24/05/2018, 16:02

QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG-PHẦN II

Tại điều 37 chương 4 Luật bảo vệ môi trường của Việt Nam (12-1993) đã quy định nội dung quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường bao gồm: Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường, ban hành hệ thống tiêu ...

Tại điều 37 chương 4 Luật bảo vệ môi trường của Việt Nam (12-1993) đã quy định nội dung quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường bao gồm:

  • Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường;
  • Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường, sự cố môi trường;
  • Xây dựng, quản lý các các công trình bảo vệ môi trường, công trình có liên quan đến bảo vệ môi trường;
  • Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc, định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường, dự báo diễn biến môi trường;
  • Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án và các cơ sở sản xuất, kinh doanh;
  • Cấp, thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường;
  • Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường; giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo liên quan đến bảo vệ môi trường; xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường;
  • Đào tạo cán bộ về khoa học và quản lý môi trường; giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về bảo vệ môi trường;
  • Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường;
  • Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

Các nguyên tắc quản lý môi trường, trước hết, phải phản ánh các yêu cầu khách quan của các quy luật tự nhiên, kinh tế và xã hội đang chi phối quá trình quản lý môi trường. Điều đó có nghĩa là muốn thực hiện đầy đủ và có hiệu quả các nguyên tắc quản lý môi trường, cần phải nghiên cứu, nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan vào điều kiện cụ thể của đối tượng quản lý.

Đối với nước ta, quản lý môi trường cần dựa vào những nguyên tắc sau đây:

  • Bảo đảm tính hệ thống

Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất hệ thống của đối tượng quản lý. Dưới ánh sáng của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, môi trường cần được hiểu như là một hệ thống động phức tạp, bao gồm nhiều phần tử hợp thành. Các phần tử đó có bản chất tự nhiên và xã hội khác nhau, bị chi phối bởi các quy luật khác nhau, hoạt động không đồng hướng, thậm chí mâu thuẫn và đối lập nhau. Nhiệm vụ của quản lý môi trường là trên cơ sở thu nhập, tổng hợp và xử lý thông tin về trạng thái hoạt động của đối tượng quản lý (hệ thống môi trường) đưa ra các quyết định quản lý phù hợp, thúc đẩy các phần tử cấu thành hoạt động đều đặn, cân đối, hài hoà hướng tới mục tiêu đã định.

  • Bảo đảm tính tổng hợp

Nguyên tắc này được xây dựng trên cơ sở tác động tổng hợp của hoạt động phát triển lên đối tượng quản lý. Các hoạt động phát triển thường thường diễn ra dưới nhiều hình thái rất đa dạng (hoạt động sản xuất, hoạt động tiêu thụ, hoạt động thương mại, hoạt động dịch vụ, hoạt động đầu tư, sinh hoạt vật chất và tinh thần của các cộng đồng, v.v . . .). Dù dưới hình thức nào, qui mô và tốc độ hoạt động ra sao, mỗi loại hoạt động, trực tiếp hay gián tiếp, mạnh hay yếu, đều gây ra tác động tổng hợp lên đối tượng quản lý (hệ thống môi trường). Vì thế, trong khi hoạch định chính sách và chiến lược môi trường, trong việc đề ra các quyết định quản lý môi trường cần phải tính đến tác động tổng hợp và hậu quả của chúng.

  • Bảo đảm tính liên tục và nhất quán

Môi trường là một hệ thống liên tục, tồn tại, hoạt động và phát triển thông qua chu trình trao đổi vật chất, năng lượng và thông tin “chảy” liên tục trong không gian và thời gian. Có thể nói, hoạt động của hệ thống môi trường không phân ranh giới theo thời gian và không gian. Đặc tính này quy định tính nhất quán và tính liên tục của tác động quản lý lên môi trường, đòi hỏi không ngừng nâng cao năng lực dự đoán và xử lý tổng hợp cũng như bản lĩnh của quản lý vĩ mô của Nhà nước.

  • Bảo đảm tập trung dân chủ

Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của quản lý kinh tế và quản lý xã hội. Quản lý môi trường được thực hiện nhiều cấp khác nhau. Vì thế, cần phải bảo đảm mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu giữa tập trung và dân chủ trong quản lý môi trường. Tập trung phải thực hiện trên cơ sở trong bàn bạc, quyết định các vấn đề có liên quan tới môi trường theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Ngược lại, dân chủ phải thực hiện trong khuôn khổ tập trung, không mâu thuẫn, đối với tập trung, tránh lãng phí nguồn lực của xã hội. Tập trung được biểu hiện thông qua kế hoạch hoá các hoạt động phát triển, ban hành và thực thi hệ thống pháp luật về môi trường, thực hiện chế độ trách nhiệm của người đứng đầu các các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, hộ gia đình ở tất cả các cấp quản lý, v.v. . . Dân chủ được biểu hiện ở việc xác định rõ vị trí, trách nhiệm, quyền hạn của các cấp quản lý, ở việc áp dụng rộng rãi kiểm toán và hạch toán môi trường, ở sử dụng ngày càng nhiều các công cụ kinh tế vào quản lý môi trường nhằm tạo ra mặt bằng chung, bình đẳng cho mọi ngành, mọi cấp, mọi địa phương, ở việc tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức, ý thức môi trường cho các cá nhân và cộng đồng, v.v...

  • Kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ

Các thành phần môi trường như không khí, nước, đất, âm thanh, ánh sáng, lòng đất, núi, rừng, sông , hồ, biển, sinh vật, các hệ sinh thái, các khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và các hình thái vật chất khác thường do một ngành nào đó quản lý và sử dụng. Nhưng các thành phần môi trường lại được phân bố, khai thác và sử dụng trên một địa bàn cụ thể thuộc quyền quản lý của một cấp địa phươn tương ứng. Cùng một thành phần môi trường có thể chịu sự quản lý song trùng. Nếu không kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ thì sẽ làm giảm hiệu lực và hiệu quả của quản lý môi trường, tài nguyên thiên nhiên tiếp tục bị khai thác, sử dụng không hợp lý và lãng phí, môi trường tiếp tục bị suy thoái.

  • Kết hợp hài hoà các loại lợi ích

Quản lý môi trường trước hết là quản lý các hoạt động phát triển do con người (cá nhân hay cộng đồng) tiến hành, là tổ chức và phát huy tính tích cực hoạt động của con ngườu vì mục đích phát triển bền vững. Con người, dù là cá nhân, tập thể hay cộng đồng, đều có những lợi ích, những nguyện vọng và những nhu cầu nhất định. Do đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lý môi trường là phải chú ý đến lợi ích của con người, để khuyến khích có hiệu quả hành vi và thái độ ứng xử phù hợp với mục tiêu bảo vệ môi trường của họ. Lợi ích không những là sự vận động tự giác, chủ quan của con người nhằm thoả mãn một nhu cầu nào đó mà còn là động lực to lớn nhằm phát huy tính tích cực, chủ đồng của con người, là phương tiện hữu hiệu của quản lý môi trường, cho nên phải sử dụng nó để khuyến khích các hoạt động có lợi cho môi trường.

