24/05/2018, 16:02

Tạo lập vốn các hình thức tạo lập và các nhân tố ảnh hưởng đến việc tạo lập vốn

Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp và đặc điểm kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp có các phương thức tạo lập vốn khác nhau. Nhưng sử dụng hình thức nào phù hợp nhất mang lại hiệu quả cao nhất còn là vấn đề khó khăn của mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt ...

Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp và đặc điểm kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp có các phương thức tạo lập vốn khác nhau. Nhưng sử dụng hình thức nào phù hợp nhất mang lại hiệu quả cao nhất còn là vấn đề khó khăn của mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt không chỉ ở thị trường tiêu thụ mà cả ở thị trường vốn, thì vấn đề tạo lập vốn và phương thức tạo lập vốn trở nên hết sức cấp thiết, luôn được các nhà quản lý đặt lên hàng đầu. Để giải quyết nó thì trước hết doanh nghiệp phải chủ động, tích cực tìm kiếm các nguồn để thu hút được một lượng vốn đáng kể cho sản xuất kinh doanh. Đó chính là cách hiểu về tạo lập vốn.

Tạo lập vốn được hiểu là các phương thức huy động mà doanh nghiệp sử dụng để nhằm thiết lập nguồn tài chính để đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh.

Quá trình tạo lập vốn được bắt đầu từ khâu xác định nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển, sau đó là việc lập các kế hoạch huy động vốn, có gắn với thời gian và phương thức huy động. Cuối cùng tiến hành huy động vốn.

Để công tác tạo lập vốn thành công thì trong mỗi giai đoạn của quá trình tạo lập vốn phải được phân tích và lựa chọn cho phù hợp với điều kiện từng môi trường hoạt động và lĩnh vực mà mình kinh doanh.

Tạo lập từ nguồn vốn chủ sở hữu

Vốn chủ sở hữu của một doanh nghiệp thuộc bất kể loại hình doanh nghiệp nào tổng hợp chung gồm các bộ phận sau:

  • vốn góp ban đầu ( vốn tự có)
  • Nguồn tích luỹ từ lợi nhuận không chia
  • Vốn tăng thêm từ phát hành cổ phiếu, nhận vốn góp liên doanh

Vốn góp ban đầu ( vốn tự có)

Đây là vốn ban đầu do các chủ sở hữu đóng góp khi thành lập doanh nghiệp. Lượng vốn này được tạo lập từ nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp.

- Đối với doanh nghiệp nhà nước: Vốn tự có là vốn do nhà nước cấp phát và bổ sung. Việc giao vốn cho các doanh nghiệp nhà nước do cục quản lý vốn và tài sản tại doanh nghiệp trước đây và hiện nay là cục tài chính doanh nghiệp trực thuộc bộ tài chính đảm nhận có sự chứng kiến của các đại diện cơ quan ra quyết định thành lập doanh nghiệp. Trong thời kỳ bao cấp nhà nước tài trợ hầu như toàn bộ vốn kinh doanh cho các xí nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế, nên có hiện tượng ỉ lại vào sự bao cấp của nhà nước. Hậu quả là làm giảm tính năng động của các xí nghiệp trong việc chủ động khai thác các nguồn vốn cũng như tìm kiếm các giải pháp để bảo toàn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Khi bước sang cơ chế thị trường đi đôi với việc mở rộng và khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát triển, chính phủ đã xúc tiến các biện pháp đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với khu vực kinh tế quốc doanh nhằm giảm bớt gánh nặng cho Ngân sách nhà nước. Các doanh nghiệp chủ động bổ sung phần thiếu hụt bằng các nguồn tài trợ khác.

- Đối với công ty cổ phần: vốn ban đầu do các cổ đông đóng góp thông qua việc mua cổ phần. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty cổ phần, việc phân chia quyền kiểm soát và lợi nhuận sau thuế căn cứ vào tỉ lệ vốn góp. Trong công ty cổ phần có nhiều loại cổ phần khác nhau, qui định quyền và nghĩa vụ của các cổ đông.

- Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn: vốn góp ban đầu do các bên tham gia đóng góp theo tỉ lệ thoả thuận và đây là căn cứ để phân chia lợi nhuận.

- Đối với công ty hợp danh: các thành viên cũng tiến hành góp vốn để thành lập công ty nhưng được phân chia thành hai loại đối tượng: vốn do thành viên hợp danh đóng góp là yếu tố chính để thành lập doanh nghiệp và trong quá trình hoạt động, các thành viên này tham gia quản lý điều hành hoạt động của công ty; còn thành viên góp vốn tham gia vào công ty hợp danh chỉ được phân chia lợi nhuận theo qui định của điều lệ công ty.

