QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG-PHẦN I
Khái niệm quản lý môi trường. “Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách Kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế - xã hội ...
Khái niệm quản lý môi trường.
“Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách Kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế - xã hội quốc gia”.
Với nội dung trên quản lý môi trường cần phải hướng tới những mục tiêu cơ bản sau đây:
- Thứ nhất là phải khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường phát sinh trong hoạt động sống của con người.
- Thứ hai là Phát triển bền vững Kinh tế và xã hội quốc gia theo 9 nguyên tắc của một xã hội bền vững do hội nghị Rio-92 đề xuất và được tuyên bố Johannesburg, Nam phi về phát triển bền vững 26/8-4/9/2002 tái khẳng định. Trong đó với nội dung cơ bản cần phải đạt được là phát triển Kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học.
- Thứ ba làXây dựng các công cụ có hiệu lực quản lý môi trường quốc gia và các vùng lãnh thổ. Các công cụ trên phải thích hợp cho từng ngành, từng địa phương và cộng đồng dân cư.
Cơ sở Quản lý môi trường.
Khi xem xét cơ sở cho quản lý môi trường người ta dựa vào bốn yếu tố cơ bản sau đây.
Cơ sở triết học của quản lý môi trường.
Trong triết học người ta bàn nhiều về nguyên lý thống nhất của thế giới vật chất, trong đó sự gắn bó chặt chẽ giữa tự nhiên, con người và xã hội thành một hệ thống thống nhất, yếu tố con người giữ vai trò quan trọng. Sự thống nhất của hệ thống được thực hiện trong các chu trình Sinh Địa Hoá của 5 thành phần cơ bản:
- Sinh vật sản xuất (tảo và cây xanh) có chức năng tổng hợp chất hữu cơ từ các chất vô cơ dưới tác động của quá trình quang hợp.
- Sinh vật tiêu thụ là toàn bộ động vật sử dụng chất hữu cơ có sẵn, tạo ra các chất thải.
- Sinh vật phân huỷ (vi khuẩn, nấm) có chức năng phân huỷ các chất thải, chuyển chúng thành các chất vô cơ đơn giản.
- Con người và xã hội loài người.
- Các chất vô cơ và hữu cơ cần thiết cho sự sống của sinh vật và con người với số lượng ngày một tăng.
Tính thống nhất của hệ thống “Tự nhiên – Con người – Xã hội” đòi hỏi việc giải quyết vấn đề môi trường và thực hiện công tác quản lý môi trường phải mang tính toàn diện và hệ thống. Con người cần phải nắm bắt cội nguồn của sự thống nhất đó, phải đưa ra được những phương sách thích hợp để giải quyết các mâu thuẫn nẩy sinh trong hệ thống. Bởi lẽ con người đã góp phần quan trọng vào việc phá vỡ tất yếu khách quan là sự thống nhất biện chứng giữa tự nhiên – con người – Xã hội. Chính vì vậy khoa học về quản lý môi trường, hay sinh thái nhân văn chính là sự tìm kiếm của con người nhằm nắm bắt và giải quyết các mâu thuẫn, tính thống nhất của hệ thống “Tự nhiên – con người – Xã hội”.
Cơ sở khoa học – kỹ thuật – công nghệ của quản lý môi trường.
Khoa học về môi trường là một lĩnh vực khoa học mới, thực sự nó xuất hiện và được phát triển mạnh từ những năm 1960 trở lại đây, làm cơ sở cho nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm, phát hiện những nguyên lý, quy luật môi trường giúp cho việc thực hiện quản lý môi trường.
Nhờ những kỹ thuật và công nghệ môi trường, các vấn đề ô nhiễm do hoạt động sản xuất của con người đang được nghiên cứu, xử lý hoặc phòng tránh, ngăn ngừa. Các kỹ thuật phân tích, đo đạc, giám sát chất lượng môi trường như kỹ thuật viễn thám, tin học được phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới giúp cho việc Quản lý môi trường hiệu quả hơn.
Cơ sở kinh tế của quản lý môi trường.
Hiện nay Quản lý môi trường được hình thành trong bối cảnh của nền Kinh tế thị trường và thực hiện điều tiết xã hội thông qua các công cụ kinh tế.