Kết hợp hài hoà các lợi ích (lợi ích cá nhân, hộ gia đình; lợi ích của doanh nghiệp, ngành; lợi ích của Nhà nước, xã hội; lợi ích của cộng đồng địa phương, vùng và quốc gia) phải được tiến hành trên cơ sở những đòi hỏi của các quy luật khách quan thông qua các biện pháp chủ yếu sau đây:

+ Thực thi chính sách môi trường khách quan, đúng đắn, phù hợp với điều kiện và đặc điểm phát triển đất nước trong từng thời kỳ. Chính sách môi trường đó phải phản ánh lợi ích cơ bản và lâu dài của quốc gia, của toàn xã hội, cũng tức là lợi ích của mọi thành viên trong xã hội.

+ Xây dựng và thực hiện các quy hoạch và kế hoạch về môi trường chuẩn xác, có tầm nhìn xa, có tính khả thi cao và quy tụ lợi ích của cả hệ thống.

+ Thực hiện đầy đủ và nghiêm ngặt chế độ kế toán và kiểm toán môi trường, sử dụng đúng đắn và rộng rãi các khuyến khích, đòn bẩy kinh tế để quản lý môi trường một cách có hiệu quả, nhất là trong thời kỳ quá độ của nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường.

Kết hợp hài hoà các lợi ích còn bao hàm sự kết hợp lợi ích quốc gia, lợi ích khu vực và lợi ích quốc tế, bởi vì bảo vệ môi trường đã trở thành vấn đề toàn cầu, là một trong những đặc trưng cơ bản của thời đại của nước ta trong tiến trình hội nhập vào khu vực và thế giới.

  • Kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa quản lý tài nguyên và môi trường với quản lý kinh tế, quản lý xã hội.

Để đạt tới mục tiêu phát triển bền vững, hướng đến một xã hội bền vững trong tương lai, ngay từ đầu và trong suốt quá trình phát triển, phải kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa quản lý tài nguyên và môi trường với quản lý kinh tế, quản lý xã hội thông qua việc hoạch định chính sách và chiến lược phát triển đúng đắn, có tầm bao quát và có tính tổng hợp, thông qua quá trình hoà nhập các kế hoạch và đầu từ về môi trường vào các kế hoạch và đầu tư về kinh tế - xã hội ở tất cả mọi khâu, mội cấp quản lý của Nhà nước.

  • Tiết kiệm và hiệu quả

Quản lý một đối tượng vô cùng quan trọng và phức tạp như môi trường đòi hỏi những nguồn lực ngày càng nhiều trong khi phải bảo đảm nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Giải pháp tối ưu cho việc nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về môi trường là thực thi tiết kiệm và tăng hiệu quả. Tiết kiệm và hiệu quả là hai mặt liên quan chặt chẽ với nhau của quản lý môi trường: làm sao để với những nguồn vật chất và kỹ thuật, kinh tế và tài chính, lực lượng lao động xã hội, trình độ khoa học và công nghệ, v.v... hiện có và sẽ có trong từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội, có thể khai thác, sử dụng tài nguyên một cách tốt nhất. Đó chính là yêu cầu của nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả của quản lý môi trường. Nguyên tắc này có thể được thực hiện thông qua vịêc hoạch định chính sách và chiến lược bảo vệ môi trường của quốc gia, phù hợp với việc giảm tiêu hao tài nguyên và chi phí nguyên vật liệu bằng cách áp dụng kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến có ít hoặc không có chất thải, cải tiến kết cấu sản phẩm, giảm khối lượng và trọng lượng; sử dụng các vật liệu thay thế các tài nguyên khan hiếm, tận dụng và tái chế phế liệu; tiết kiệm lao động ở tất cả mọi khâu của qui trình quản lý; bảo đảm đầu tư vật chất và tài chính có trọng điểm, tránh đầu tư dàn trải, phân tán, coi trọng đầu tư đồng bộ và có hệ thống cho quản lý môi trường, v.v..

Những khái niệm cơ bản.

a. Khái niệm về sản xuất sạch hợn (SXSH)

Khái niệm về sản xuất sạch hơn lần đầu tiên được UNEP giới thiệu vào năm 1989 (Cleaner Product) . Đây được coi như câu trả lời cho câu hỏi đặt ra là: làm thế nào để ngành công nghiệp có thể hoạt động theo hướng phát triển bền vững.

SXSH có nghĩa là việc áp dụng một cách có hệ thống các biện pháp phòng ngừa trong các quy trình, sản phẩm hoặc dịch vụ nhằm mục tiêu tăng hiệu quả tổng thể. Điều này đến lượt mình lại giúp cải thiện tình trạng môi trường, tiết kiệm chi phí, giảm rủi ro cho con người và cho môi trường.

  • Đối với các quy trình sản xuất. SXSH bao gồm việc bảo quản nguyên liệu, năng lượng, loại bỏ các nguyên liệu độc hại, giảm bớt số lượng và mức độ độc hại của các chất thải gây ô nhiễm ngay từ giai đoạn trước khi chúng được thải ra môi trường.
  • Đối với các sản phẩm. SXSH chú trọng việc giảm bớt các tác động có hại trong suốt chu trình sản phẩm, ngay từ khi khai thác các nguyên liệu, cho đến khi giao nộp sản phẩm.
  • Đối với các dịch vụ. Phương pháp phòng ngừa ô nhiễm môi trường bao gồm từ khâu thiết kế, cải tiến việc quản lý nhà xuởng, đến khâu lựa chọn các loại đầu vào (dưới dạng các sản phẩm).

Các khái niệm khác như hiệu quả sịnh thái, giảm thiểu chất thải hay phòng ngừa ô nhiễm đều có chung một mục tiêu là loại trừ hay giảm thiểu ô nhiễm, chất thải ngay tại nguồn, nơi chúng được sinh ra. Tuy nhiên, chiến lược SXSH khác ở chỗ đây là một hệ thống các phương pháp, thủ tục đánh giá các nguyên nhân gây ra ô nhiễm, phát sinh chất thải và phát triển các phương án có thể được áp dụng trên thực tiễn. Hệ thống này được thiết kế một cách có bài bản, nhằm giải quyết các vấn đề môi trường cụ thể. Hơn nữa, nội dung chiến lược SXSH còn bao gồm hệ thống quản lý SXSH được xác định rõ ràng cho phép liên tục cải thiện tình hình kinh tế và môi trường của đơn vị.

Không nên nhìn nhận SXSH với tư cách là chiến lược chỉ trong lĩnh vực môi trường, vì nó còn bao gồm trong đó cả những nội dung kinh tế quan trọng. Trong bối cảnh của chiến lược này, chất thải được coi là một loại "sản phẩm" có giá trị kinh tế âm. Mọi hoạt động làm giảm mức tiêu thụ nguyên vật liệu, năng lượng, ngăn ngừa hoặc làm giảm bớt việc phát sinh chất thải, đều có tác dụng nâng cao năng suất, đem lại lợi ích tài chính cho doanh nghiệp.