- Đối với doanh nghiệp liên doanh thì nguồn vốn của doanh nghiệp không đơn thuần là vốn góp của các tổ chức hoặc cá nhân trong nước hay vốn ngân sách nhà nước cấp, nó còn có sự tham gia góp vốn của các bên nước ngoài hay doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là vốn do nhà đầu tư nước ngoài mang sang để kinh doanh. Tỷ lệ góp vốn của các doanh nghiệp này tối thiểu phải bằng một tỉ lệ nào đó so với vốn pháp định do pháp luật qui định.

Vốn góp ban đầu này có qui mô phụ thuộc vào nhiều yếu tố, mà quan trọng hàng đầu là luật pháp. Nhà nước qui định mức vốn ban đầu tối thiểu là vốn pháp định hay vốn điều lệ để thành lập doanh nghiệp. Vốn này phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp.

Vốn góp ban đầu là một trong những nguồn tạo lập nên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động nếu doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì vốn chủ sở hữu còn được bổ sung từ lợi nhuận.

Nguồn vốn từ lợi nhuận giữ lại

Lợi nhuận để lại là một bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và hấp dẫn của các doanh nghiệp vì nó giúp cho doanh nghiệp giảm thiểu được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Tuy nhiên nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư. Ngoài ra còn phụ thuộc vào các yếu tố khác. Chẳng hạn đối với doanh nghiệp nhà nước việc tái đầu tư không chỉ phụ thuộc vào khả năng sinh lời của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến khích tái đầu tư của nhà nước.

Mặt khác đối với công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liện quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không được nhận số lợi nhuận đó nhưng bù lại họ có quyền sở hữu số cổ phần tăng lên của công ty. Như vậy giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài nhưng mặt khác dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ trước mắt (ngắn hạn) do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì cổ phiếu có thể bị giảm sút. Do đó để đảm bảo mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu mà không làm giảm giá cổ phiếu trên thị trường, chính sách phân phối cổ tức của công ty cổ phần phải lưu ý đến một số vấn đề liên quan như:

  • Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ
  • Mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước
  • Sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của công ty tâm lý và đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó.
  • Hiệu quả của việc tái đầu tư

Nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu mới

Phương thức tạo lập này chỉ thực hiện ở công ty cổ phần vì chỉ ở công ty cổ phần mới có hình thức cổ đông, quyền sở hữu tập thể. Cổ phiếu là một loại chứng khoán vốn chứng nhận quyền sở hữu một phần tài sản và thu nhập của cổ đông đối với công ty cổ phần. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng việc phát hành cổ phiếu. Đây là nguồn tài trợ dài hạn và rất ổn định cho doanh nghiệp. Việc phát hành cổ phiếu mới cần phải đánh gía và lựa chọn kỹ càng bởi có nhiều loại cổ phiếu với các tính chất khác nhau:

- cổ phiếu thường: là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu thường là chứng khoán quan trọng nhất được trao đổi mua bán trên thị trường chứng khoán điều đó chứng minh được tầm quan trọng của nó so với các công cụ tài chính khác. Tuy nhiên việc phát hành cổ phiếu còn có những hạn chế và ràng buộc nhất đinh, chứ không phải chỉ đơn thuần đưa cổ phiếu ra thị trường. Giới hạn phát hành là qui định ràng buộc có tính pháp lý, chịu sự quản lý và kiểm soát chặt chẽ của uỷ ban chứng khoán nhà nước.

Phát hành cổ phiếu thường có một số thuận lợi sau:

+ đối với nhà phát hành:

-Tạo lập được vốn chủ sở hữu với độ an toàn khi sử dụng cao do không phải lo hoàn trả gốc, có thể không phải trả cả lãi

-Là nguồn tài trợ dài hạn và ổn định

-Rủi ro được tiếp tục phân tán cho các cổ đông mới nên độ rủi ro tính trên một đồng vốn chủ sở hữu giảm đi

+ đối với người mua:

-Có quyền yêu cầu về thu nhập nên công ty hoạt động càng hiệu quả, cổ tức càng cao do không giới hạn về thu nhập

-Có quyền kiểm soát đối với hoạt động của công ty

-Trở thành chủ sở hữu công ty, lợi nhuận kỳ vọng từ khoản đầu tư này cao hơn so với chủ nợ.