Trong nền Kinh tế thị trường mọi nguyên lý hoạt động được dựa trên cơ sở cung và cầu của thị trường, thông qua cạnh tranh, hoạt động phát triển và sản xuất của cải vật chất diễn ra dưới sức ép của sự trao đổi hàng hoá theo gía trị. Loại hàng hoá có chất lượng tốt và giá thành rẻ sẽ được tiêu thụ nhanh, ngược lại những hàng hoá kém chất lượng và giá thành cao thì sẽ không có chỗ đứng. Trên cơ sở những nguyên lý của kinh tế thị trường, người ta đã đưa ra các chính sách hợp lý và các công cụ kinh tế để điều chỉnh và định hướng hoạt động phát triển sản xuất có lợi cho công tác bảo vệ môi trường.
Cơ sở luật pháp cho Quản lý môi trường.
Cơ sở luật pháp cho quản lý môi trường thực chất là các văn bản về luật quốc tế và luật quốc gia về lĩnh vực môi trường.
Luật quốc tế về môi trường thực chất là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm quốc tế điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia, giữa quốc gia và tổ chức quốc tế trong việc ngăn chặn, loại trừ thiệt hại gây ra cho môi trường của từng quốc gia và môi trường ngoài phạm vi tàn phá quốc gia. Các văn bản luật quốc tế về môi trường đã được hình thành một cách chính thức từ thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, giữa các quốc gia châu Âu, châu Mỹ, châu Phi. Từ hội nghị quốc tế về “Môi trường và con người” tổ chức năm 1972 tại Stockholm, Thuỵ điển và sau hội nghị thượng đỉnh Rio 1992, Brazin đã có rất nhiều văn bản luật quốc tế được soạn thảo và ký kết. Cho đến nay đã có hàng ngàn các văn bản luật quốc tế về môi trường, trong số đó đã có nhiều văn bản được chính phủ Việt nam ký kết.
Trong phạm vi quốc gia, chúng ta cũng đã có nhiều văn bản pháp lý liên quan đến bảo vệ và quản lý môi trường. Văn bản quan trọng nhất là Luật bảo vệ môi trường được quốc hội thông qua ngày 27/12/1993.
Các văn bản pháp luật Quốc tế và Quốc gia là cơ sở quan trọng để thực hiện công tác quản lý Nhà nước vể bảo vệ môi trường.
Quản lý Nhà nước về môi trường.
Khái niệm Quản lý Nhà nước về môi trường.
Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường xác định rõ chủ thể là Nhà nước, bằng chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của mình đưa ra các biện pháp, luật pháp, chính sách Kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế - xã hội quốc gia.
Như vậy chúng ta có thể nhận thấy rằng Quản lý Nhà nước về môi trường xét về bản chất khác với những hình thức quản lý khác như Quản lý môi trường do các tổ chức phi chính phủ (NGO: None Goverment) đảm nhiệm; Quản lý môi trường dựa trên cơ sở cộng đồng; quản lý môi trường có tính tự nguyện…., Hình thức quản lý Nhà nước về môi trường chủ yếu là điều hành và kiểm soát (CAC: Comment And Control).
Tính tất yếu khách quan của Quản lý Nhà nước về môi trường.
a). Vấn đề ngoại ứng và hàng hoá công cộng.
Như chúng ta đã nghiên cứu ở chương II, ngoại ứng và hàng hoá công cộng là những nguyên nhân gây ra thất bại thị trường, nghĩa là thất bại về mặt chính sách trong quản lý môi trường, hậu quả là gây ra những thiệt hại cho môi trường, đe doạ nghiêm trọng tới sự phát triển bền vững của quốc gia. Vậy để khắc phục tình trạng nay đòi hỏi phải có sự Quản lý Nhà nước về môi trường.
b). Sở hữu Nhà nước về tài nguyên và môi trường.
Xem xét về sở hữu tài nguyên và thành phần môi trường, chúng ta đều thừa nhận các nguồn tài nguyên thiên nhiên và thành phần môi trường thuộc sở hữu Nhà nước, như vậy Nhà nước không thể giao cho đối tượng nào khác chịu trách nhiệm chính về quản lý môi trường, trách nhiệm đó phải thuộc về Nhà nước.
c). Những bài học của các quốc gia trên thế giới.