Cách tiếp cận theo kiểu phòng ngừa còn có nghĩa rằng các vấn đề về môi trường phải được giải quyết trước khi chúng có thể phát sinh. Tức là ngay từ khâu lựa chọn việc thực hiện các quy trình, các loại nguyên vật liệu, mẫu thiết kế, phương tiện vận tải, dịch vụ, vv... Các tiếp cận này giúp giải quyết có hiệu quả vấn đề tiết kiệm tài nguyên vì rằng ô nhiễm không những chỉ làm xuống cấp môi trường, mà còn là dấu hiệu cho thấy rõ tính kém hiệu quả của quy trình sản xuất hoặc quản lý. Trên thực tế SXSH có nghĩa là:

  • Tránh hoặc giảm bớt lượng chất thải được sản sinh ra;
  • Sử dụng có hiệu quả các nguồn năng lượng và nguyên vật liêu;
  • Sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ có lợi cho môi trường;
  • Giảm bớt lượng chất thải xả vào môi trường, giảm chi phí và tăng lợi ích.

b. Các nguyên tắc và các phương pháp SXSH

Nguyên tắc cảnh giác. Nguyên tắc phòng ngừa không chỉ đơn giản là làm thế nào để không vi phạm pháp luật, mà còn có nghĩa là bảo đảm để người lao động được bảo vệ, không bị mắc các chứng bệnh khó chữa chạy, hoặc nhà máy tránh được những tổn hại không đáng có. Nguyên tắc cảnh giác đòi hỏi giảm bớt một phần sự can thiệp của con người vào môi trường. Điều này, đặt ra yêu cầu phải có sự thiết kế lại một cách căn bản hệ thống sản xuất và tiêu thụ trong ngành công nghiệp, cải thiện nếp cũ vẫn tồn tại cho đến nay đó là vẫn chủ yếu dựa vào việc tăng khối lượng sử dụng các nguồn nguyên vật liệu (Jackson Tim, 1993).

Nguyên tắc phòng chống. Nguyên tắc phòng chống cũng có tầm quan trọng không kém, đặc biệt trong các trường hợp một sản phẩm hay một quy trình công nghệ được sử dụng lại chính là nguyên nhân gây ra những tổn hại về mặt môi trường. Nguyên tắc phòng chống được sử dụng nhằm tạo ra những thay đổi ngay từ những khâu đầu tiên của hệ thống sản xuất hoặc tiêu dùng. Bản chất "phòng chống" của SXSH đòi hỏi phải có cách tiếp cận mới trong khi cân nhắc các mẫu sản phẩm, nhu cầu tiêu dùng, các mô hình tiêu thụ nguyên vật liệu, và thực tế là đòi hỏi phải có cách tiếp cận hoàn toàn mới đối với toàn bộ cơ sở vật chất của hoạt động kinh tế ( Jackson Tim, 1993).

Nguyên tắc tích hợp. Tích hợp là việc áp dụng một cách nhìn tổng hợp đối với toàn bộ chu trình sản xuất và phương pháp trong việc thực hiện ý tưởng này, thông qua phân tích chu trình sống của sản phẩm. Một trong những khó khăn khi thực hiện cách tiếp cận phòng chống là việc tích hợp cùng một lúc nhiều biện pháp bảo vệ môi trường, qua nhiều ranh giới khác nhau của hệ thống. Theo truyền thống, những quy định pháp lý của cách tiếp cận cuối đường ống thường được áp dụng bằng cách tìm kiếm những biện pháp tích hợp nhằm giảm bớt nhu cầu xả các chất thải vào môi trường, những biện pháp này sẽ tạo ra sự bảo vệ có tính toàn diện cho môi trường với tư cách là một tổng thể (Jackson tim, 1993).

Có thể thực hiện SXSH bằng cách áp dụng bí quyết công nghệ, cải tiến kỹ thuật, hoặc chỉ đơn giản bằng cách thay đổi cách tư duy, quan điểm của mình. Nội dung thực tiễn của SXSH là những biện pháp phòng ngừa sau đây:

- Quản lý nhà xưởng tốt: Những quy định hợp lý về quản lý và tác nghiệp nhằm ngăn ngừa các chất ô nhiễm bị rò rỉ hoặc trào ra ngoài (ví dụ: Qui định thời gian biểu cho việc bảo dưỡng thường xuyên, hoặc thực hiện các cuộc duy tu thiết bị theo định kỳ) và bắt buộc thực thi các hướng dẫn về an toàn lao động hiện có (ví dụ: Thông qua việc giám sát kỹ càng, hoặc bằng cách tập huấn, vv...).

- Thay thế đầu vào: Thay thế các vật liệu đầu vào bằng những vật liệu khác ít độc hại hơn, dễ tái tạo hơn, hoặc thêm vào các vật liệu phụ gia (ví dụ: Dầu bôi trơn, chất làm nguội máy móc, chất tẩy rửa, vv...) để tăng tuổi thọ cho sản phẩm.

- Kiểm soát tốt hơn đối với quy trình sản xuất: Cải tiến quá trình làm việc, hướng dẫn sử dụng máy móc và thực hiện việc ghi chép theo dõi đầy đủ quy trình công nghệ nhằm đạt được mức hiệu quả sản xuất cao hơn, với mức phát thải thấp hơn và xả chất độc hại ít hơn.

- Thay đổi trang thiết bị: Thay đổi các trang thiết bị hoặc vật dụng hiện có (Ví dụ: bằng cách bổ sung thêm vào dây chuyền các bộ phận đo lường hoặc kiểm soát nhằm đạt được hiệu quả cao hơn, với mức phát thải thấp hơn và xả chất độc hại ít hơn).

- Thay đổi công nghệ: Thay thế công nghệ, thay đổi trình tự trong dây chuyền sản xuất, hoặc cách thức tổng hợp, nhằm giảm thiểu chất thải và chất gây ô nhiễm trong khi sản xuất.

- Thay đổi sản phẩm: Thay đổi các tính chất đặc trưng của sản phẩm, nhằm giảm thiểu tác động độc hại của sản phẩm đó đối với môi trường, cả trước và sau khi sản phẩm được đưa vào sử dụng, hoặc làm giảm thiểu ảnh hưởng của việc sản xuất loại sản phẩm đó đối với môi trường.

- Sử dụng năng lượng có hiệu quả: Năng lượng là nguồn đầu vào có khả năng gây ra các tác động môi trường rất đáng kể. Việc khai thác các nguồn năng lượng có thể gây tác hại đối với đất, nước, không khí, và đa dạng sinh học, hoặc là nguyên nhân làm phát sinh một số lượng lớn chất thải rắn. Những tác động môi trường phát sinh từ việc sử dụng năng lượng có thể được giảm bớt bằng cách sử dụng năng lượng một cách hiệu quả hơn, hoặc bằng cách thay thế nguồn năng lượng sạch hơn như mặt trời, năng lượng gió.

- Tái chế, tái sử dụng ngay tại chỗ : Tái sử dụng các nguồn vật liệu bị thải ra ngay trong quy trình sản xuất đó, hoặc sử dụng cho các mục đích khác ngay trong phạm vi một doanh nghiệp hoặc công ty.

c. So sánh SXSH và phương pháp cuối đường ống.

Khái niệm SXSH hoàn toàn khác về mặt bản chất so với khái niệm kiểm soát ô nhiễm cuối đường ống. Các công nghệ kiểm soát cuối đường ống bao gồm việc sử dụng hàng loạt các kỹ thuật và sản phẩm (các hoá chất) để xử lý chất thải, các nguồn phát thải khí và chất lỏng. Các công nghệ này nhìn chung không làm giảm lượng chất thải phát sinh. Chúng chỉ có thể giúp làm giảm độ độc hại, và trên thực tế chỉ trung chuyển ô nhiễm từ một dạng này, sang một dạng khác mà thôi (ví dụ: Chất ô nhiễm không khí được chuyển qua thành nước thải trong khi nước thải được phát ra lại có thể chuyển ô nhiễm sang các chất thải rắn).

Sự khác biệt chủ yếu giữa biện pháp kiểm soát ô nhiễm và SXSH là ở việc xác định thời điểm tiến hành các biện pháp này. Biện pháp kiểm soát ô nhiễm cuối đường ống được tiến hành sau khi các chất thải ô nhiễm đã được phát sinh, nên còn gọi là biện pháp "phản ứng và xử lý", trong khi đó SXSH là biện pháp chủ động, "biết trước và phòng ngừa". Phòng bệnh bao giờ cũng tốt hơn chữa bệnh.

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các biện pháp cuối đường ống sẽ không còn cần thiết nữa. Bằng cách áp dụng SXSH để đấu tranh với vấn đề ô nhiễm và chất thải, mức độ phụ thuộc vào các giải pháp cuối đường ống có thể được giảm bớt và trong một số trường hợp có thể dẫn đến loại bỏ hoàn toàn.

Bảng 2.6. Những khác biệt chủ yếu giữa SXSH và các biện pháp kiểm soát ô nhiễm

SXSH Kiểm soát ô nhiễm và quản lý chất thải
Liên tục cải tiến 1 giải pháp cho một vấn đề
Tiến bộ theo hướng sử dụng các quy trình khép kín hoặc theo chu kỳ Các quy trình sản xuất làm phát sinh các phế liệu phát thải ra môi trường, tạo ra một đường ống với đầu vào là nguyên vật liệu và đầu ra là chất thải
Mọi thành viên trong cộng đồng đều có vai trò của mình; sự cộng tác và phối hợp hết sức cần thiết Các giảipháp được thiết kế bởi các chuyên gia, thường không gắn với thực tiễn
Chủ động nhận biết và tìm cách phòng chống ô nhiễm và chất thải Có những phản ứng thụ động đối với ô nhiễm và chất thải sau khi chúng đã phát sinh ra
Loại trừ các vấn đề môi trường ngay từ nguồn phát sinh Các chất ô nhiễm được kiểm soát bằng các thiết bị và phương pháp xử lý chất thải
Phát triển những phương pháp, quan điểm và các kỹ thuật quản lý mới, thúc đẩy tiến bộ khoa học-kỹ thuật Chủ yếu dựa vào những cải tiến kỹ thuật đối với những công nghệ hiện đã tồn tại

d. Tại sao phải có SXSH ?

SXSH giúp làm giảm mức độ ô nhiễm và rủi ro cho môi trường. Việc sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn nguyên vật liệu và tối ưu hoá các quy trình sản xuất sẽ làm giảm bớt chất thải và ô nhiễm phát sinh; điều này sẽ làm cho chi phí sản xuất giảm xuống. Việc chú trọng bảo vệ sức khoẻ và an toàn lao động cũng đem lại các hiệu ứng tích cực đối với năng suất lao động, giúp làm giảm tai nạn lao động.

SXSH có vai trò đặc biệt quan trọng tại các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi vì tại các nước này, việc tiêu thụ nguyên vật liệu và năng lượng tại các xí nghiệp còn ở mức tương đối cao.

e. Lợi ích của SXSH là gì ?

Việc áp dụng rộng rãi các biện pháp SXSH có thể mang lại những lợi ích rất đáng kể, ví dụ:

Cải thiện tình trạng môi trường: SXSH có thể tạo ra những cải thiện về môi trường mà các văn bản pháp quy không bao trùm hết, như làm tăng tính hiệu quả của việc sử dụng nước hoặc năng lượng, giảm thiểu chất thải, giảm lượng nguyên vật liệu độc hại được đưa vào sử dụng, giảm mức sử dụng các nguồn tài nguyên, duy trì chất lượng đất trồng, giảm mức ô nhiễm do hiệu ứng nhà kính. SXSH còn giúp cải thiện điều kiện làm việc và bảo vệ tốt hơn chất lượng nước và không khí.

Giảm chi phí tổng thể: SXSH giúp làm giảm mức phát sinh chất thải, mức tiêu thụ nguyên vật liệu, năng lượng và nước. Vì thế các chi phí cũng giảm đi đáng kể. Các hoạt động bảo vệ môi trường không còn là những chi phí bổ sung như trước nữa. Nếu tính toán một cách tổng thể, thì SXSH giúp làm giảm các chi phí này, nhờ việc giảm bớt chi phí đầu vào như chi phí cho nguyên vật liệu, năng lượng, chi phí để xử lý chất thải.

Việc tránh làm phát sinh chất thải giúp tiết kiệm tiền bạc vì nó đã loại trừ được những chi phí xử lý hoặc đổ bỏ chất thải, cũng như những chi phí để mua nguyên vật liệu hoặc dịch vụ bị biến thành phế thải trong quá trình sản xuất.

Một số dự án SXSH đã giúp phục hồi lại những phế phẩm có giá trị, có thể được sử dụng hoặc đem bán, và vì thế sẽ giúp làm tăng lợi ích kinh tế cho người sản xuất.

Tăng năng suất: Hiệu quả và năng suất các hoạt động của một công ty có thể được cải thiện bằng nhiều cách thông qua ứng dụng SXSH. Những lợi ích chủ yếu SXSH mang lại là:

- Độ tin cậy cao hơn của thời gian biểu và các kế hoạch ngân sách.

- Sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn nhân tài vật lực.

- Cải tiến điều kiện làm việc.

- Giảm bớt các nghĩa vụ pháp lý.

Tăng lợi thế so sánh: áp dụng SXSH sẽ làm tăng lợi thế so sánh của các công ty. Các công ty có hiện trạng môi trường tốt và các sản phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường sẽ có lợi thế trên thị trường. Lý do là ở chỗ hiện nay người tiêu dùng ngày càng ý thức rõ ràng hơn về vấn đề môi trường.

Môi trường liên tục được cải thiện: Có lẽ đây là lợi ích quan trọng nhất; áp dụng SXSH bảo đảm rằng môi trường được cải thiện một cách liên tục; điều này chính là yếu tố căn bản để đạt được phát triển bền vững. Việc công nhận rằng mọi hoạt động đều ẩn chứa trong mình tiềm năng cho việc cải thiện tình trạng môi trường cũng là một trong những vấn đề không kém phần quan trọng.

f. Cái gì không phải là SXSH ?

Hiện có rất nhiều các biện pháp chống ô nhiễm hoặc kiểm soát chất thải được thực hiện chỉ sau khi ô nhiễm hoặc chất thải đã phát sinh. Những biện pháp sau đây không thể được coi là sản xuất sạch hơn:

Tái chế ngoài phạm vi xí nghiệp là biện pháp rất được ưa chuộng trong số những biện pháp giải quyết chất thải, vì nó giúp tiết kiệm nguyên liệu và giảm lượng nguyên liệu bị đổ bỏ sau đó. Tuy nhiên, việc vận chuyển chất thải và bản thân quá trình tái chế có thể đe dọa ảnh hưởng sức khoẻ của người lao động hoặc gây ô nhiễm cho môi trường. Nhìn chung, phương pháp này không đem lại hiệu quả sử cao cho bản thân xí nghiệp thực hiện nó.

Di chuyển các chất thải độc hại sang một môi trường trung gian khác cũng không thuộc phạm trù các biện pháp SXSH. Các hoạt động quản lý chất thải chủ yếu từ trước đến nay mới chỉ đơn giản là thu gom các chất ô nhiễm và chuyển chúng từ một môi trường trung gian này đến một địa điểm khác mà thôi. Ví dụ, các dung môi có thể được lấy ra khỏi nước thải bằng cách sử dụng các chất hút bám các-bon được làm giảm. Tuy nhiên, để có thể phân huỷ được lượng các-bon đó đòi hỏi phải sử dụng một loại dung môi khác hoặc phải đốt, tức là phải chuyển chất thải vào môi trường không khí. Trong các trường hợp này, việc chuyển chất thải độc hại từ môi trường này sang môi trường khác là cách xử lý duy nhất. Trên thực tế, mục tiêu đặt ra thường là chuyển ô nhiễm sang một môi trường khác ít bị kiểm soát hơn về mặt luật pháp mà thôi.

Xử lý chất thải trước khi đổ bỏ nhằm làm giảm độ độc hại hoặc làm giảm nhu cầu về địa điểm để đổ bỏ chất thải, nhưng không phải là loại trừ chất gây ô nhiễm. Xử lý chất thải bao gồm các quy trình như: Giảm khối lượng, pha loãng, giảm độ độc hại hoá chất gây ô nhiễm, nén thành khối, bọc vỏ, cô đặc các chất độc hoặc nguy hiểm để giảm bớt khối lượng.

Các công đoạn làm giảm khối lượng (như rút bớt nước trong các chất thải) là những phương pháp xử lý chất thải rất hữu dụng, nhưng chúng không giúp làm giảm bớt chất gây ô nhiễm. Ví dụ phương pháp nén lọc và làm khô loại bùn đặc bị ô nhiễm do các chất kim loại nặng trước khi đem đổ bỏ có thể làm giảm bớt hàm lượng nước trong bùn và vì thế làm giảm khối lượng loại chất thải này, nhưng phương pháp này không làm giảm được hàm lượng kim loại nặng chứa trong lớp bùn đó.

Làm loãng thành phần chất thải để giảm bớt độ độc hại và nguy hiểm. Phương pháp làm loãng được áp dụng đối với các dòng chất thải sau khi ô nhiễm đã phát sinh và vì vậy không giúp làm giảm số lượng tuyệt đối của các chất độc hại thải vào môi trường.

g. Sản xuất sạch hơn: Lợi ích và những rào cản:

Có thể phân chia các cản trở đối với việc áp dụng SXSH tại các doanh nghiệp thành 2 phạm trù như sau:

Các rào cản trong nội bộ doanh nghiệp:

- Thiếu thông tin và kiến thức chuyên môn. Trong rất nhiều trường hợp, các công ty không có đủ cán bộ chuyên môn và kỹ năng để áp dụng các phương pháp SXSH, hoặc không có đủ thông tin về loại công nghệ cụ thể. Thông thường, họ vẫn quen nghĩ rằng bảo vệ môi trường là những hoạt động tốn nhiều tiền bạc.

- Nhận thức về môi trường thấp;

- Các ưu tiên về cạnh tranh trong kinh doanh, cụ thể là sức ép về các nguồn lợi có tính ngắn hạn.

- Những khó khăn về tài chính;

- Thiếu những mối giao lưu giữa các doanh nghiệp;

- Sự trì trệ của các nhà quản lý.

- Những khó khăn về nguồn nhân lực

Các cản trở từ bên ngoài:

- Sự yếu kém của hệ thống quy phạm pháp luật: Nếu các bộ phận quản lý nhà nước thực hiện tốt nhiệm vụ của họ trong việc xác định những hành động phù hợp, thì các công ty đã không cần phải gánh trách nhiệm lập kế hoạch quản lý tích hợp cho môi trường, thực chất các cơ quan quản lý nhà nước chỉ giữ vai trò như những người chủ đạo đề ra các quy định, các tiêu chuẩn cho môi trường.

- Khó khăn trong việc tiếp cận các công nghệ SXSH.

- Khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn tài chính từ bên ngoài.

- Hiện đang tồn tại rất nhiều động cơ tiềm tàng cho việc áp dụng SXSH. Các động cơ này cũng có thể được phân chia thành 2 dạng như sau:

Các động cơ bên trong (một công ty).

- Hệ thống quản lý môi trường và việc liên tục cải thiện môi trường.

- Giới lãnh đạo về môi trường của công ty: Tại những công ty có ban lãnh đạo thực sự cam kết với ý tưởng áp dụng các phương pháp SXSH, thì chắc chắn sẽ gây được "hiệu ứng lan toả", tức là các thành viên khác trong công ty cũng có cam kết mạnh hơn đối với vấn đề môi trường.

- Các báo cáo môi trường của công ty: Làm báo cáo cũng có thể là một phương pháp hữu dụng để các công ty có thể phổ biến các thông tin về hoạt động môi trường của họ đến các bên có liên quan; và hơn thế nữa, các báo cáo còn có thể được sử dụng như một công cụ dự báo nội bộ đối với SXSH.

- Hạch toán môi trường: Có nhiều hình thức hạch toán môi trường được áp dụng với mục đích làm giảm bớt vai trò chủ đạo của các hệ thống hạch toán tài chính hẹp hòi hiện nay. Hạch toán môi trường hiện đang được coi là lĩnh vực có tiềm năng lớn trong những đóng góp vào không chỉ các thành tựu kinh doanh, mà còn cả cho phát triển bền vững.

- Cải thiện về năng suất.

 Các động cơ từ bên ngoài:

- Đổi mới trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật.

- Các công cụ khuyến khích kinh tế như thuế, các khoản trợ cấp, các giấy phép phát thải ô nhiễm, có thể được áp dụng để đẩy nhanh tốc độ thực hiện SXSH. Các công cụ khuyến khích kinh tế có thể mang tính tích cực như các khoản trợ cấp, giảm thuế, hoặc cũng có thể dưới các dạng không được mong muốn như thuế hoặc phí môi trường.

- Giáo dục và đào tạo;

- Quan hệ giữa người mua- người bán. Đặc biệt những công ty lớn thường hay áp đặt các sản phẩm hoặc quy trình của mình cho các công ty khác, lợi dụng thế lực thị trường của mình để gây ảnh hưởng đối với hành vi của các bên cung ứng đầu nguồn, cũng như đối với các bên tiêu thụ ở cuối nguồn.

- Các khoản vay lãi suất thấp của các cơ quan tài chính.

- Sự tham gia của cộng đồng: Chế độ khen thưởng chính thức có thể là một trong những phương pháp để các công ty "trình làng" rằng họ đã áp dụng SXSH. Tính chất công khai của việc khen thưởng cũng có thể là một dạng công cụ giáo dục nhằm nâng cao nhận thức công chúng.

- Các công cụ khuyến khích trong thương mại quốc tế: Trong nền kinh tế ngày càng được toàn cầu hoá mạnh hơn, sức mạnh ảnh hưởng của các công ty thương mại lớn đối với các quy trình sản xuất kinh doanh của các công ty chắc chắn sẽ ngày càng tăng. Sức mạnh này sẽ được thể hiện một cách chính thức thông qua những yêu cầu cụ thể, cũng có thể được thể hiện một cách phi chính thức thông qua những lựa chọn của người tiêu thụ tại các thị trường trong một vùng.

h. Vai trò của các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực SXSH.

Có rất nhiều tổ chức quốc tế đã có những hoạt động tích cực trong việc xúc tiến SXSH. Những hoạt động quan trọng nhất sẽ được miêu tả ngắn gọn dưới đây.

- Chương trình môi trường của Liên hiệp quốc "Công nghiệp và môi trường" (UNEPIE) hiện đang hoạt động với tư cách là bên xúc tác cho việc thực thi mục tiêu tập hợp giới công nghiệp, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ cùng hành động để tìm ra các hình thức phát triển công nghiệp theo hướng có lợi cho môi trường. UNEPIE đang tìm kiếm biện pháp nhằm:

 Xác định và khuyến khích việc đưa các tiêu chí môi trường vào phát triển công nghiệp.

 Giúp đỡ xây dựng các chính sách và chiến lược phát triển công nghiệp bền vững, và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi các chiến lược hay chính sách này.

 Thúc đẩy thực hiện việc bảo vệ môi trường thông qua việc áp dụng SXSH và các biện pháp chủ động khác;

 Kích thích việc trao đổi thông tin về các hình thức phát triển công nghiệp có lợi cho môi trường.

UNEPIE đã xây dựng Tuyên ngôn về SXSH, Tuyên ngôn này đã được công bố tại hội thảo quốc tế cấp cao lần thứ 5 về SXSH tại Seoul năm 1998.

Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc (UNIDO). Hoạt động quan trọng nhất của UNIDO trong lĩnh vực SXSH là chương trình Trung tâm SXSH quốc gia. Đây là chương trình liên kết giữa UNIDO và UNEP. UNIDO chịu trách nhiệm về quản lý chung, về cơ quan liên lạc tại địa phương, về bảo đảm cung cấp các chuyên gia, đặc biệt là cho các hoạt động trình diễn tại các ngành công nghiệp. UNEP chịu trách nhiệm về cung cấp các chuyên gia, về đào tạo, thông tin, phân tích chính sách. Mục tiêu của Chương trình là thành lập các Trung tâm quốc gia vế SXSH, nơi sẽ thực hiện 6 dạng hoạt động, cụ thể là: Nâng cao nhận thức, đào tạo, đánh giá trong nội bộ xí nghiệp, phổ biến thông tin, xúc tiến đầu tư và tư vấn chính sách.

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đặc biệt tích cực trong việc thúc đẩy SXSH tại các nước Trung và Đông Âu (CEEC) và các quốc gia mới độc lập (NIS). Công việc này được thực hiện trong khuôn khổ của Chương trình hành động môi trường của nhóm công tác chuyên trách về các nước CEEC/NIS (EAP) công tác này được thành lập tại Hội nghị bộ trưởng "Môi trường cho châu Âu", với các thành viên là các bộ trưởng môi trường. Hội nghị họp tại thành phố Lucerne, Thuỵ Sỹ năm 1993. Ban giám đốc về môi trường của Tổ chức OECD giữ vai trò là Ban thư ký cho nhóm công tác của chương trình. Một trong những mục tiêu chính của EAP trong lĩnh vực quản lý môi trường trong các doanh nghiệp là tạo dựng được năng lực cơ bản cho việc thực hiện SXSH tại CEEC/NIS. Năm 1998 văn bản báo cáo chính sách về quản lý môi trường doanh nghiệp tại các nước CEEC/NIS đã được nhóm công tác đệ trình và đã được thông qua tại Hội nghị bộ trưởng "Môi trường cho châu Âu" tại Aarhees.

Hội đồng doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững thế giới (WBESD) là tổ chức liên kết của trên 140 công ty quốc tế, cùng có chung một cam kết về phát triển bền vững, tức là cam kết về bảo vệ môi trường, công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế. Xét theo nghĩa rộng, mục tiêu của các doanh nghiệp, chính phủ và các tổ chức khác có quan tâm tới môi trường và phát triển bền vững. WBCSD còn đặt ra nhiệm vụ khuyến khích các tiêu chuẩn quản lý môi trường cao ngay tại các doanh nghiệp. WBCSD đã thực thi quan điểm về hiệu quả sinh thái. Gần đây WBCSD đã bắt tay vào chuẩn bị thực hiện Pha 2 của "sáng kiến hiệu quả sinh thái châu Âu" (EEEI), là hoạt động nâng cao nhận thức và xây dựng năng lực chuyên môn, nhằm xúc tiến hiệu quả sinh thái với tư cách là quan điểm chỉ đạo trong chính sách và kinh doanh của tất cả các nước thành viên châu Âu.

Uỷ ban kinh tế châu Âu của Liên hợp quốc (UN/ECE) đang tiến hành chương trình đánh giá thành tựu môi trường (EPR) tại nhiều nước trên thế giới. Một trong những lĩnh vực được EPR quan tâm là việc thực hiện các hoạt động SXSH tại các nước thuộc đối tượng đánh giá. Hoạt động này đã cung cấp 1 cách nhìn tổng thể về hiện trạng và đưa ra những khuyến nghị cho việc tiếp tục xúc tiến các hoạt động SXSH.

Đánh giá tính khả thi đối với dự án SXSH hơn.

Đối với bất cứ một dự án SXSH nào khi đã được xác định cũng đều phải xem xét tính khả thi của nó, về cơ bản tính khả thi đó được căn cứ vào ba đánh giá quan trọng, đó là đánh giá kỹ thuật, đánh giá kinh tế và đánh giá môi trường.

  1. Đánh giá kỹ thuật.

Đánh giá kỹ thuật bao gồm có 2 phần liên quan chặt chẽ với nhau.

Thứ nhất là đánh giá xem xét liệu phương án này có thể đưa vào áp dụng trong thực tế được hay không, chẳng hạn như trang thiết bị có hay chưa, ảnh hưởng của việc thực hiện tới chất lượng sản phẩm và năng suất, những yêu cầu về duy tu và sử dụng, các kỹ năng cần thiết cho việc vận hành và giám sát.

Thứ hai là cần phải đưa những thay đổi về về đặc tính kỹ thuật vào bảng cân đối nguyên vật liệu đã được dự kiến trước, thể hiện những thay đổi này dưới dạng các dòng đầu vào/đầu ra và các nhu cầu về năng lượng sau khi thực hiện phương án SXSH này.

Đánh giá kỹ thuật đòi hỏi phải có những sự nghiên cứu kỹ càng, đặc biệt liên quan tới nguồn vốn.

b. Đánh giá Kinh tế.

Đánh giá Kinh tế tối thiểu nhất cũng bao gồm việc thu thập thông tin (về các khoản đầu tư và các chi phí lợi ích tác nghiệp), lựa chọn các tiêu chí đánh giá (thời hạn hoàn vốn, giá trị hiện tại ròng (NPV), hoặc tỷ lệ hoàn vốn nội tại (IRR), và các tính toán, về tính khả thi. Những số liệu kinh tế có được sẽ được bổ sung vào các kết quả đánh gía kỹ thuật. Để có thể có được các lợi thế kinh tế dài hạn khi thực hiện SXSH, cần phải áp dụng các nguyên tắc đánh giá tổng chi phí trong khi thực hiện đánh giá kinh tế, điều này đặc biệt quan trọng đối với các phương án SXSH có chi phí cao.

Nếu phương án không đòi hỏi những chi phí đầu tư cao, việc đánh giá kinh tế tương đối đơn giản. Các lợi ích kinh tế có thể được tính toán để làm rõ mức độ giảm bớt các chi phí vận hành, hoặc tăng lợi ích môi trường (phòng ngừa và giảm bớt chất thải).

Thời hỳ hoàn vốn là một trong những phương pháp đánh giá kinh tế phổ biến nhất. Thời kỳ hoàn vốn được xác định bằng đơn vị thời gian (ví dụ: Năm) cần thiết để có thể sản sinh ra được số tiền đủ cho hoàn trả vốn đầu tư ban đầu. Thời kỳ hoàn vốn càng ngắn có nghĩa là đầu tư cho SXSH càng có hiệu quả.

Đầu tư tư bản

Thời kỳ hoàn vốn = --------------------------------------------------

Tiết kiệm chi phí hoạt động hàng năm

Thời kỳ hoàn vốn thường được tính theo đơn vị năm. Tuy nhiên, có những dự án đầu tư đặc biệt có hiệu quả, có thể hoàn vốn trong vòng một số tháng. Thời kỳ hoàn vốn trong khoảng từ 3 đến 4 năm thường được coi là có thể chấp nhận được đối với các dự án đầu tư ít rủi ro. Phương pháp này thường sử dụng cho đánh giá nhanh nhằm xac định suất lợi nhuận. Nếu dự án có chi phí tư bản lớn, cần phải có những phân tích kỹ càng, tỷ mỷ hơn.

Tỷ suất hoàn vốn nội tại (IRR) và giá trị hiện tại ròng (NPV) là hai phương pháp tính dòng tiền có chiết khấu, nhằm xác định suất lợi nhuận. Nhiều công ty sử dụng phương pháp này để xếp hạng các dự án đầu tư cơ bản, cần có sự sắp đặt ưu tiên khi tiến hành cấp vốn. Việc cấp vốn cơ bản cho một dự án có thể phụ thuộc lớn vào khả năng của dự án trong việc tạo ra các dòng tiền ngoài phạm vi thời kỳ hoàn vốn, để có thể hiện thực hoá khả năng thu hồi vốn đầu tư ở mức độ có thể chấp nhận được. Cả NPV và IRR phải tính tới giá trị thời gian thông qua việc thực hiện chiết khấu đồng tiền được sử dụng trong tương lai và chuyển chúng về hiện tại. Đối với các dự án đầu tư có mức độ rủi ro thấp, tỷ lệ hoàn vốn nội tại (IRR) sau thuế vào khoảng 12-15% là có thể chấp nhận được.

Tỷ suất lợi ích/ chi phí (BCR) là tỷ suất so sánh giữa tổng giá trị hiện tại của tất cả các dòng tiền vào với tổng giá trị hiện tại của tất cả các dòng tiền ra của một dự án. BCR cho biết tổng giá trị hiện tại của các lợi ích lớn gấp bao nhiêu lần tổng giá trị hiện tại của các chi phí, chính vì vậy BCR là chỉ tiêu quan trọng để quyết định xem có nên thực hiện một dự án SXSH này hay dự án khác hay không. Tuy nhiên khi thực hiện chỉ tiêu này các doanh nghiệp cũng phải lưu tâm tới một vấn đề hết sức quan trọng đó là các quy chế về môi trường do luật pháp quy định. Một doanh nghiệp vi phạm các quy định pháp lý về môi trường sẽ phải đối mặt với các khoản phạt hành chính, kiện cáo, hoặc thậm chí cả phạt hình sự nữa (đối với các cán bộ quản lý doanh nghiệp). Kết quả nhà máy có thể bị đóng cửa. Trong trường hợp này, sự tồn tại của nhà máy/doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào việc dự án cải thiện môi trường ở đó được thực hiện tốt hay không.

  1. Đánh giá môi trường.

Mục tiêu của đánh giá môi trường là xác định các tác động tích cực và tiêu cực của phương án SXSH đối với môi trường. Bởi lẽ một trong những mục đích quan trọng của SXSH là cải thiên chất lượng môi trường tại doanh nghiệp, chính vì vậy cần phải có đánh giá môi trường.

Đánh giá môi trường phải tính đến tất cả các yếu tố liên quan đến vòng đời sản phẩm hoặc dịch vụ. Có hai cách phân tích vòng đời sản phẩm hiện đang phổ biến là phân tích định tính và phân tích định lượng.

Thứ nhất phân tích định lượng bao gồm việc xây dựng một bộ tiêu thức cho việc đánh giá tác động môi trường của sản phẩm và thực hiện việc đánh giá đó. Các tiêu thức có thể được xây dựng bằng cách sử dụng các thông số như: Chi phí đổ bỏ hoặc làm sạch các chất thải phát sinh ở tất cả các công đoạn trong vòng đời sản phẩm, tổng lượng chi phí năng lượng để sử dụng tại tất cả các công đoạn của vòng đời sản phẩm, chi phí gây ra do ảnh hưởng của sản phẩm đó v.v….

Thứ hai là phân tích định tính là loại phân tích hữu dụng hơn trong việc đánh giá vòng đời sản phẩm. Phân tích này bao gồm việc xây dựng một ma trận các vấn đề môi trường có đối chiếu với từng giai đoạn trong vòng đời sản phẩm. Phương pháp này thường được sử dụng như một công cụ giúp cho việc xác định các ưu tiên trong khi tái thiết kế các mẫu sản phẩm.

Các bước thực hiện khi đánh giá môi trường.

  • Thứ nhất: Đó là việc đánh giá những thay đổi về số lượng; độ độc hại của chất thải/chất ô nhiễm tại tất cả các giai đoạn của vòng đời sản phẩm (ít nhất là đối với nguyên vật liệu, sản xuất, sử dụng và đổ bỏ).
  • Thứ hai: Đánh giá những thay đổi về tiêu thụ năng lượng trong suốt vòng đời sản phẩm.
  • Thứ ba: xem xét khả năng di chuyển ảnh hưởng môi trường sang các môi trường trung gian khác.
  • Thứ tư: xác định khả năng tái sử dụng của các loại chất thải.
  • Thứ năm: xác định khả năng thay đổi trong mức độ làm tổn hại môi trường của chất thải/chất gây ô nhiễm.
  • Thứ sáu: xác định mức độ sử dụng các nguyên liệu có thể tái tạo.
  • Thứ bảy: xác định mức độ giảm bớt trong tiêu thụ năng lượng.
  • Thứ tám: xác định mức độ sử dụng các nguồn năng lượng có thể tái tạo được.

Trên cơ sở đánh giá về kỹ thuật, kinh tế và môi trường để chúng ta loại bỏ tất cả các phương án không khả thi về mặt kỹ thuật hoặc những phương án không mang lại lợi ích đáng kể về mặt môi trường. Tất cả những phương án còn lại về mặt nguyên tắc đều có thể áp dụng được. Những phương án được ưu tiên nhất đó là những phương án có giá trị hiện tại ròng cao nhất, tuy nhiên trong trường hợp nguồn vốn đầu tư có hạn sự ưu tiên lại phải xem xét tới tỷ suất giá trị hiện tại ròng.

Kinh nghiệm cho thấy việc tiến hành nghiên cứu và đánh giá về kỹ thuật, Kinh tế và môi trường đòi hỏi chi phí cao, chính vì vậy việc lựa chọn cầu phải được tiến hành hết sức thận trọng để có thể tìm ra các phương án có khả năng được thực hiện cao nhất trong những khoảng thời đã được xác định.

Đầu tư cho sản xuất sạch hơn.

a. Đầu tư cho sản xuất sạch hơn nhìn từ góc độ Kinh tế.

Đầu tư cho sản xuất sạch hơn được hiểu là việc huy động một nguồn vốn nào đó tập trung cho một phương án có khả thi đối với một doanh nghiệp trên cơ sở quy trình công nghệ sản xuất đang vận hành nhằm đạt được mục tiêu "Sản xuất sạch hơn", thực hiện mục tiêu này không chỉ đạt hiệu quả môi trường mà quan trọng hợn doanh nghiệp đó còn được sinh lời từ nguồn vốn đầu tư, hay nói cách khác đó là hiệu quả Kinh tế.

Thực tế đối với các phương án đầu tư cho sản xuất sạch hơn ở các doanh nghiệp cho thấy trước khi tiến hành đầu tư, người ta đã phải có một quá trình nghiên cứu và phân tích từng bước để đi đến khẳng định là nếu đầu tư cho phương án đề ra sẽ có khả năng sinh lời cho dự án hay không? Để đi đến quyết định tính toán khả năng sinh lời của dự án điều hết sức quan trọng trước đó chúng ta phải làm đó là phải xác định và đánh giá các khoản chi phí nào mà chúng ta phải bỏ ra, vì một phần quan trọng của bất kỳ phân tích đầu tư nào là cần phải hiểu rõ các khoản chi phí và tiết kiệm dự kiến dự án sẽ mang lại.

Nội dung cơ bản của xác định và đánh giá chi phí bao gồm:

- Chi phí đầu tư ban đầu như chi phí mua trang thiết bị, lắp đặt trang thiết bị, đào tạo. Đối với các doanh nghiệp, hoặc công ty để xác định chi phí đầu tư ban đầu, tốt hơn hết là xác định chi phí vận hành hàng năm bởi vì việc xác định chi phí đầu tư ban đầu nhiều khi không phải là vấn đề dễ dàng và dễ định lượng.

- Chi phí vận hành, tiết kiệm và thu nhập hàng năm , những khoản này bao gồm chi phí cho nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng, lao động. Chi phí vận hành hàng năm phải được xem xét trên cơ sở hoạt động hiện tại trước khi có dự án và sau khi tiến hành dự án, bởi vì thông qua hai con số này là cơ sở để chúng ta xem xét sự khác biệt giữa trước và sau khi có dự án, xác định được khoản tiền tiết kiệm chi phí cho công ty. Điều hết sức quan trọng là trong khi xem xét chi phí vận hành hàng năm cần phải đưa vào tất cả các yếu tố chịu tác động của dự án, việc xem xét và rà soát càng rộng bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, nếu chúng ta làm được việc này thì quá trình phân tích đầu tư để tính khả năng sinh lời của dự án sẽ đảm bảo càng chính xác.

- Cần xác định, đánh giá và phân bổ tất cả các khoản mục thích hợp và quan trọng mà dự án tác động đến. Đối với dự án sản xuất sạch hơn đây là vấn đề cần được xem xét hết sức cẩn thận bởi lẽ các khoản chi phí như chi phí nguyên liệu, chi phí quản lý chất thải hay chi phí ít hữu hình hơn thường rất khó xác định và dễ bị phân bổ sai hoặc bị ẩn trong sổ sách kế toán. Ví dụ như khi nghiên cứu về chi phí ẩn của nguyên liệu thất thoát tại nhà máy phụ tùng ô tô chế tạo thân sau bằng chất dẻo, xem xét sổ sách kế toán người ta thấy tỷ lệ thất thoát nguyên liệu chất dẻo dưới dạng chất thải là 2%, nhưng đo lường thực tế trong quá trình sản xuất cho thấy con số thất thoát đó là 52%. Nguyên nhân là tỷ lệ thất thoát nguyên vật liệu cao này được lồng vào trong những đặc điểm thiết kế của sản phẩm chất dẻo được chế tạo, chính vì vậy không bao giờ chúng xuất hiện trong sổ sách kế toán. Trong nhiều trường hợp khác, có những loại chi phí có thể thiếu trong sổ sách kế toán mà khi xác định chi phí chúng ta không thể có sổ liệu, thường những chi phí này là chi phí ít hữu hình hơn như lợi nhuận mất đi do sản lượng giảm, chi phí tuân thủ các quy chế trong tương lai, những trách nhiệm, nghĩa vụ pháp lý tiềm tàng, hình ảnh có tính tiêu cực của công ty v.v....

Việc xác định và đánh giá chi phí sẽ giúp chúng ta lập dự toán ngân sách cho quyết địn

0