Bên cạnh những thuận lợi rất hấp dẫn thì cổ phiếu thông thường cũng có những hạn chế:

+ đối với nhà phát hành:

-Quyền kiểm soát bị chia sẻ

-Do rủi ro của việc sử dụng vốn từ phát hành cổ phiếu thấp nên khả năng sinh lời sẽ giảm đi

-Chi phí vốn cao hơn chi phí nợ vì đây là chi phí cao nhất trong các loại vốn huy động

-Chi phí vốn chủ sỏ hữu là chi phí sau thuế nên không được lợi từ khoản tiết kiệm nhờ thuế

+ đối với người mua:

-Quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản là sau cùng

-Rủi ro gánh chịu là cao hơn so với chủ nợ ( rủi ro không thu hồi được vốn đầu tư)

- Cổ phiếu ưu tiên: loại cổ phiếu này thường chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó thường có cổ tức cố định, chủ sở hữu cổ phiếu ưu tiên có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Nếu số lãi chỉ đủ để trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không được nhận cổ tức của kỳ đó. Một đặc điểm khác là cổ đông cổ phiếu ưu tiên vẫn là chủ sở hữu công ty nhưng không có quyền tham gia biểu quyết không được tham gia đại hội đồng cổ đông, nó mang tính chất như thành viên góp vốn trong công ty hợp danh.

Một vấn đề rất quan trọng khi đề cập đến cổ phiếu ưu tiên, đó là thuế. Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty, cổ tức được lấy từ lợi nhuận sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên. mặc dù vậy cổ phiếu ưu tiên vẫn có những ưu điểm nổi bật:

  • tạo lập được vốn chủ sở hữu (huy động vốn vô thời hạn với chi phí thấp so với phát hành cổ phiếu thường.
  • Không phải chia xẻ quyền kiểm soát
  • Không bị ràng buộc bởi trách nhiệm trả nợ gốc

Như vậy việc lựa chọn phát hành cổ phiếu mới hay sử dụng lợi nhuận không chia để nhằm tạo lập vốn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Nếu đã lựa chọn phát hành cổ phiếu mới thì vấn đề quyết định loại cổ phiếu nào cũng rất quan trọng bởi nó có liên quan đến chi phí vốn của từng loại cổ phiếu. Trên cơ sở phân tích so sánh những điểm lợi và bất lợi của từng phương thức tạo lập, doanh nghiệp có thể đưa ra quyết định chính xác, phù hợp cho mình.

Tạo lập từ nguồn tín dụng

Nguồn tín dụng là nguồn quan trọng nhất của bất kể doanh nghiệp nào, bởi vì sử dụng nguồn này doanh nghiệp có những ưu thế hơn sử dụng vốn chủ sở hữu, ở một số điểm sau:

- Khả năng sinh lời của khoản nợ lớn hơn khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu do rủi ro sử dụng nợ cao hơn tức là lợi nhuận kì vọng cao hơn.

- Các khoản lãi phải trả cho khoản nợ là đối tượng khấu trừ thuế ( chi phí trước thuế ) nên doanh nghiệp sẽ được hưởng khoản tiết kiệm nhờ thuế.

- Chi phí nợ nhỏ hơn chi phí vốn chủ sở hữu ( đối với doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định)

Do sử dụng nợ có những ưu thế trên nên các doanh nghiệp thường khai thác triệt để nguồn này để tạo đòn bẩy tài chính khuyếch đại thu nhập cho chủ sở hữu.

Tín dụng ngân hàng

Có thể nói rằng vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nguồn vốn này xuất hiện từ sớm trong lịch sử và tiếp tục khẳng định ưu thế của nó cho đến ngày hôm nay và cả tương lai. Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.

Cùng với sự phát triển kinh tế nhiều loại hình ngân hàng đã ra đời với nhiều loại hình dịch vụ để thu hút ngày càng nhiều khách hàng. Ngay trong nghiệp vụ cho vay của ngân hàng cũng đã rất đa dạng. Doanh nghiệp có thể lựa chọn các phương thức cho vay khác nhau như cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay hợp vốn… tuỳ thuộc vào mục đích vay của doanh nghiệp là để tài trợ cho dự án, đầu tư tài sản cố định hay vay bổ sung vốn lưu động. Ngân hàng thoả mãn các nhu cầu của khách hàng với các thời hạn khác nhau ngắn, trung, và dài hạn.

Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm là linh hoạt, huy động được một lượng vốn lớn trong thời gian ngắn, doanh nghiệp chỉ phải chịu trách nhiệm với một chủ nợ ngân hàng.

Bên cạnh đó nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn ( lãi suất)

- Điều kiện tín dụng: Các doanh nghiệp muốn vay tại các ngân hàng thương mại cần đáp ứng được xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin cần thiết mà ngân hàng yêu cầu. Ngân hàng sẽ tiến hành phân tích để quyết định có nên cho vay hay không.

- Các điều kiện bảo đảm tiền vay: có những doanh nghiệp được ngân hàng vay vốn theo hình thức tín chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba nhưng cũng co doanh nghiệp muốn vay được vốn ngân hàng cần phải có tài sản đảm bảo phổ biến là tài sản thế chấ. Việc yêu cầu người vay có tài sản thế chấp trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng được các điều kiện vay. Do đó, doanh nghiệp cần tính đến các yếu tố này khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng.

- Sự kiểm soát của ngân hàng: trong quá trình cho vay ngân hàng tiến hành kiểm soát doanh nghiệp nhằm đảm bảo doanh nghiệp sử dụng vốn vay đúng mục đích. Nói chung sự kiểm soát này không gây khó khăn cho doanh nghiệp nhưng trong một số trường hợp điều đó cũng làm cho doanh nghiệp có cảm giác bị “kiểm soát”.

- Lãi suất vay vốn (chi phí sử dụng vốn): lãi suất phản ánh chi phí sử dụng vốn. Yếu tố này phụ thuộc vào tình hình trên thị trường trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn giảm thu nhập của doanh nghiệp.

Đây là hình thức tạo lập vốn phổ biến và nó chiếm gần 90% nguồn vốn cho các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Cùng với nguồn tín dụng ngân hàng doanh nghiệp còn có thể sử dụng nhiều hình thức khác như tín dụng thương mại, phát hành trái phiếu (vay trên thị trường chứng khoán )

Tín dụng thương mại

Thông thường quan hệ mua bán giữa các doanh nghiệp không kết thúc ngay ở một thời điểm, nghĩa là dòng tiền tài chính xuất hiện chậm hơn dòng vật chất, nếu doanh nghiệp là người bán hàng thì đây là chính sách tín dụng khách hàng, còn nếu doanh nghiệp là người mua hàng thì đây là trường hợp doanh nghiệp được hưởng một khoản tín dụng nhà cung cấp. Tín dụng khách hàng và tín dụng nhà cung cấp thực chất chỉ là hai mặt của tín dụng thương mại.

Đối với doanh nghiệp đây là phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng, linh hoạt trong kinh doanh, có thể đáp ứng nhu cầu cấp bách của doanh nghiệp, hơn nữa nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác các quan hệ trong kinh doanh một cách lâu bền.

Tuy nhiên việc sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại không phải là không có chi phí. Chi phí được tính vào giá thành sản phẩm, dịch vụ và có thể ẩn dưới hình thức thay đổi mức giá. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được thoả thuận khi hai bên ký hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung, hay khi giao hàng hóa. Do vậy các doanh nghiệp không nên quá lạm dụng nguồn vốn tín dụng thương mại bởi vì nếu quy mô quá lớn doanh nghiệp dễ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán và dẫn tới phá sản.

Tín dụng thuê mua

Do nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng lớn, để đáp ứng nhu cầu cho hoạt động sản xuất kinh doanh xuất hiện nhiều hình thức tài trợ vốn trong đó có hình thức tín dụng thuê mua.

Tín dụng thuê mua là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê. Tổng số tiền thuê một loại tài sản qui định tại hợp đồng cho thuê ít nhất phải tương đương với giá trị tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.

Thuê mua là nghiệp vụ của ngân hàng thương mại hoặc là hoạt động của một công ty độc lập. Nghiệp vụ thuê mua có những ưu việt và những bất lợi nhất định. Song do những ưu việt vượt trội nên nó đã có lịch sử rất lâu trên thế giới. Ngày ngay nghiệp vụ này đang phát triển mạnh rộng khắp ở các nước và bắt đầu phát triển ở nước ta đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20.

Lợi ích của thuê tài chính đối với người thuê rất lớn:

- Người thuê có thể gia tăng năng lực sản xuất trong những điều kiện hạn chế về nguồn vốn đầu tư. Bởi vì nếu vay ngân hàng thì không cung ứng đủ điều kiện mà họ đặt ra, nhất là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, uy tín trên thị trường không cao. Chẳng hạn như doanh nghiệp không phải thế chấp khi vay, bản thân doanh nghiệp có thể tự tìm cho mình đối tác phù hợp với nhu cầu…

- Phương thức này cho phép rút ngắn thời gian triển khai đầu tư thiết bị đáp ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh do người thuê có thể tự tìm kiếm nguồn cung ứng tài sản đàm phán hoặc thoả thuận trước về hợp đồng mua bán thiết bị với nhà cung cấp, sau đó mới yêu cầu công ty cho thuê tài trợ cho mình.

- Thông qua nghiệp cụ bán và tái thuê các doanh nghiệp có thể dịch chuyển vốn đầu tư cho các dự án khác đang cần vốn trong khi vẫn duy trì được hoạt động đầu tư hiện hành vì tài sản vẫn tiếp tục được sử dụng.

- Trong điều kiện bùng nổ công nghệ như hiện nay chỉ trong một thời gian ngắn một tài sản trở lên lạc hậu về công nghệ. Vì vậy nếu đi thuê tài chính, doanh nghiệp có điều kiện sử dụng máy móc thiết bị hiện đại vào sản xuất. Do những điều kiện để doanh nghiệp được thuê tài chính đơn giản hơn vay ngân hàng nên doanh nghiệp phải chấp nhận mức chi phí cao hơn. Đó là số tiền phải đủ để bù đắp chi phí mua tài sản cố định tại thời điểm bắt đầu hợp đồng và mang lại thu nhập cho bên cho thuê.

Phát hành trái phiếu ( vay trên thị trường chứng khoán)

Doanh nghiệp có thể tạo lập vốn trên thị trường chứng khoán qua việc phát hành trái phiếu công ty. Trái phiếu công ty là một công cụ nợ dài hạn được doanh nghiệp phát hành để tạo lập vốn từ các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thời hạn của trái phiếu công ty được xác định từ ngày phát hành đến ngày thanh toán tiền gốc cho người mua. Thông thường trái phiếu được phân thành hai loại:

- Trái phiếu có lãi xuất cố định: là loại trái phiếu mà lãi suất được ghi ngay trên bề mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Cả người đi vay (doanh nghiệp) và người nắm giữ trái phiếu( người cho vay) đều biết rõ khoản nợ và khoản thu của mình.

- Trái phiếu có lãi suất thay đổi: là loại trái phiếu mà lãi suất của nó có thể biến động theo một công thức chỉ số hoặc theo những cách thức khác được dự đoán ngay khi phát hành. Công thức biến động này thường gắn liền với những biến động lãi suất trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn.

Một doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng phát hành trái phiếu công ty phải hội tụ đủ các điều kiện quy định của pháp luật ban hành về lưu thông chứng khoán các được sự chấp nhận của cơ quan nhà nước trong lĩnh vực thị trường chứng khoán.

Mặt khác để phát hành chứng khoán thành công thì doanh nghiệp tính đến mức độ hấp dẫn của trái phiếu. Tính hấp dẫn của trái phiếu phụ thuộc vào những yếu tố sau:

- Lãi suất trái phiếu: lãi suất trái phiếu được đặt trong mối tương quan so sánh với lãi suất trên thị trường vốn, đặc biệt phải tính đến cạnh tranh với trái phiếu công ty khác và trái phiếu chính phủ. đương nhiên người đầu tư muốn được hưởng mức lãi suất cao nhưng doanh nghiệp phát hành cân nhắc lãi suất có thể chấp nhận được vì đó chính là chi phí vốn mà doanh nghiệp phải trả, tác động trực tiếp đến lợi nhuận.

- Kỳ hạn của trái phiếu: phải phù hợp với nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Kỳ hạn càng dài thì độ rủi ro đối với các nhà đầu tư càng lớn nên sẽ càng giảm tính hấp dẫn của trái phiếu. Doanh nghiệp cần phải cân đối giữa nhu cầu của doanh nghiệp và ý muốn của nhà đầu tư.

- Uy tín của doanh nghiệp: không phải doanh nghiệp nào cũng có thể thu hút được công chúng mua trái phiếu vì nhà đầu tư phải đánh giá uy tín của doanh nghiệp thì mới quyết định mua hay không. Các doanh nghiệp có uy tín và vững mạnh thì dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động.

Một số phương thức tạo lập khác

Ngoài các hình thức tạo lập vốn chủ yếu là từ nguồn vốn chủ sở hữu và từ nguồn tín dụng doanh nghiệp có thể sử dụng hình thức tạo lập từ nguồn liên doanh liên kết, từ nguồn vay từ các tổ chức nước ngoài.

Nguồn vốn liên doanh liên kết là hình thức cũng khá phổ biến trong nền kinh tế hiện nay, nó nhằm tích luỹ một số vốn lớn cho doanh nghiệp. Khi thực hiện một dự án đầu tư đầu tư nào đó mà doanh nghiệp không đủ vốn hoặc không muốn bỏ toàn bộ vốn dự án đầu tư thì doanh nghiệp có thể mời các đơn vị hoặc tổ chức kinh tế khác cùng tham gia góp vốn và thực hiện sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp và các chủ đầu tư cùng nhau góp vốn trong một thời gian tương đối dài, cùng chịu trách nhiệm trong việc quản lý và sử dụng vốn, phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp. Việc góp vốn liên doanh liên kết này không chỉ thực hiện ở môi trường trong nước và cả thị trường ngoài nước. Với hình thức này doanh nghiệp không chỉ thực hiện việc huy động vốn mà còn thúc đẩy quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế.

Các nhân tố khách quan

Đây là các nhân tố tồn tại ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp, tác động trực tiếp đến doanh nghiệp. Bản thân doanh nghiệp chỉ có thể dự đoán trước nhằm giảm thiểu những rủi ro và có các hướng đi phù hợp cho mình.

Trạng thái nền kinh tế

Doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong môi trường là tổng hoà các mối quan hệ kinh tế xã hội, với nhiều biến động mạnh mẽ. Do đó mà hoạt động doanh nghiệp trước hết chịu tác động của trạng thái kinh tế. Trạng thái nền kinh tế có các thăng bậc từ tăng trưởng, phát triển và suy thoái, mỗi một trạng thái đều có các tác động đến việc tạo lập vốn của doanh nghiệp. Khi nền kinh tế suy thoái việc sử dụng nợ không những không tạo ra hiệu ứng đòn bẩy tài chính dương mà còn làm giảm thu nhập của chủ sở hữu. Hiệu ứng đòn bẩy tài chính dương nghĩa là doanh nghiệp sử dụng nợ với tỷ trọng tổng nguồn của doanh nghiệp càng cao thì thu nhập dành cho các chủ sở hữu càng lớn. Như vậy trong trường hợp này việc sử dụng nợ là có hại. Khi nền kinh tế trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển nguồn lực kinh tế là rất lớn, do đó việc sử dụng nợ hay vốn chủ sở hữu đều đem lại kết quả như nhau. Trong giai đoạn này việc sử dụng nợ đem lại hiệu quả tích cực, nó có thể khuyếch đại thu nhập cho chủ sở hữu một cách nhanh chóng do khả năng sinh lời cao. Tuy nhiên ở bất kể thời kỳ nào thì doanh nghiệp cũng đều phải cân đối giữa vốn chủ sở hữu và nợ.

Chính sách kinh tế của nhà nước

Nhà nước thực hiện quản lý kinh tế xã hội bằng nhiều công cụ kinh tế, cụ thể là ban hành các điều luật qui định thực hiện. Do đó trước khi đưa ra bất kỳ một quyết định nào thì các doanh nghiệp cũng phải đề cập đến các qui định của nhà nước. Trước hết thể hiện ở việc qui định vốn pháp định hay vốn điều lệ của từng ngành nghề kinh doanh. Có những ngành nghề yêu cầu vốn pháp định phải lớn nhưng có ngành nghề có sự ưu đãi phát triển của nhà nước.

Một mặt quan trọng trong chính sách pháp luật của nhà nước là chính sách về thuế. ở đó thuế thu nhập doanh nghiệp tác động tới việc tạo lập vốn của doanh nghiệp thông qua ảnh hưởng đến chi phí nợ vay. Bởi vì chi phí nợ vay là chi phí trước thuế, doanh nghiệp sẽ được khấu trừ thuế từ khoản này. Thuế suất thuế thu nhập càng cao phần tiết kiệm thuế càng lớn thì sử dụng nợ càng có lợi, càng khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nhiều nợ hơn.

Ngoài ra các chính sách khác như các qui định của nhà nước về thủ tục và điều kiện vay vốn, thủ tục và điều kiện phát hành chứng khoán, nhứng hạn chế trong quy mô và hình thức tài trợ của tổ chức tín dụng đối với doanh nghiệp… đây là những nhân tố có tác động trực tiếp đến chi phí sử dụng vốn cũng như việc doanh nghiệp có vay được vốn hay không.

Sự phát triển của thị trường tài chính

Thị trường tài chính là nơi mà doanh nghiệp có thể thu hút vốn và tạo lập vốn một cách nhanh chóng và hiệu quả. Với hai dòng tài chính trực tiếp và tài chính gián tiếp, doanh nghiệp có nhiều cơ hội chọn lựa và khai thác nguồn vốn phù hợp với mình. Tuy nhiên một thị trường tài chính phát triển đòi hỏi thông tin về doanh nghiệp phải được công khai và mọi sự cạnh tranh là hoàn hảo, với sự can thiệp của nhà nước là thấp nhất, ở đó doanh nghiệp có nhiều thuận lợi trong việc tạo lập vốn. Còn trong những nền kinh tế mà thị trường tài chính còn ở giai đoạn đầu thì hoạt động tạo lập vốn của doanh nghiệp sẽ bị hạn chế. Chẳng hạn khi phát hành chứng khoán, với thị trường tài chính phát triển sẽ góp phần tạo nên tính thanh khoản cho chứng khoán, khả năng huy động vốn cho doanh nghiệp sẽ tăng lên. Và ngược lại, ở một thị trường kém phát triển thì chứng khoán khó lưu hành hơn.

Ngoài ra còn một số các yếu tố khách quan khác thuộc về môi trường tự nhiên như thiên tai lụt bão…xảy ra ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án tác động gián tiếp đến công tác huy động vốn doanh nghiệp. Các yếu tố thuộc về địa bàn dân cư như thu nhập, mức sống, điều kiện kinh tế địa phương cũng là các nhân tố ảnh hưởng đến việc tạo lập vốn của doanh nghiệp.

Các nhân tố chủ quan

Nếu như các nhân tố khách quan nằm ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp thì các nhân tố chủ quan lại thuộc về bản thân doanh nghiệp. Đây là các nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp, sự tồn tại phát triển hay sự lụi tàn phá sản của doanh nghiệp. Có rất nhiều nhân tố tác động, sau đây là các nhân tố cơ bản:

Mục đích sử dụng vốn hay chiến lược đầu tư

Bất kể hoạt động nào cũng có mục đích và kì vọng của hành động đó. Doanh nghiệp xác định mục đích cho việc tạo lập vốn của mình nhằm tài trợ cho khoản mục nào. Tuỳ thuộc vào tính chất và đặc điểm của từng khoản mục mà doanh nghiệp có các hướng tạo lập vốn và đầu tư phù hợp. Với những khoản đầu tư cho tài sản cố định doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn tài trợ từ vốn chủ sở hữu hay nợ dài hạn. Do đặc điểm tài sản cố định là có giá trị lớn thời gian sử dụng lâu dài, hao mòn được chuyển dần vào giá trị sản phẩm sản xuất và được thu hồi trong quá trình sản xuất kinh doanh thông qua hình thức lập quỹ khấu hao, nên doanh nghiệp có thể sử dụng chủ yếu từ nợ để tài trợ, phần lãi và gốc được trả đều đặn trong từng thời kỳ sản xuất. Đồng thời có thể tiết kiệm được chi phí nhờ thuế. Với tài sản lưu động thường xuyên thì lại được tài trợ bằng nguồn dài hạn và khi đó doanh nghiệp phải tìm hình thức tạo lập phù hợp như nguồn vốn chủ sở hữu hay nguồn vay dài hạn ngân hàng hoặc phát hành chứng khoán…Với nhu cầu bổ sung thiếu hụt tạm thời doanh nghiệp sử dụng nguồn ngắn hạn như vay ngắn hạn ngân hàng hay nguồn tín dụng thương mại. Tóm lại tuỳ thuộc vào mục đích đầu tư mà doanh nghiệp có chiến lược tài trợ khác nhau. Tuy nhiên trong doanh nghiệp cũng là tổng hoà của các mối quan hệ, hoạt động sản xuất cũng diễn ra theo một quá trình, đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ các yếu tố. Như vậy doanh nghiệp phải có chiến lược đầu tư toàn diện, điều này liên quan đến cơ cấu vốn và chi phí vốn, hai yếu tố cũng hết sức quan trọng ảnh hưởng tới việc tạo lập vốn của doanh nghiệp.

Chi phí vốn và cơ cấu vốn

Chi phí vốn là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn, được tính bằng số lợi nhuận kì vọng đạt được trên vốn đầu tư vào dự án hoặc doanh nghiệp để giữ không làm giảm số lợi nhuận dành cho chủ sở hữu. Để được sử dụng vốn thì doanh nghiệp phải trả cho người sở hữu hiện thời khoản vốn đó một khoản tiền gọi chung là chi phí vốn. Khoản chi phí này cao hay thấp ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp phải tính toán lựa chọn đối tác để vay và các phương thức vay phù hợp với doanh nghiệp và đảm bảo mức lợi nhuận của doanh nghiệp, không thể vay khi chi phí tiền vay cao hơn mức lợi nhuận đem lại.

Cơ cấu vốn là cách mà mỗi doanh nghiệp thực hiện nhằm phân chia nguồn vốn của mình trong quá trình sử dụng. Cùng với chi phí vốn thì cơ cấu vốn là nhân tố có tác động không nhỏ tới quyết định tạo lập vốn của doanh nghiệp. Yêu cầu đặt ra cho mỗi doanh nghiệp là phải xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý ( cơ cấu vốn tối ưu), cơ cấu vốn này có thể thay đổi tuỳ theo từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Một cơ cấu vốn được xem là tối ưu khi nó đạt được sự cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận, kết quả là chi phí vốn bình quân sẽ là thấp nhất.

Có bốn nhân tố tác động tới cơ cấu vốn:

- Thứ nhất, rủi ro trong kinh doanh. Đây là loại rủi ro tiềm ẩn trong tài sản của doanh nghiệp. Rủi ro kinh doanh càng lớn thì tỷ lệ nợ tối ưu càng thấp

- Thứ hai là chính sách thuế. thuế thu nhập doanh nghiệp có ảnh hưởng đến chi phí của nợ vay thông qua điều tiết phần tiết kịêm nhờ thuế. thuế suất cao sẽ khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nợ do phần tiết kiệm nhờ thuế tăng lên.

- Thứ ba, khả năng tài chính doanh nghiệp, đặc biệt là khả năng tăng vốn một cách hợp lý trong điều kiện có tác động xấu. Các nhà quản lý biết rằng tài trợ vốn vững chắc là một trong những điều kiện cần thiết để doanh nghiệp hoạt động ổn định và có hiệu quả. Nhu cầu vốn trong tương lại và những hậu quả thiếu vốn có ảnh hưởng quan trọng với mục tiêu cơ cấu vốn

- Thứ tư, sự bảo thủ hay phóng khoáng của nhà quản lý. Một số nhà quản lý sẵn sàng sử dụng nhiều nợ hơn, trong khi đó một số khác lại muốn sử dụng vốn chủ sở hữu.

Bốn nhân tố trên tác động rất lớn đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có một cơ cấu vốn khác nhau, tuỳ thuộc vào loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với doanh nghiệp sản xuất tỷ trọng của tài sản cố định trong tổng tài sản cao hơn so với các doanh nghiệp thương mại. Do đó cơ cấu vốn của doanh nghiệp cũng phải phù hợp với đặc điểm này nghĩa là các doanh nghiệp sản xuất cần nhiều nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho tài sản cố định, còn các doanh nghiệp thương mại thì ưu tiên cho việc huy động các nguồn vốn ngắn hạn nhằm đầu tư vào tài sản lưu động.

Hiệu quả việc sử dụng vốn

Sử dụng vốn và tạo lập vốn có tác động qua lại với nhau, sử dụng vốn có ý nghĩa quyết định đến hoạt động tạo lập vốn của doanh nghiệp, tạo lập vốn là cơ sở để có các quyết định sử dụng vốn. Doanh nghiệp có vốn mà không biết sử dụng có hiệu quả thì nguồn vốn đó không có tác dụng, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh, làm giảm thiểu lợi nhuận của doanh nghiệp tức là giá trị sở hữu doanh nghiệp giảm xuống. Ngược lại việc sử dụng vốn có hiệu quả sẽ làm tăng khả năng tạo thêm vốn thông qua hoạt động của chính bản thân doanh nghiệp. Bởi nếu doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả sẽ là điều kiện tốt để doanh nghiệp có các phương thức thu hút vốn nguồn vốn từ các nguồn khác nhau, đồng thời khả năng tự tài trợ bằng nguồn nội bộ cũng tăng lên, làm tăng giá trị vốn chủ sở hữu doanh nghiệp.

Có rất nhiều chỉ tiêu đo hiệu quả sử dụng vốn, sau đây là một số các chỉ tiêu cơ bản đối với tất cả các doanh nghiệp:

  • Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) = thu nhập sau thuế/ vốn chủ sở hữu

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp.

  • Doanh lợi tài sản (ROA) = thu nhập sau thuế/ tổng tài sản

Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư.

  • Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố đinh = DT trong kỳ / VCĐ sử dụng bq
  • Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động

Kỳ thu tiền bq = tổng số ngày trong kỳ/ vòng quay khoản phải thu trong kỳ

Vòng quay khoản phải thu = DT bán hàng trong kỳ/ các khoản phải thu bq

Uy tín doanh nghiệp

Đây cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động tạo lập vốn của doanh nghiệp. Có thể hiểu uy tín theo nghĩa rộng bao gồm uy tín trong thanh toán, uy tín trong sản xuất kinh doanh biểu hiện bằng quá trình thực hiện hợp đồng, danh tiếng của doanh nghiệp trong ngành và trên thị trường. Với các doanh nghiệp lớn hoạt động lâu năm trên thị trường và được nhiều người biết đến thì việc huy động vốn thuận lợi và dễ dàng hơn các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ hoặc vừa bước chân vào thị trường. Bởi bất kể nhà đầu tư nào cũng không muốn mạo hiểm với số tiền của mình, khi đã quyết định đầu tư thì luôn kì vọng vào một giá trị lớn hơn họ sẽ nhận được trong tương lai. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường như hiện nay thì việc tạo dựng uy tín của doanh nghiệp là rất quan trọng, bởi sự cạnh tranh không chỉ diễn ra ở chất lượng, số lượng giá trị sản phẩm mà còn ở uy tín doanh nghiệp, hình ảnh của doanh nghiệp trong lòng các nhà đầu tư.

Chiến lược hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai

Nếu trong tương lai doanh nghiệp dự định đầu tư những dự án lớn thì ngay bây giờ các nhà quản lý doanh nghiệp đã phải lên kế hoặch tìm kiếm nguồn tài trợ. Công việc này không phải muốn là thực hiện được, mà đòi hỏi doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả để có khối lượng lợi nhuận tích luỹ đủ lớn, các nhà quản lý thiết lập uy tín, tận dụng các mối quan hệ để kêu gọi nguồn hỗ trợ từ bên ngoài.

Trên đây là một số hình thức huy động vốn nói chung trong nền kinh tế thị trường, tuỳ từng loại hình doanh nghiệp khác nhau, đặc điểm kinh doanh khác nhau mà áp dụng các hình thức tạo lập vốn phù hợp.

0