Những bài học Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cho thấy rằng cần phải có sự Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường. Đối với các nước phát triển, ví dụ như Nhật bản là quốc gia tiên phong đi đầu trong nhóm các nước đã phát triển, hiện nay đang truyền bá kinh nghiệm cho các quốc gia phát triển sau là cùng vơí sự phát triển Kinh tế – xã hội phải có sự quản lý Nhà nước về môi trường, bởi lẽ như họ trước đây do không quan tâm tới vấn đề môi trường mà chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế nên phải trả giá quá đắt cho sự phát triển của mình. Từ kinh nghiệm của các quốc gia phát triển sau như Singapo, rút ra từ bài học của các nước đã phát triển trước, ngay trong chiến lược phát triển Kinh tế – xã hội của mình, Nhà nước đã rất chú trọng tới Quản lý môi trường, chính vì vậy mà thành tựu đạt được của họ hiện nay đã được thế giới thừa nhận là có tính bền vững.
d). Thực trạng và những thách thứcđối với môi trường toàn cầu và ở Việt nam.
- Đối với những vấn đề môi trường toàn cầu.
Sau hơn 30 năm kể từ Hội nghị đầu tiên về môi trường của thế giới (Stockholm 1972) đến nay, cộng đồng thế giới đã có nhiều nỗ lực để đưa vấn đề môi trường vào các chương trình nghị sự ở cấp quốc tế và quốc gia. Tuy vậy hiện trạng môi trường toàn cầu được cải thiện không đáng kể. Môi trường chưa được lồng ghép với kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Dân số toàn cầu tăng nhanh, sự nghèo đói, sự khai thác, tiêu thụ quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự phát thải quá mức “khí nhà kính” v.v… là những vấn đề bức xúc có tính phổ biến trên toàn cầu.
Trong “tuyên bố Johannesburg về phát triển bền vững” năm 2002 của liên hợp quốc đã khẳng định về những thách thức mà nhân loại đang và sẽ phải đối mặt có nguy cơ toàn cầu là:
“ Môi trường toàn cầu tiếp tục trở nên tồi tệ. Suy giảm đa dạng sinh học tiếp diễn, trữ lượng cá tiếp tục giảm sút, sa mạc hoá cướp đi ngày càng nhiều đất đai màu mỡ, tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đã hiển hiện rõ ràng. Thiên tai ngày càng nhiều và ngày càng khốc liệt. Các nước đang phát triển trở nên dễ bị tổn hại hơn. Ô nhiễm không khí, nước và biển tiếp tục lấy đi cuộc sống thanh bình của hàng triệu người.”
- Đối với những vấn đề môi trường của việt nam.
+ Thực trạng về những vấn đề môi trường của Việt nam.
. Sự biến đổi khí hậu.
Từ thực tế về diễn biến của thời tiết khí hậu ở nước ta trong những năm vừa qua cho thấy tính chất biến đổi rất phức tạp, thất thường. Diễn biến nhiệt độ đang có xu thế tăng lên với đặc điểm là giá trị phân hoá mạnh theo cả không gian và thời gian. So sánh với biến đổi khí hậu toàn cầu cho thấy trong khi nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng khoảng 0,7% sau gần 150 năm (1854-2000) thì nhiệt độ trung bình năm của Hà nội đã tăng khoảng 0,75% sau 42 năm (1960 – 2001). Lượng mưa phân bố không đều, nhiều vùng lượng mưa tập trung khá lớn dẫn đến lũ lụt. Một số nơi như vùng Tây nguyên, vùng Bắc trung bộ thiếu mưa nghiêm trọng dẫn đến hạn hán. Nhìn chung, trong 30 năm gần đây lượng mưa ở miền Bắc có xu hướng giảm nhẹ, ngược lại lượng mưa ở miền Trung và miền Nam có xu hướng tăng. Bão, lũ, lụt diễn biến phức tạp, thường xuất hiện sớm với cường độ mạnh.
Từ những đánh giá trên cho thấy xu hướng biến đổi khí hậu ở Việt nam theo chiều hướng xấu.
. Môi trường không khí.
Không khí chịu tác động mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá, thực tế cho thấy chất lượng không khí ở đô thị và các khu công nghiệp ở Việt nam trong những năm gần đây có sự thay đôỉ không đáng kể. Điều đáng chú ý nhất đối với môi trường không khí là ô nhiễm bụi có tính điển hình và phổ biến ở khắp mọi nơi. Hầu hết các đô thị ở nước ta đều bị ô nhiễm bụi, nhiều nơi bị ô nhiễm bụi trầm trọng tới mức báo động. Nồng độ bụi trung bình ở hầu hết các đô thị đều vượt TCCP từ 2-3 lần, cá biệt có nơi vượt TCCP tới 5-7 lần. Nguyên nhân chính gây nên tình trạng ô nhiễm bụi là do thi công xây dựng mới và sửa chữa nhà cửa, đường sá, cống rãnh, hạ tầng kỹ thuật đô thị xảy ra thường xuyên và không quản lý tốt.
Nhìn chung, môi trường không khí ở Việt nam chưa bị ô nhiễm bởi các khí độc hại như SO2, NO2, CO. Tuy nhiên ở một số nút giao thông lớn, nồng độ chì và khí CO đã xấp xỉ hoặc vượt trị số TCCP. Kể từ sau khi triển khai sử dụng xăng không pha chì, số liệu quan trắc 6 tháng đầu năm 2002 cho thấy hàm lượng chì trong không khí đã giảm 40-50% so với cùng kỳ năm trước.
Chất lượng không khí ở vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa nhìn chung còn rất tốt, nhiều nơi môi trường trong lành, phù hợp với mục đích an dưỡng, du lịch và nghỉ ngơi.
. Môi trường đất.
Thoái hoá đất là xu thế phổ biến từ đồng bằng đến trung du và miền núi. Thực tế cho thấy các loại đất bị thoái hoá chiếm hơn 50% diện tích tự nhiên của cả nước. Các loại hình thoái hoá đất chủ yếu là xói mòn, rửa trôi, đất có độ phì nhiêu thấp và mất cần bằng dinh dưỡng, thoái hoá hữu cơ, khô hạn và sa mạc hoá, ngập úng, ngập lũ, đất trượt, sạt lở đất, mặn hoá, phèn hoá, đất mất khả năng sản xuất.
Đất có độ dốc lớn và đất trống đồi núi trọc, đặc biệt là vùng Tây nguyên và vùng Tây Bắc, đất dễ bị xói mòn khi có mưa lớn. Nhiễm phèn và nhiễm mặn đã xảy ra nghiêm trọng ở vùng đồng bằng sông Cửu long.
Sự thoái hoá đất là nguyên nhân dẫn đến năng suất cây trồng giảm. Nhiều vùng có nguy cơ hoang mạc hoá, đất cằn cỗi không thể canh tác được và sẽ dẫn đến giảm tỷ lệ đất nông nghiệp trên đầu người.
Việc sử dụng các hoá chất trong nông nghiệp như phân hoá học và thuốc trừ sâu tuy còn thấp nhưng không đúng kỹ thuật, là nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường cục bộ ở một số địa phương và xu hướng ngày càng gia tăng.
. Môi trường nước.
Ở nước ta do áp lực của gia tăng dân số cùng với tốc độ của công nghiệp hoá và đô thị hoá nhanh là nguyên nhân cơ bản gây nên áp lực đối với môi trường nước. Hầu hết nước thải sinh hoạt (bao gồm cả nước thải bệnh viện) ở các đô thị và 90% nước thải từ các cơ sở công nghiệp cũ chưa được xử lý, xả trực tiếp vào kênh, mương, sông, hồ, gây ra ô nhiễm nghiêm trọng đối với môi trường nước ở một số địa phương. Nhiều chỉ tiêu như BOD5, COD, NH4, tổng N, tổng P cao hơn tiêu chuẩn cho phép đối với nguồn nước loại A từ 2-3 lần.
Đánh giá tổng hợp môi trường nước ở nước ta cho thấy, chất lượng nước của 9 lưu vực sông chính còn tốt, điều đáng lưu ý là ở các vùng hạ lưu phần lớn đã bị ô nhiễm, có nơi đã bị ô nhiễm trầm trọng, như sông Cỗu, sông Cấm, sông Tam bạc ở phía Bắc, sông Thị vải, sông Đồng nai ở miền Nam. Chất lượng nước các sông ở miền Trung, nói chung còn tốt hơn các sông ở miền Bắc và miền Nam. Hiện nay tỷ lệ số dân được sử dụng nước hợp vệ sinh vào khoảng 53%, tỷ lệ này ở thành thị trung bình là 60-70%, ở nông thôn trung bình là 30-40%.
Nước biển ven bờ đã bắt đầu có dấu hiệu ô nhiễm. Hàm lượng các chất hữu cơ, chất dinh dưỡng, kim loại nặng, hoá chất bảo vệ thực vật ở một số nơi đã vượt tiêu chuẩn cho phép. Hàm lượng dầu ở một số vùng biển vượt quá tiêu chuẩn và đang có xu hướng tăng lên. Nước ngầm ở một số đô thị lớn đang có xu hướng cạn kiệt dần về lượng, có dấu hiệu ô nhiễm và suy giảm về chất. Những năm gần đây đã xảy ra hiện tượng suy giảm mực nước ngầm vào mùa hè ở Tây nguyên và các tỉnh miền núi phía Bắc. Do áp lực nước ngầm giảm gây ra xâm nhập mặn tăng lên ở nhièu vùng đất ven biển.
. Hiện trạng về rừng và đa dạng sinh học.
Việt nam hiện có khoảng 11,3 triệu ha rừng, trong đó 9,7 triệu ha rừng tự nhiên và 1,6 triệu ha rừng trồng. Từ năm 1990 đến nay, độ che phủ rừng tăng lên đáng kể, từ 27,2% năm 1990 lên 33,2% năm 2001. Tuy nhiên chất lượng rừng chưa được cải thiện và tiếp tục bị xuống cấp, rừng tự nhiên đầu nguồn và rừng ngập mặn vẫn bị tàn phá nghiêm trọng do áp lực của phát triển kinh tế. Hiện tại rừng giầu, kín nguyên sinh chỉ còn chiếm khoảng 13% trong khi rừng nghèo và rừng tái sinh chiếm tới 55% tổng diện tích rừng. Điều này giải thích vì sao chính phủ Việt nam đã chuyển chương trình 327 trước đây sang chương trình phủ xanh 5 triệu ha rừng hiện nay là cần thiết.
Việt nam có nhiều cảnh quan thiên nhiên và các hệ sinh thái phong phú, có nhiều loài đặc hữu, có giá trị khoa học và kinh tế lớn, chúng ta được xếp là một trong 10 quốc gia có đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới. Những năm gần đây đa dạng sinh học đã bị suy giảm vì những nguyên nhân chủ yếu như: Sự thu hẹp và mất dần nơi cư trú của các giống loài do cháy rừng, một phần đất đai chuyển đổi mục đích sử dụng, do khai thác và đánh bắt không hợp lý, do ô nhiễm môi trường, do tình trạng buôn bán trái phép động thực vật quý hiếm. Trong 5 thập kỷ qua đã mất 80% diện tích rừng ngập mặn, chủ yếu là do phát triển nuôi trồng thuỷ hải sản. Khoảng 96% các rạn san hô đang bị đe doạ nghiêm trọng. Nhằm bảo tồn đa dạng sinh học của quốc gia, Nhà nước đã đẩy mạnh phát triển hệ thống các khu rừng đặc dụng, hiện có 17 vườn quốc gia, 58 khu bảo tồn thiên nhiên và 18 khu bảo vệ cảnh quan đã được quy hoạch chính thức.
. Môi trường nông thôn.
Xem xét về mức độ ô nhiễm môi trường ở khu vực nông thôn có những vấn đề nổi lên như ô nhiễm do các điều kiện vệ sinh và cơ sở hạ tầng kỹ thuật yếu kém. Việc sử dụng không hợp lý các loại hoá chất trong nông nghiệp (phân hoá học và thuốc trừ sâu) đã và đang làm cho môi trường nông thôn ô nhiễm và suy thoái. Hiện nay ở nước ta có khoảng trên 1000 làng nghề. Việc phát triển tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề và các cơ sở chế biến ở một số vùng nông thôn, do công nghệ sản xuất lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ, phân tán xen kẽ trong dân và hầu như không có thiết bị thu gom, xử lý chất thải, đã gây ra ô nhiễm môi trường nặng nề, đặc biệt nghiêm trọng là ở các làng nghề tái chế kim loại (tái chế chì, thép, đúc đồng), tái chế ni lông, sản xuất giấy, nhuộm, vàng mã, nung gạch, ngói, sành sứ v.v…. Đối với phần lớn các khu vực nông thôn, nước sinh hoạt và vệ sinh là vấn đề cấp bách, điều kiện vệ sinh môi trường nông thôn chưa được cải thiện đáng kể, tỷ lệ số hộ có hố xí hợp vệ sinh chỉ đạt 28-30% và số hộ ở nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh là 30-40%.
. Môi trường đô thị và khu công nghiệp.
Nước ta hiện nay có 651 đô thị lớn nhỏ, trong đó có 4 thành phố trực thuộc trung ương, 20 thành phố trực thuộc tỉnh, 62 thị xã và 565 thị trấn. Tỷ lệ dân đô thị trên tổng dân số năm 1986 là 19%; năm 1990 là 20%; năm 1999 là 23%; năm 2002 khoảng 25%; dự báo đến năm 2010 là 33% và năm 2020 là 45%.
Ô nhiễm môi trường đô thị ở nước ta nổi lên những vấn đề cơ bản sau đây, thứ nhất là ô nhiễm do chất thải rắn, tỷ lệ thu gom rác thải tính trung bình ở các đô thị mới đạt khoảng 60-70%, đặc biệt là chất thải nguy hại chưa được thu gom và xử lý theo đúng quy định, thứ hai là bụi, khí thải, tiếng ồn do hoạt động giao thông vận tải nội thị và mạng lưới sản xuất quy mô vừa và nhỏ, cùng với hạ tầng kỹ thuật đô thị yếu kém là nguyên nhân làm cho điều kiện vệ sinh môi trường ở nhiều đô thị đang thực sự lâm vào tình trạng đáng báo động. Hệ thống cấp nước, thoát nước lạc hậu, xuống cấp, không đáp ứng được yêu cầu. Mức ô nhiễm về bụi ở nhiều nơi vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần, đặc biệt tại một số thành phố lớn như Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều đô thị khác nồng độ bụi vượt tiêu chuẩn cho phép 5-7 lần. Do phát triển xây dựng đô thị không theo kịp với phát triển dân số đô thị, đã hình thành nhiều “xóm liều”, “xóm bụi” trong đô thị, là nơi có điều kiện môi trường xấu nhất, có nhiều tệ nạn xã hội và làm mất mỹ quan đô thị.
Nước ta hiện nay có khoảng 70 khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, nhưng chỉ khoảng 1/3 trong số đó đã xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và có khoảng 12 khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung.
. Môi trường lao động.
Môi trường lao động ở đây được hiểu là môi trường nơi làm việc của người lao động.
Những năm gần đây ở nước ta môi trường lao động không ngừng được cải thiện, có tác động tích cực đến sức khoẻ người lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên còn nhiều khu vực sản xuất không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn lao động. Tình trạng ô nhiễm về bụi, hoá chất độc hại, tiếng ồn, nhiệt độ đã làm gia tăng tỷ lệ công nhân mắc bệnh nghề nghiệp, nhất là trong các ngành hoá chất, luyện kim, vật liệu xây dựng, khai thác mỏ v.v….
. Môi trường xã hội.
Do những năm vừa qua tăng trưởng kinh tế cao và liên tục là một trong những nhân tố cơ bản thúc đẩy sản xuất, góp phần xoá đói, giảm nghéo, tạo nên môi trường xã hội ngày càng được cải thiện và ổn định hơn. Tuy nhiên tỷ lệ hộ nghèo còn ở mức cao, sự chênh lệch thu nhập giữa các nhóm dân cư giàu và nghèo có xu hướng ngày càng mở rộng. Người nghèo còn gặp nhiều hạn chế trong việc tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản. Những thành tựu cơ bản của các chương trình xoá đói giảm nghèo còn thiếu tính bền vững, nguy cơ tái nghèo còn lớn. Những nguồn lực trong nước còn quá hạn hẹp, lao động dư thừa nhiều, tỷ lệ lao động được qua đào tạo còn rất thấp.
Cùng với tiến trình mở cửa và hội nhập, môi trường xã hội ở các đô thị, khu dân cư tập trung, đặc biệt là tầng lớp dân cư có thu nhập thấp, gặp phải nhiều vấn đề bức xúc như thiếu nhà ở, thiếu điều kiện vệ sinh môi trường, các hiện tượng ma tuý, bạo lực có chiều hướng gia tăng, nhiều tệ nạn xã hội phát sinh nếu không có một sự quản lý chặt chẽ và chính sách phù hợp cho các khu vực đó.
. Những sự cố môi trường.
Những năm gần đây sự cố môi trường xảy ra liên tục đã gây ra những thiệt hại hết sức nặng nề. Tai biến thiên nhiên có xu hướng gia tăng , hiện tượng lũ quét, lụt, bão, lốc, mưa đá, hạn hán, nứt dất, xói lở bờ sông, bờ biển trong thập niên vừa qua đã gây ra những thiệt hại to lớn về người, nàh cửa, tài sản, mùa màng ở nhiều nơi, tổng thiệt hại do lũ lụt gây ra từ năm 1998 đến tháng 6 năm 2002 ước tính lên đến hàng chục tỷ đồng.
Xem xét các vụ cháy rừng từ những năm 1999 trở lại đây cho thấy những năm 1999, 2000, và 2001 sự cố cháy rừng có chiều hướng giảm, nhưng năm 2002 lại có xu hướng tăng lên do ảnh hưởng của khí hậu khô nóng và hoạt động thiếu ý thức của con người.
Những sự cố do con người gây ra mà điển hình là các sự cố tràn dầu vẫn tiếp tục xảy ra chưa có sự ngăn chặn triệt để. Năm 1998 đã xác định được 6 vụ với tổng lượng dầu tràn là gần 13.000 tấn, năm 1999 xảy ra 10 vụ với tổng lượng dầu tràn là gần 8.000 tấn dầu, trong năm 2000, 2001 và 2002 mỗi năm xảy ra 1-3 vụ, với tổng lượng dầu tràn từ 24-800 tấn.
Những hậu quả của chất độc hoá học do chiến tranh để lại còn hết sức nặng nề, hàng vạn trẻ em bị dị tật bẩm sinh, hàng triệu ha rừng bị suy thoái đến nay vẫn chưa phục hồi được.
Những vụ ngộ độc thực phẩm có chiều hướng ngày càng gia tăng và gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho hàng vạn người. Tác động không nhỏ tới sức khoẻ và lao động của người dân.
+ Những thách thức đối với môi trường của Việt nam trong thời gian tới.
Những thách thức đang đặt ra cho bảo vệ và quản lý môi trường ở việt nam trong thời gian tới, mà cụ thể là từ nay đến năm 2010 đã được xác định gồm những vấn đề cơ bản sau đây:
. Thứ nhất đó là tình trạng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị bảo vệ môi trường thấp kém, lạc hậu, ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, trong khi đó khả năng đầu tư cho môi trường của Nhà nước cũng như của các doanh nghiệp đều bị hạn chế.
. Thứ hai là sự gia tăng dân số, di dân tự do và đói nghèo tiếp tục gây ra những áp lực lớn đối với tài nguyên và môi trường.
. Thứ ba là bảo vệ môi trường chưa được lồng ghép một cách hài hoà với phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, điều đó sẽ dẫn đến khó khăn trong việc thực hiện ngăn ngừa ô nhiễm và bảo đảm phát triển bền vững.
. Thứ tư là nhận thức về môi trường và phát triển bền vững chưa đầy đủ, ý thức bảo vệ môi trường trong xã hội còn thấp.
. Thứ năm là tổ chức và năng lực quản lý môi trường chưa đáp ứng yêu cầu.
. Thứ sáu là những mặt trài của hội nhập quốc tế và tự do hoá thương mại toàn cầu gây ra nhiều tác động phức tạp về mặt môi trường.
. Thứ bảy là tác động của những vấn đề môi trường toàn cầu, môi trường khu vực ngày càng mạnh và phức tạp hơn.