Tạo động lực lao động yếu tố quyết định sự thành công của các công ty
Động lực lao động là gì? Yếu tố nào ảnh hưởng tới động lực lao động? Ứng dụng của các học thuyết tạo động lực vào các Công ty ra sao? Biểu hiện của động lực lao động và sự mất động lực lao động là thế nào? Tại sao phải nghiên cứu động lực lao động? Cần ...
Động lực lao động là gì? Yếu tố nào ảnh hưởng tới động lực lao động? Ứng dụng của các học thuyết tạo động lực vào các Công ty ra sao? Biểu hiện của động lực lao động và sự mất động lực lao động là thế nào? Tại sao phải nghiên cứu động lực lao động? Cần nghiên cứu đề tài theo mô hình nào cho thích hợp nhất? Toàn bộ chương 1 tôi sẽ nghiên cứu làm rõ!
Khái niệm
“Nhân lực là nguồn lực của mỗi con người, bao gồm thể lực và trí lực”(1)
“Nguồn nhân lực trong tổ chức chính là tất cả những người lao động làm việc cho tổ chức đó”(2)
“Động lực lao động là sự khao khát và tự nguyện của người lao động để tăng cường nỗ lực nhằm hướng tới đạt được các mục tiêu của tổ chức”(3)
Tạo động lực lao động là quá trình đưa ra và áp dụng các giải pháp thích hợp nhằm kích thích người lao động để họ xuất hiện động lực trong quá trình lao động, thúc đẩy họ hài lòng với công việc và mong muốn đóng góp cho tổ chức.
Các yếu tố ảnh hưởng tới tạo động lực lao động
Động lực của người lao độn
Thứ nhất , các yếu tố thuộc về người lao động.
Mục tiêu cá nhân: người lao động và Công ty đều có những mục tiêu khác nhau. Không phải lúc nào mục của người lao động cũng đồng nhất với mục tiêu của Công ty mà có khi hai mục tiêu lại trái ngược nhau. Nếu không có sự dung hòa thì cả hai bên đều không đạt được mục tiêu của mình. Vì vậy nhiệm vụ của người quản lý là làm sao hướng các mục tiêu của cá nhân vào thực hiện những mục tiêu theo kỳ vọng của Công ty. Mục tiêu cần cụ thể rõ ràng, có thể lượng hóa và so sánh được, mục tiêu cũng cần có tính thách thức, cần hướng người lao động vào xây dựng và thực hiện các mục tiêu, tạo điều kiện để người lao động thực sự hoàn thành tốt mục tiêu đó.
Hệ thống nhu cầu cá nhân: mỗi người lao động trong Công ty đều có những mong muốn được thỏa mãn những nhu cầu riêng của mình để tồn tại và phát triển. Có thể chia nhu cầu của người lao động thành nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần, hai loại nhu cầu này luôn luôn phải được thỏa mãn tốt nhất. Vì vậy người quản lý cần phải biết được rằng người lao động muốn gì từ công việc của họ để có cách thỏa mãn nhu cầu cho họ nhằm đem lại động lực lao động.
Khả năng và kinh nghiệm làm việc: có nhiều nghiên cứu cho rằng người lao động càng có khả năng và kinh nghiệm cao trong công việc thì họ càng tự tin đảm nhận công việc đó và tự chủ trong quá trình lao động. Nhu cầu được tôn trọng và tự khẳng định mình là rất cao và do vậy họ có động lực cao trong lao động. Vì vậy để tạo ra động lực cho người lao động người quản lý cần giao những công việc phù hợp với khả năng và kinh nghiệm của người lao động, tạo điều kiện để người lao động phát huy hết lợi thế của mình.
Đặc điểm về cá nhân người lao động: tính cách, tâm lý, nhân cách, sở thích, văn hóa, tuổi tác, học vấn, dân tộc, tôn giáo, các quan niệm về giá trị đều ảnh hưởng tới động lực lao động của họ. Trong Công ty sự đa dạng về đặc điểm cá nhân người lao động là đương nhiên. Người quản lý cần nắm bắt và hiểu rõ vấn đề này để có cách tạo động lực cho người lao động.
Tình trạng kinh tế của người lao động: nhìn chung người lao động có tình trạng kinh tế càng khó khăn thì kinh tế là yêu cầu số một để tạo ra động lực lao động cho họ. Người lao động càng giàu có thì mong muốn về kinh tế sẽ giảm đi và thay vào đó là các mong muốn khác. Trong Công ty sự khác nhau về tình trạng kinh tế của người lao động là khác nhau, chính vì vậy người quản lý cần nắm rõ vấn đề này để thỏa mãn nhu cầu kinh tế khác nhau của những người lao động khác nhau trong Công ty để tạo ra động lực cao nhất cho người lao động.
Thứ hai, các yếu tố thuộc về Công ty
Công việc mà người lao động đảm nhận: bản chất, đặc điểm công việc, tính hấp dẫn hay nhàm chán của công việc, sự đa dạng hay đơn điệu của công việc đều ảnh hưởng tới động lực của người lao động. Người lao động chỉ hoàn thành tốt công việc khi họ cảm nhận rằng có sự hứng thú trong công việc, sự hứng thú trong lao động chỉ đạt được khi mỗi cá nhân được bố trí công việc phù hợp với khả năng sở trường của mình, được hưởng những quyền lợi xứng đáng khi hoàn thành tốt các công việc được giao. Khi người lao động càng quen với những nhiệm vụ của công việc thì tính nhàm chán càng cao và đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng giảm động lực trong lao động. Vì vậy để tạo ra động lực cho người lao động thì những người quản lý phải quan tâm tới công tác phân tích và thiết kế công việc để sắp xếp bố trí công việc sao cho phù hợp với khả năng sở trường của người lao động đồng thời phải xác định những nhiệm vụ mang tính thách thức nhưng phù hợp, phân chia trách nhiệm rõ ràng.
Các chính sách quản lý nhân sự: tuyển dụng và bố trí nhân lực, đánh giá thực hiện công việc, đào tạo & phát triển, trả công lao động, khuyến khích khen thưởng, phúc lợi lao động, an toàn vệ sinh lao động… đều có ảnh hưởng rất lớn tới động lực lao động. Việc xây dựng một chính sách quản lý nhân sự đúng đắn và hợp lý là rất cần thiết để thực hiện thắng lợi các muc tiêu của Công ty. Muốn vậy nhà quản lý nhân sự cần phải thực sự quan tâm tới công tác nhân sự, thu hút người lao động cùng tham gia xây dựng các chính sách quản lý nhân sự. Các chính sách phải thực sự khoa học, rõ ràng, linh hoạt mềm dẻo, đáng tin cậy, công bằng và mang tính kích thích cao… có như vậy mới tác động tới động lực của người lao động trong Công ty.
Văn hóa Công ty: các mục tiêu, các chính sách quản lý, quan hệ đồng nghiệp, bài hát, trang phục Công ty, bầu không khí tâm lý tập thể, phong cách làm việc của Công ty, những biểu tượng vật chất, những câu chuyện, giai thoại, những nghi thức… Tất cả những điều đó làm nên những giá trị, niềm tin, bản sắc riêng, tôn chỉ hành động của người lao động trong Công ty và chính điều này ảnh hưởng tới thái độ lao động và hành vi của người lao động. Việc xây dựng một văn hóa mạnh giúp cho người quản lý và người lao động xít lại gần nhau hơn, hiểu nhau hơn, tạo ra tinh thần làm việc tự giác và giảm sự giám sát trong công việc mà vẫn hiệu quả. Từ đó tạo ra sự đoàn kết và nhất trí cao giữa các thành viên, tăng cường sự hợp tác, sự trung thành và cam kết gữa các thành viên với Công ty.
Phong cách quản lý của lãnh đạo: phong cách quản lý độc đoán chuyên quyền, dân chủ hay tự do đều có ảnh hưởng rất lớn tới động lực của người lao động. Mỗi phong cách khác nhau sẽ có những tác động khác nhau cho nhiều trường hợp. Nếu quá độc đoán sẽ gây ra tâm lý căng thẳng giữa người quản lý và người lao động, họ sẽ sợ sệt mà làm việc và không thể có động lực và cũng không thể phát huy sáng kiến trong lao động, cái mà người quản lý sẽ nhận được từ phía người lao động là khẩu phục mà tâm không phục và một cái máy làm việc không hơn không kém. Nếu quản lý quá dân chủ thì trong nhiều trường hợp người quản lý không thể giải quyết vấn đề nhanh chóng mà nhiều khi lại khó khăn trong giải quyết các vấn đề và các mối quan hệ trong lao động, trong tình huống này người quản lý không mạnh mẽ và quyết đoán thì dễ rơi vào tình trạng “dĩ hòa vi quý” và nhiều khi khó kiểm soát, điều khiển nhân viên của mình. Việc sử dụng phong chách lãnh đạo như thế nào sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh và tình huống khác nhau sẽ có ý nghĩa rất lớn trong công tác tạo động lực cho người lao động. Người lãnh đạo trong Công ty chính là tấm gương để người lao động noi theo, họ là những người đưa ra các thông tin và cũng là những người tiếp nhận thông tin từ phía người lao động. Mối quan hệ hai chiều này sẽ tác động rất lớn đến hành vi, tâm trạng, tình cảm, thái độ, động cơ làm việc của người lao động. Để tạo ra động lực cho người lao động, phát huy sáng kiến của họ thì người quản lý phải tạo dựng được lòng tin và sự tôn trọng từ cấp dưới, phải biết chỉ rõ ý kiến nào là hợp lý và phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại, phải thể hiện rõ thiện cảm mong muốn hợp tác và sẵn sàng lắng nghe ý kiến của người lao động nhưng đồng thời cũng phải biết thể hiện chính kiến của mình, phải có khả năng quyết đoán và mạnh mẽ trong nhiều tình huống đồng thời phải thể hiện là một người có khả năng thuyết phục trong công việc. Với tư cách là người quản lý hãy là người tư vấn cho cấp dưới, dù bận rộn nhưng các nhà quản lý hãy dành thời gian để quan tâm tới tâm tư nguyện vọng và tình cảm của người lao động, đưa ra những lời khuyên hợp lý, đúng lúc cho người lao động, chỉ dẫn họ và cùng họ tìm ra phương án giải quyết tốt nhất. Điều này sẽ tạo ra sự gắn kết thực sự giữa cấp trên và cấp dưới, tạo ra quan hệ tốt đẹp hài hòa, thực sự tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau giữa người lãnh đạo và người lao động. Người lãnh đạo cần xác định cho mình phong cách quản lý phù hợp và linh hoạt để thúc đẩy, dẫn dắt nhân viên hành động theo mục tiêu phát triển của Công ty. Muốn vậy trước hết người lãnh đạo phải là tấm gương sáng cho cấp dưới, phải công bằng trong đối xử với nhân viên, phải hiểu nhân viên, tôn trọng nhân viên, tạo điều kiện để nhân viên phát huy hết năng lực sở trường của mình, hãy giúp đỡ nhân viên khi cần thiết, đồng thời người quản lý phải là một tấm gương mẫu mực và phải thực sự tuân thủ các quy định của Công ty.
Triết lý quản lý của lãnh đạo cấp cao: những tư tưởng, quan điểm của nhà lãnh đạo cấp cao về cách thức quản lý con người sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả thái độ tinh thần làm việc của người lao động. Con người luôn có những thái độ, tình cảm, sự sáng tạo, lòng nhiệt huyết và niềm tin cao trong công việc nếu họ được đối xử một cách xứng đáng. Vậy triết lý của nhà quản lý phải làm sao hướng vào con người và vì con người phục vụ có như vậy con người mới hết lòng và có động lực lao động mà phục vụ Công ty. Khi xây dựng triết lý quản lý con người nhà quản lý cần chú ý đến những điều sau:tôn trọng người lao động như tôn trọng bản thân và quý mến họ như những người bạn; không ngừng hoàn thiện những điều kiện thuận lợi để người lao động hoàn thành tốt công việc được giao; quan tâm đến người lao động như những thành viên ruột thịt trong gia đình, chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần, tình cảm, tâm sinh lý xã hội một cách đầy đủ và chu đáo, nâng cao giá trị của người lao động, làm cho họ thấy mối quan hệ biện chứng và gắn bó giữa họ và công việc; quản lý con người văn minh, nhân đạo, mềm dẻo, linh hoạt làm cho họ ngày càng hạnh phúc và biến lao động tại doanh nghiệp thành nhu cầu bậc nhất của cuộc sống; giải quyết các vấn đề liên quan đến người lao động phải nguyên tắc, công bằng nhưng không được thiếu tình người; làm cho người lao động thấy rõ tôn chỉ, hiểu và hành động theo tôn chỉ mang bản sắc riêng của Công ty.
Điều kiện làm việc: trang thiết bị nơi làm việc, bố trí nơi làm việc, tổ chức nơi làm việc, phục vụ nơi làm việc, cải thiện điều kiện làm việc… đều có ảnh hưởng rất lớn tới tâm sinh lý, tình cảm, thái độ, sự phát huy khả năng sáng kiến của người lao động… Người quản lý cần phải tạo ra điều kiện làm việc thuận lợi nhất cho người lao động để tạo ra động lực lao động cho họ. Vì vậy người quản lý cần xem xét các vấn đề sau: trang thiết bị nơi làm việc cần đầy đủ hợp lý và khoa học; bố trí các phương tiện vật chất kỹ thuật cần đảm bảo về không gian diện tích, phù hợp với thị lực của người lao động, tạo tư thế hợp lý, tiết kiệm động tác, an toàn đảm bảo sức khỏe cho người lao động, tạo hứng thú cho người lao động, chú ý bố trí chung và bố trí bộ phận sao cho khoa học và nghệ thuật; việc tổ chức phục vụ nơi làm việc cần tập trung chuyên môn hoá các chức năng phục vụ thành chức năng riêng, thực hiện phân công hợp tác hợp lý trong bộ phận hợp lý, phải áp dụng các phương pháp tính tối ưu để lượng hoá các công việc phục vụ, phải tăng cường cơ giới hoá lao động phục vụ, gắn kết trách nhiệm của lao động phục vụ với lao động sản xuất chính, có thể kết hợp hình thức phục vụ tập trung và hình thức phục vụ phân tán sao cho khoa học hợp lý nhất; thực hiện các biện pháp kỹ thuật, kinh tế, giáo dục, hành chính, khen thưởng để cải thiện điều kiện làm việc sao cho phù hợp với đặc điểm lao động, sức khỏe, khả năng trình độ và tâm sinh lý của người lao động.
Đặc điểm về kỹ thuật và công nghệ: trình độ kỹ thuật và công nghệ của Công ty cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới động lực làm việc của người lao động. Công nghệ càng hiện đại càng cần những người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, có năng lực làm việc tốt, tinh thần và thái độ làm việc hăng say nhưng đồng thời số lao động cần sử dụng lại giảm đi. Việc sử dụng công nghệ càng hiện đại sẽ càng đòi hỏi người lao động cao hơn cả về trình độ lao động, sức khóe, tâm lý, khả năng sáng tạo, tinh thần làm việc hăng say, sáng tạo. Thách thức và sức ép đối với người lao động sẽ cao hơn, người lao động phải không ngừng phấn đấu về mọi mặt để làm chủ công nghệ kỹ thuật nếu không sẽ bị đào thải. Để người lao động thực sự bắt kịp với sự thay đổi của công nghệ, tạo ra sự tương thích tốt nhất giữa người lao động và kỹ thuật công nghệ thì Công ty cần đào tạo họ về công nghệ cho người lao động, chuẩn bị tâm lý cho người lao động để họ sẵn sàng làm việc với công nghệ mới một cách hiệu quả nhất. Sử dụng kỹ thuật và công nghệ thích hợp đồng thời cần có sự chuẩn bị để người lao động nắm bắt kỹ thuật và công nghệ của Công ty sẽ là một yếu tố rất quan trọng để tạo ra động lực cho người lao động.
Thứ ba, các yếu tố thuộc về xã hội
Nhìn nhận và sự quan tâm của xã hội đối với ngành nghề: một ngành nghề nào đó càng được xã hội quan tâm và tôn trọng thì càng tạo ra động lực cho người lao động làm việc trong lĩnh vực đó, vì khi người lao động làm những công việc mà xã hội quan tâm và tôn trọng họ sẽ có một cảm giác tự hào về chính công việc của họ, họ sẽ phấn đấu hết mình cho công việc của mình để thực sự xứng đáng với sự nhìn nhận của xã hội. Ngược lại với những công việc mà xã hội không hề quan tâm hoặc coi thường thì người lao động sẽ giảm động lực làm việc vì họ luôn luôn tự ty trong công việc mà họ đảm nhận. Vì vậy một nhà quản lý giỏi cần phải nắm bắt điều này để có cách điều chỉnh thích hợp, người quản lý cần có cách tạo ra điều kiện tốt nhất cho người lao động để họ hứng thú với công việc mà mình đảm nhận, cần thực hiện các biện pháp nâng cao hình ảnh và vị thế cũng như cách nhìn nhận của xã hội đối với ngành nghề đồng thời tác động tới người lao động để họ thực sự coi trọng và tự hào về công việc mà mình đảm nhận.
Pháp luật của Chính phủ: luật pháp của chính phủ đặc biệt là luật pháp về lao động là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo các quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động, đặc biệt là người lao động khi họ ở vào thế yếu hơn trong quan hệ lao động. Luật pháp nói chung và luật pháp về lao động nói riêng đảm bảo cho mọi người có được sự bình đẳng trên thị trường lao động, chống lại sự phân biệt đối xử. Luật pháp nghiêm minh, thích hợp tạo ra sự công bằng, cuộc sống ổn định, bình yên và người lao động sