết kiệm tài chính nhờ giảm chi phí, tránh được trách nhiệm về pháp lý
  • Tạo thêm nguồn thu nhờ mở rộng và tìm kiếm thêm thị trường

Đặc biệt, hệ thống quản lý môi trường giúp cho doanh nghiệp:

  • Xác định, kiểm soát mọi khía cạnh, mọi tác động và mọi nguy cơ môi trường có thể liên quan tới tổ chức.
  • Đạt được chính sách mục tiêu về môi trường bao gồm cả trách nhiệm pháp lý
  • Xác định các nguyên tắc, các chỉ dẫn và phương thức để doanh nghiệp đạt được các mục tiêu môi trường trong tương lai.
  • Xác định các mục tiêu dài hạn, ngắn hạn và trung hạn về tình trạng môi trường đảm bảo sự cân đối chi phí và lợi ích cho doanh nghiệp và các bên liên quan.
  • Xác định các nguồn lực để đạt được các mục tiêu, xác định trách nhiệm và sự cam kết cung cấp các nguồn lực.
  • Xác định và văn bản hoá các nhiệm vụ, trách nhiệm chức năng, các thủ tục để đảm bảo mỗi thành viên luôn thực hiện đúng các công việc hàng ngày, giúp việc giảm thiểu hoặc loại bỏ các tác động xấu cho môi trường
  • Tạo phương thức thị trường rộng rãi trong doanh nghiệp, đào tạo mọi người để họ có thể thực hiện đúng các công việc chức năng được giao.
  • Đề ra các biện pháp để đảm bảo tuân thủ các thủ tục, các chuẩn mực, mục tiêu đã được thảo luận và có sửa đổi khi cần thiết.

Điểm mấu chốt là phải có sự kết nối chặt chẽ giữa quản lý môi trường và chức năng quản lý chung vì môi trường chỉ là một trong các yếu tố tác động đến xí nghiệp. Một hệ thống quản lý môi trường tách biệt với các cơ chế quản lý khác sẽ không giải quyết được việc gì. Có thể giải thích “hệ thống quản lý môi trường là tập hợp các hoạt động quản lý có kế hoạch và định hướng về các thủ tục thực hiện, lập tài liệu, báo cáo, nó được triển khai nhờ một cơ cấu tổ chức riêng có chức năng, trách nhiệm, nguồn lực cụ thể để ngăn ngừa các tác động xấu về môi trường cũng như thúc đẩy các hoạt động duy trì và nâng cao các kết quả hoạt động môi trường

Hệ thống quản lý môi trường cũng tuân thủ chu trình “Lập kế hoạch - Thực hiện - Kiểm tra - Hành động khắc phục” (Chu trình PDCA) như đã quen biết trong hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm. Các phân định, sử dụng các công cụ giải quyết sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào mục tiêu và nhu cầu cụ thể của từng doanh nghiệp hoặc tổ chức.

Công bố của tổ chức về các ý định các các nguyên tắc liên quan đến kết quả hoạt động tổng thể về môi trường của mình, tạo ra khuôn khổ cho các hành động và cho việc đề ta các mục tiêu và chỉ tiêu môi trường của mình.

Chỉ tiêu môi trường

Yêu cầu chi tiết về kết quả hoạt động lượng hoá được khi có kết quả áp dụng cho một tổ chức hoặc các bộ phận của nó, yêu cầu này xuất phát từ các mục tiêu môi trường khác cần phải được đề ra và đáp ứng nhằm đạt được các mục tiêu đó.

Bên hữu quan

Cá nhân hay một nhóm liên quan đến hoặc bị ảnh hưởng bởi kết quả hoạt động môi trường của một tổ chức.

Tổ chức

Công ty, Tổng công ty, Hãng, Xí nghiệp, Cơ quan, Viện nghiên cứu, hoặc một bộ phận hoặc kết hợp nhiều bộ phận của nó dù là chúng có tổ hợp với nhau hay không, là Nhà nước hay tư nhân, có các bộ phận chức năng và quản trị riêng của mình.

Đối với các tổ chức có nhiều đơn vị hoạt động, thì một đơn vị hoạt động độc lập có thể được coi là một tổ chức.

Ngăn ngừa ô nhiễm

Sử dụng các quá trình, các phương pháp thực hành, vật liệu hoặc sản phẩm để tránh giảm bớt (hạn chế) hoặc kiểm soát ô nhiễm. Hoạt động này có thể bao gồm việc tái chế, xử lý, thay đổi quá trình, cơ chế kiểm soát.

4.2.2. XUẤT XỨ CỦA HỆ THỐNG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG (EMS):

Trong gần gai thập kỷ vừa qua, hệ thống quản lý môi trường đã thực sự được quan tâm và một trong những lý do phát triển của nó gắn liền với hai vấn đề sau:

  • Sự gia tăng của các khoản chi phí do vi phạm các điều luật môi trường
  • Những quan niệm mới về quản lý chất lượng toàn diện (TQM) dù khởi đầu chỉ để hạn chế và loại bỏ khuyết tật trong sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh nhưng sau đó đã được vận dụng cho việc quản lý môi trường.

Trước các thách thức về môi trường các doanh nghiệp có thể đối phó theo nhiều cách. Chẳng hạn:

  • Không phản ứng gì: Doanh nghiệp không nhận thấy các xu thế và các nguy cơ đe doạ về môi trường, khi nhận ra thì quá muộn và rơi vào khủng hoảng.
  • Phản ứng thụ động phục hồi, chỉ khi có các vấn đề, sự cố thực sự xảy ra người ta mới lo biện pháp xử lý chúng. Trường hợp này doanh nghiệp có thể có lợi nhuận trong thời hạn ngắn nhưng không bao giờ đạt sự phát triển bền vững thậm chí lao đao khi có vấn đề liên quan tới môi trường xảy ra.
  • Phản ứng chủ động: Các doanh nghiệp này sẽ theo dõi khống chế các nguồn ô nhiễm và mọi vấn đề liên quan môi trường, xem chúng như một phần trong hoạt động sản xuất kinh doanh thường ngày để kịp có hoạt động trước khi tình trạng đó trở nên trầm trọng. Chính sách này không có nghĩa là doanh nghiệp thoát khỏi mọi khó khăn mà chỉ có nghĩa là họ đã chuẩn bị tốt hơn để xử lý vơí các trường hợp khủng hoảng.

Thực ra hoạt động theo rõi, khống chế tình trạng môi trường mà ta thường gọi là “thanh tra môi trường” đã được triển khai từ những năm 1970-1980 tại các công ty như Allied Signal; Westinghuse; Philips; ICI và tại một số nước như Mỹ, Canađa và Tây Âu là những nơi các điều kiện luật môi trường có yêu cầu cao về chi phí trách nhiệm khi không thoả mãn các quy định liên quan về sức khoẻ, an toàn.

Ngày nay thuật ngữ “Thanh tra môi trường” đã được sử dụng rộng rãi nhưng đôi khi bị nhầm lẫn với khái niệm “xem xét tình trạng môi trường ban đầu” hoặc thuật ngữ “Kiểm tra đánh giá hệ thống quản lý môi trường”.

4.2.3. Mục đích của hệ thống quản lý môi trường

  • Nhận biết, kiểm soát các tác động cũng như các xu thế quan trọng về môi trường;
  • Nhận biết và tận dụng các cơ hội về môi trường;
  • Xác định các chính sách và cơ sở cho việc quản lý môi trường;
  • Kiểm soát và khống chế, đánh giá tính hiệu quả hệ thống bao gồm việc thúc đẩy và cải biên để phù hợp với sự thay đổi của nhu cầu và các điều kiện.

4.2.4. Các yếu tố cơ bản của hệ thống quản lý môi trường

Tuỳ thuộc vào bản chất, quy mô, tính phức tạp của các hoạt động, của sản phẩm hay dịch vụ mà hệ thống quản lý môi trường của từng doanh nghiệp có thể sẽ khác nhau. Mặc dù vậy chúng đều có một số yếu tố cơ bản giống nhau như:

Chính sách môi trường: Thường ở dạng văn bản nên cam kết của lãnh đạo về việc tuân thủ tình trạng môi trường và được chính thức công bố về các nỗ lực và các nguyên tắc hoạt động để doanh nghiệp đạt được các yêu cầu về môi trường. Chính sách phải bao quát và nếu có thể nên định lượng về những dự định cần đạt.

Chương trình hay kế hoạch hoạt động về môi trường. Nêu biện pháp mà doanh nghiệp sẽ tiến hành trong thời gian tới nhằm chuyển chính sách của doanh nghiệp thành các mục đích và mục tiêu cụ thể, xác định hoạt động, trách nhiệm của từng người và sự cam kết đảm bảo cung cấp các nguồn lực cho việc triển khai.

Xây dựng cơ cấu tổ chức: Bổ nhiệm, phân công, uỷ quyền trách nhiệm cho các hoạt động

Tạo sự kết nối hoà hợp của việc quản lý môi trường trong các hoạt động quản lý kinh doanh khác. Lập các thủ tục để kết hợp hài hòa các biện pháp quản lý môi trường trong các lĩnh vực hoạt động kinh doanh khác của tổ chức như an toàn lao động, mua bán, nghiên cứu triển khai, tiếp thị, tài chính.

ISO và sự ra đời của bộ tiêu chuẩn ISO 14000

4.3.1. Việc xây dựng các tiêu chuẩn về quản lý môi trường của ISO (International Standardiztion Organizations).

Trong những năm 1980 ISO đã bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ tiêu chuẩn hoá một vấn đề quản lý của tổ chức là quản lý chất lượng. Đây là lần đầu tiên ISO đã mạnh dạn đi vào lĩnh vực tiêu chuẩn hoá không mang bản chất kỹ thuật và/hoặc là khoa học một cách thuần tuý. Ban kỹ thuật TC176 về đảm bảo chất lượng và quản lý chất lượng đã được thành lập để xây dựng các tiêu chuẩn đầu tiên về quản lý chất lượng và đến năm 1987 bộ tiêu chuẩn ISO9000 về đảm bảo chất lượng đã được ISO ban hành. Có thể nói đây là một bộ tiêu chuẩn đã mang lại tiếng tăm và thành công nhất trong lịch sử của ISO, đa số các quốc gia trên thế giới đã chấp nhận các tiêu chuẩn ISO9000 thành các tiêu chuẩn quốc gia (trong đó có Việt Nam) để đưa vào áp dụng một cách rộng rãi. Tuy nhiên ngoài ý nghĩa về xây dựng một hệ thống quản lý hữu hiệu trong doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. ISO9000 như chúng ta thấy đã trở thành các yêu cầu đối với thương mại và nhiều khi đã trở thành điều kiện mua hàng của các nhà nhập khẩu đối với các nước xuất khẩu.

Với thành công của bộ tiêu chuẩn ISO9000, ISO đã trở nên đáng tin cậy trong cộng đồng quốc tế đối với khả năng xây dựng các tiêu chuẩn cho các vấn đề khác về quản lý của tổ chức. Vào cuối những năm 1980, đã có nhiều tranh luận trong ISO về đối tượng Tổ chức hoá. Tuy nhiên các yếu tố bổ sung sau đây cùng với sự thành công của ISO9000 đã dẫn tới việc ISO đã quyết định vào cuộc trong việc xây dựng bộ tiêu chuẩn tổ chức về quản lý môi trường.

Trong cùng thời kỳ, khi mà ISO đang gặt hái được các kết quả khá quan trọng trong việc đưa ra áp dụng các tiêu chuẩn ISO9000 về chất lượng thì trên diễn đàn môi trường thế giới đang diễn ra nhiều sự kiện gây xôn xao nhiều giới chức của nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế. Sự huỷ hoại tầng ôzôn,sự nóng lên toàn cầu, sự phát rừng nghiêm trọng và các vấn đề môi trường khác đã được đăng tải trên trang đầu của các báo chí trên toàn thế giới và nó đã được xem như là các vấn đề mang tính toàn cầu. Đại diện của nhiều quốc gia có quan tâm đã gặp nhau tại Motrenteal -Canađa vào năm 1987 để soạn thảo ra các thoả thuận nhằm ngăn cản việc sản xuất ra các hoá chất gây phá huỷ tầng ozôn như CFC ... v.v, việc làm giảm tính đa dạng sinh học cũng đã gây sự lo ngại của cộng đồng quốc tế và một loạt các yêu cầu đối với các vấn đề này đã được công bố. Trong thực tế đã có một phong trào thể hiện mong muốn của các quốc gia có được sự quan tâm tốt hơn đến vấn đề môi trường của trái đất.

Một yếu tố khác vào thời điểm này đã gây nhiều sự quan tâm là sự vắng mặt của chỉ số tổng hợp để đánh giá sự cố gắng nỗ lực của một tổ chức/doanh nghiệp trong việc đạt được các thành quả bảo vệ môi trường một cách liên tục và đáng tin cậy. Chính loại chỉ số này đã hình thành nên tiêu chuẩn ISO14001 về HTQLMT là tiêu chuẩn có thể sử dụng để bên thứ ba độc lập có thể đánh giá một cách khách quan sự phù hợp giữa cam kết của tổ chức/doanh nghiệp với các quy định của pháp luật về các vấn đề môi trường cũng như đánh giá các tác động lên môi trường của các hoạt động, sản phẩm hoặc dịch vụ của tổ chức/doanh nghiệp và tất nhiên nó được dùng để xây dựng hoặc cải thiện HTQLMT của họ.

Hội nghị về Môi trường và phát triển Liên hợp quốc được tổ chức vào tháng 6/1992 tại Rio De Janeiro, Brazil đã đạt ra các vấn đề khẩn cấp về môi trường và bảo vệ môi trường trên phạm vi toàn cầu. Đối với các cơ quan/tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc gia, khu vực và quốc tế, không phải đến lúc này vấn đề môi trường mới được đề cập đến mà nó đã được xác định là một đối tượng cần tổ chức hoá trong những năm trước đó. Vào đầu những năm 1990, chúng ta đã chứng kiến việc ra đời của các tổ chức quốc gia và khu vực về quản lý môi trường như Viện Tổ chức Anh (BSI) đã ban hành bộ BS 7750 về quản lý môi trường vào năm 1992; Hiệp hội Tiêu chuẩn Canađa đã đưa ra những quy định về quản lý, kiểm soát môi trường, ghi nhãn môi trường ..., EU đã ban hành các điều lệ về nhãn sinh thái, quản lý sinh thái và đánh giá môi trường (EMAS) như đã nêu ở phần trên.

Nói tóm lại, sự thành công của ISO9000 và sự nổi lên của các vấn đề môi trường toàn cầu đã dẫn đến việc ISO thực sự bắt đầu các công việc xem xét đến diễn đàn môi trường. Năm 1993 ISO quyết định thành lập Ban kỹ thuật ISO/TC207 về quản lý môi trường, các tiêu chuẩn đầu tiên của bộ tiêu chuẩn ISO 14000 đã được ban này soạn thảo và ban hành vào cuối năm 1996, đã nhận được sự đồng tình hưởng ứng và đánh giá cao ở nhiều quốc gia trên thế giới.

4.3.2. Một số nét cơ bản về Bộ tiêu chuẩn quốc tế ISO14000

Bộ Tiêu chuẩn được xây dựng trên cơ sở thảo thuận quốc tế bao gồm các yêu cầu đối với các yếu tố cơ bản có thể điều chỉnh được để thiết lập nên hệ thống quản lý môi trường có khả năng cải thiện môi trường một cáh liên tục tại tại các tổ chức cơ sở.

Bộ tiêu chuẩn ISO14000 đem đến cách tiếp cận hệ thống cho việc quản lý môi trường nhằm thiết lập hệ thống quản lý môi trường và cung cấp các công cụ hỗ trợ có liên quan như đánh giá môi trường, nhãn môi trường, phân tích chu trình sống của sản phẩm, các khía cạnh môi trường trong tiêu chuẩn về sản phẩm v.v... cho các doanh nghiệp và các tổ chức cơ sở khác để quản lý sự tác động của các hoạt động của họ đối với môi trường, ngăn ngừa ô nhiễm và liên tục cải thiện môi trường với sự cam kết của lãnh đạo và sự tham gia có ý thức của mọi thành v iên của cở sở từ người sản xuất trực tiếp đến các cán bộ quản lý.

Bộ ISO14000 đề cập đến 6 lĩnh vực sau:

  1. Hệ thống quản lý môi trường.
  2. Kiểm tra đánh giá môi trường.
  3. Đánh giá kết quả hoạt động môi trường.
  4. Nhãn môi trường.
  5. Phân tích chu trình sống của sản phẩm .
  6. Các yếu tố môi trường của các tiêu chuẩn về sản phẩm.

Bộ tiêu chuẩn này được ban hành để áp dụng cho các nhà sản xuất, dịch vụ, các tổ chức cơ sở lớn và nhỏ trên phạm vi toàn cầu có xém xét đến các yếu tố của khu vực phát triển và đang phát triển của thế giới một cách thích hợp và chấp nhận được đối với bất kỳ tổ chức cơ sở nào, không phân biệt loại hình hay hình thức hoạt động hoặc vị trí. Bộ tiêu chuẩn này cũng xem xét đến các điều kiện địa phương và phát triển kinh tế trong toàn bộ quá trình phát triển. Hệ thống luật quốc gia trên toàn cầu cũng được xem xét tới ở những chỗ có thể được.

Bộ tiêu chuẩn ISO14000 có thể thể hiện theo quan điểm đánh giá như sau:

4.3.3. Các tiêu chuẩn về đánh giá tổ chức

Các tiêu chuẩn về đánh giá tổ chức đưa các hướng dẫn để xây dựng một hệ thống quản lý môi trường cho các cơ sở sản xuất hoặc dịch vụ. Hệ thống quản lý môi trường theo ISO14000 yêu cầu một sự thay đổi trong cách thức quản lý khác với cách thức truyền thống là ở chỗ đòi hỏi sự chấp hành theo yêu cầu, mệnh lệnh hoặc chỉ quan tâm đến xử lý ô nhiễm ở công đoạn cuối đường ống. ISO 14000 yêu cầu phải tiếp cận vấn đề môi trường bằng cả một hệ thống quản lý, từ viện xác định và xem xét các đối tượng môi trường có liên quan. Nếu xét từ góc độ một công ty, ISO 14000 yêu cầu phải có một chính sách về bảo vệ môi trường và chính sách này phải được lập thành văn bản (được tài liệu hoá), được phổ biến và áp dụng trong toàn công ty cho tất cả các thành viên của công ty cũng như những người liên quan. Nhiệm vụ bảo vệ môi trường phải được đưa vào kế hoạch hoạt động của công ty.

Các tiêu chuẩn về đánh giá tổ chức:

4.3.4. Các tiêu chuẩn về đánh giá sản phẩm

Nhìn chung, các tiêu chuẩn về đánh giá tổ chức được đư vào khâu tổ chức của một cơ sở sản xuất, sự cam kết của các nhà quản lý đối với việc cải tiến và áp dụng chính sách môi trường trong cơ sở của mình, đối với việc đo đạc các tính năng môi trường cũng như tiến hành thanh tra môi trường tại chính cơ sở của mình. Các tiêu chuẩn về đánh giá sản phẩm sẽ thiết lập các nguyên lý và cách tiếp cận thống nhất đối với việc đánh giá các khía cạnh môi trường của sản phẩm. Các tiêu chuẩn này sẽ đặt ra nhiệm vụ cho các công ty phải lưu ý đến các thuộc tính của môi trường của sản phẩm ngay từ khâu thiết kế, chọn nguyên vật liệu cho đến khâu thải bỏ sản phẩm này ra môi trường.

Các tiêu chuẩn về đánh giá sản phẩm về cơ bản được thể hiện thông qua sơ đồ sau. (vẽ lại sơ đồ)

Các nội dung cơ bản của tiêu chuẩn ISO 14001 về hệ thống quản lý môi trường

4.4.1. Tiêu chuẩn ISO 14001

ISO 14001 là tài liệu quy định các yêu cầu đối với hệ thống quản lý trong bộ tiêu chuẩn ISO14000. Nó bao gồm các yêu tố mà các tổ chức cơ sở muốn được đăng ký hoặc chứng nhận phù hợp với tổ chức phải thỏa mãn. Các chức năng cơ bản của ISO14001 tương tự như đối với ISO9001, ISO9002 và ISO9003 trong bộ tiêu chuẩn ISO9000 được gọi là các tài liệu về yêu cầu đối với hệ thống quản lý.

Các yêu tố được chi tiết hoá trong ISO14001 phải được áp dụng, lập thành văn bản và thực hiện sao cho cơ quan chứng nhận bên thứ ba có thể xác minh và cấp giấy chứng nhận trên cơ sở của các bằng chứng xác thực rằng tổ chức/Công ty đó đã áp dụng một cách tốt nhất và có thể duy trì HTQLMT được. ISO14001 cũng thiết kế cho cac tổ chức cơ sở muốn công bố sự phù hợp với tiêu chuẩn cho các bên thứ hai có ý định sẵn sàng chấp nhận việc tự công bố mà không có sự can thiệp của bên thứ ba.

Thách thức chính đối với cả tổ chức áp dụng ISO14001 lẫn cơ quan Chứng nhận - Người sẽ kiểm tra đánh giá (auditing) sự phù hợp là tính thống nhất trong việc thể hiện các yêu cầu. Dưới đây là một số luận điểm về các yêu tố của yêu cầu đối với hệ thống quản lý môi trường cũng như làm sáng tỏ các khái niệm và thuật ngữ mơ hồ và dễ hiểu nhầm.

Cơ cấu của HTQLMT theo ISO 14001

Hệ thống quản lý môi trường là một phần của hệ thống quản lý chung bao gồm cả cơ cấu, kế hoạch, các hoạt động, trách nhiệm, thực hành, các thủ tục - quy trình, các quá trình và các nguồn lực để xây dựng và áp dụng, đạt tới, xem xét lại và duy trì chính sách môi trường (điều 3.5). Các yếu tố của hệ thống quản lý như đã mô tả trong phần định nghĩa và trong nhiều chỗ khác của tiêu chuẩn được thể hiện qua hình vẽ dưới đây:

Như đã thấy trong hình vẽ, các yếu tố của HTQLMT có thể thể hiện trên các ô của hình chóp, với các yếu tố căn bản là sự cam kết và chính sách môi trường tạo nên nền móng cho tất cả các phần cấu thành của HTQLMT. Nấc thứ hai của hình chóp bao gồm các mục đích, mục tiêu và các chỉ tiêu môi trường của tổ chức trong chương trình quản lý môi trường nhằm thiết lập các quá trình, thực hành, thủ tục, quy trình và quy định rõ trách nhiệm.

Tiêu chuẩn ISO14001 bắt buộc phải thiết lập nên một hoặc nhiều chương trình môi trường để đạt được các mục tiêu và các chỉ tiêu môi trường do tổ chức đề ra. Tính phù hợp và hiệu quả của HTQLMT được định kỳ đánh giá bởi các xem xét của lãnh đạo và các tiến bộ đạt được thông qua chương trình môi trường này. Sự tiến bộ đó được theo dõi bởi phân hệ đánh giá kết quả hoạt động môi trường cung cấp kết quả trực tiếp cho quá trình xem xét cuả lãnh đạo.

Một yếu tố đầu vào đáng kể khác đối với quá trình xem xét của lãnh đạo là việc kiểm tra đánh giá định kỳ HTQLMT bao gồm bốn nấc. Mục đích của các việc kiểm tra đánh giá này là xác định chắc chắn rằng HTQLMT được duy trì và nó đang làm việc theo cái cách mà nó đã dự kiến. Các cuộc kiểm tra đánh giá như vậy cũng được sử dụng để đánh giá sự phù hợp và bản thân quá trình xem xét của lãnh đạo. Việc xem xét của lãnh đạo là nấc thứ năm và nó được thiết kế để xác định tính đầy đủ, thích hợp và tính hiệu quả của HTQLMT bằng việc quản lý trên cơ sở tất cả các yếu tố đầu vào. Nấc cuối cùng làm nổi bật mục đích mấu chốt phải đạt được là cải tiến liên tục HTQLMT để đảm bảo rằng tổ chức cơ sở đã thoả mãn một cách đầy đủ và đáng tin cậy các nghĩa vụ môi trường và bảo vệ môi trường.

Khi xem xét theo cơ cấu hình chóp ta có thể dễ thấy được các yếu tố ở các nấc thấp nhất của HTQLMT là các khối mang ý nghĩa hỗ trợ cho các khối bên trên trong mối quan hệ thống nhất. Và việc đạt được sự cải thiện liên tục không thể thực hiện được nếu thiếu tất cả các khía cạnh của HTQLMT tại chỗ. HTQLMT được thiết kế để cung cấp cho các tổ chức một cơ cấu và phương thức tiếp cận hệ thống đến quản lý môi trường nói chung.

4.4.2. Mục đích, ý nghĩa cơ bản của ISO 14001

Tiêu chuẩn quốc tế ISO 14001 quy định các yêu cầu của hệ thống quản lý môi trường. Tiêu chuẩn được viết để áp dụng cho tất cả các loại hình, cỡ của các tiêu chuẩn/doanh nghiệp và thích hợp với các điều kiện xã hội, văn hoá, địa lý khác nhau. Thành công của hệ thống phụ thuộc vào sự cam kết từ tất cả các cấp và bộ phận chức năng, đặc biệt là cấp lãnh đạo cao nhất. Hệ thống loại này giúp cho tổ chức thiết lập, và tiếp cận đến các thủ tục có hiệu quả để đề ra chính sách và mục tiêu môi trường, đạt được các kết quả hoạt động với các mục tiêu và chính sách này và thể hiện sự phù hợp với các yêu cầu khác.

Mục đích tổng thể của tiêu chuẩn quốc tế này là trợ giúp cho việc bảo vệ môi trường và phòng ngừa ô nhiễm trên cơ sở cân đối với các nhu cầu kinh tế - xã hội.

Mục đích chính của tiêu chuẩn ISO 14001 là hỗ trợ cho các tổ chức áp dụng hoặc cải tiến một hệ thống quản lý môi trường. Mục đích này phù hợp với nguyên lý phát triển bền vững và thích hợp với các cơ cấu văn hoá, xã hội và tổ chức. Tiêu chuẩn quốc tế này bao gồm các ví dụ, các mô tả và sự lựa chọn nhằm giúp nhằm thực hiện một hệ thống quản lý môi trường cùng với việc tăng cường mối quan hệ của hệ thống quản lý môi trường với sự quản lý toàn bộ của tổ chức.

Tiêu chuẩn quốc tế này quy định những yêu cầu đối với hệ thống quản lý môi trường, để giúp cho một tổ chức có thể thiết lập chính sách và các mục tiêu có tính đến các yêu cầu pháp lý và thông tin về các tác động môi trường quan trọng. Tiêu chuẩn được áp dụng những vấn đề môi trường mà tổ chức có thể kiểm soát được và có thể tạo ảnh hưởng tới được. Bản thân tiêu chuẩn này không đưa những chuẩn cứ về kết quả hoạt động môi trường cụ thể.

4.4.3. Nội dung chính của tiêu chuẩn ISO 14001.

a). Định nghĩa về một số thuận ngữ.

Những thuật ngữ cần phải được làm rõ trong ISO 14001 như: Cải tiến liên tục; Môi trường; Khía cạnh môi trường; Tác động môi trường; Hệ thống quản lý môi trường; Đánh giá HTQLMT; Mục tiêu môi trường; Tính năng hoạt động môi trường; Chính sách môi trường; Nhiệm vụ môi trường; Các bên quan tâm; Tổ chức cơ sở; Ngăn ngừa ô nhiễm . Khi đã hiểu rõ các thuật ngữ là cơ sở cho việc thực hiện các nội dung tiếp theo đảm bảo tính chính xác và sát thực.

Các yêu cầu đối với hệ thống quản lý môi trường

Những yêu cầu cơ bản cho hệ thóng quản lý được xác định gồm: Yêu cầu chung; Yêu cầu về kế hoạch; Yêu cầu đối với việc áp dụng và vận hành; Yêu cầu đối với với việc kiểm tra và hành động khắc phục; Yêu cầu kiểm tra vận hành; Yêu cầu đối với việc sẵn sàng và đáp ứng cho những trường hợp khẩn cấp; Yêu cầu xem xét lại của lãnh đạo. Những yêu cầu này là các nội dung cần phải đạt được khi thực hiện ISO 14001.

Phần phụ lục hướng dẫn việc sử dụng các nội dung của tiêu chuẩn.

Phụ lục hướng dẫn nhằm làm sáng tỏ nội dung của tiêu chuẩn và đạt mục đích hướng dẫn.

d). Phần phụ lục về so sánh các nội dung tương đồng giữa ISO 14001 và ISO 9001

Trong bốn nội dung thì nội dung quan trọng nhất của tiêu chuẩn là các yêu cầu đối với hệ thống quản lý môi trường.

Trong phần này, tiêu chuẩn đề cập đến các yêu cầu cụ thể mà Tổ chức cơ sở phải thực hiện khi thiết lập hệ thống quản lý môi trường của mình trong đó quy định chi tiết hơn vào hai yêu cầu quan trọng nhất là yêu cầu về kế hoạch và yêu cầu về thực hiện và điều hành.

Trong yêu cầu về kế hoạch, nội dung quan trọng đầu tiên là phải xác định được các khía cạnh môi trường của các hoạt động, sản phẩm cũng như các dịch vụ của tổ chức/doanh nghiệp. Cần phải quan tâm đến việc phân tích, đánh giá các yêu cầu của luật pháp mà tổ chức cơ sở phải tuân thủ. Tổ chức cơ sở phải xác định các mục tiêu và chỉ tiêu môi trường rõ ràng cho các cấp và các bộ phận chức năng trong việc xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý môi trường. Trên cơ sở các dữ kiện được phân tích đánh giá, tổ chức/doanh nghiệp sẽ phải xây dựng và duy trì một chương trình quản lý môi trường để đật được các mục tiêu và chỉ tiêu môi trường đã đề ra.

Trong yêu cầu về áp dụng, tiêu chuẩn đã đề cập đến một loạt các vấn đề thực tế như: yêu cầu về cơ cấu và trách nhiệm, về đào tạo, hiểu biết và năng lực của các cán bộ nhân viên, yêu cầu về thông tin, hệ thống tài liệu của hệ thống quản lý môi trường và kiểm soát tài liệu, yêu cầu về kiểm tra vận hành hệ thống và đặc biệt là yêu cầu đối với việc sẵn sàng và đáp ứng cho các trường hợp khẩn cấp.

Toàn bộ các yêu cầu trong tiêu chuẩn quốc tế này được dự kiến kết hợp với bất kỳ một hệ thống quản lý chất lượng nào. Mức độ áp dụng sẽ phụ thuộc vào các yếu tố như chính sách môi trường của tổ chức, bản chất của các hoạt động của tổ chức và điều kiện hoạt động. Tiêu chuẩn quốc tế này cũng cung cấp chỉ dẫn mang tính thông tin về cách sử dụng những yêu cầu của tiêu chuẩn nêu trong phụ lục A.

Hệ thống quản lý môi trường đề ra trình tự và sự nhất quán đối với vấn đề liên quan đến môi trường của tổ chức thông qua việc phân bổ các nguồn lực, xác định trách nhiệm và đánh giá thực hành tiếp theo, các thủ tục và các quá trình.

ISO 14001 xem xét các yếu tố của một hệ thống quản lý môi trường và đưa ra chỉ dẫn thực tế về thực hiện hoặc tăng cường hệ thống này. Nó cũng cung cấp cho các tổ chức lời chỉ dẫn làm sao có thể bắt đầu xây dựng, cải tiến hoặc duy trì có hiệu quả một hệ thống quản lý môi trường. Một hệ thống như vậy là thiết yếu đối với khả năng của tổ chức dự báo và đáp ứng được những mục tiêu về môi trường và đảm bảo sự phù hợp liên tục với các yêu cầu quốc gia và/hoặc quốc tế.

Quản lý môi trường là một phần cấu thành của hệ thống quản lý toàn diện của một tổ chức. Việc thiết kế một hệ thống quản lý môi trường là một quá trình liên tục tác động qua lại. Cơ cấu, trách nhiệm, quy tắc, thủ tục, quá trình và nguồn lực để thực hiện các chính sách, mục tiêu và chỉ tiêu về môi trường phải được phối hợp với các nỗ lực hiện có trong các lĩnh vực khác (ví dụ: điều hành, tài chính, chất lượng, sức khoẻ nghề nghiệp an toàn).

4.4.4. Các nguyên tắc then chốt cho các nhà quản lý thực hiện hoặc tăng cường một hệ thống quản lý môi trường bao gồm (nhưng không hạn chế) các điểm sau:

Về cơ bản có mười nguyên tắc được xác định sau đây:

  • Công nhận việc quản lý môi trường là một trong số các ưu tiên phối hợp cao nhất;
  • Thiết lập và duy trì các mối quan hệ với các bên hữu quan ở bên trong và bên ngoài tổ chức;
  • Xác định các yêu cầu về pháp luật và các khía cạnh về môi trường có liên quan tới các hoạt động, sản phẩm hoặc dịch vụ của tổ chức.
  • Xây dựng cam kết của lãnh đạo và nhân viên đối với việc bảo vệ môi trường với sự phân công rõ ràng về trách nhiệm và nghĩa vụ;
  • Khuyến khích việc lập kế hoạch môi trường cho suốt chu trình sống của sản phẩm hoặc quá trình;
  • Thiết lập một quá trình để đạt được mức kết quả hoạt động đã đề ra;
  • Cung cấp các nguồn lực thích hợp và đầy đủ, bao gồm cả đào tạo, để liên tục đạt được các mức kết quả thực hiện đã đề ra;
  • Đánh giá kết quả thực hiện về môi trường theo các chính sách, mục tiêu và chỉ tiêu của tổ chức và tìm kiếm sự cải tiến khi cần thiết;
  • Thiết lập một quá trình quản lý để xem xét lại và kiểm tra đánh giá hệ thống quản lý môi trường và để xác định các cơ hội cải tiến hệ thống và kết quả hoạt động về môi trường đạt được;
  • Khuyến khích các nhà thầu và nhà cung cấp thiết lập một hệ thống quản lý môi trường

Các tổ chức có thể xem xét đến những cách thức sử dụng khác nhau sau đây của các tiêu chuẩn quốc tế về hệ thống quản lý môi trường:

- Sử dụng ISO 14001: 1996, hệ thống quản lý môi trường - yêu cầu và hướng dẫn sử dụng - nhằm đạt được chứng nhận của bên thứ ba hoặc tự động công bố về hệ thống quản lý môi trường của tổ chức.

- Sử dụng tiêu chuẩn ISO 14004 hoặc các phần của nó để bắt đầu và/hoặc cải tiến hệ thống quản lý môi trường của mình. Việc này không nhằm mục đích chứng nhận;

- Sử dụng tiêu chuẩn ISO 14004 như là bản hướng dẫn hoặc tiêu chuẩn ISO 14001 như là yêu cầu cho việc công nhận của bên thứ hai giữa các bên ký hợp đồng có thể là phù hợp cho mối quan hệ kinh doanh;

- Sử dụng các tài liệu ISO có liên quan

Việc lựa chọn sẽ phụ thuộc vào các vấn đề: thứ nhất là chính sách của tổ chức; thứ hai là mức độ trưởng thành của tổ chức, liệu sự quản lý theo hệ thống có thể tạo điều kiện cho việc đưa quản lý môi trường theo hệ thống vào thực hiện tại chỗ hay chưa; thứ ba là lợi thế và bất lợi có thể do chịu ảnh hưởng của những vấn đề như vị trí ở thị trường, tiếng tăm hiện có, các quan hệ với bên ngoài và thư tư là quy mô của tổ chức.

0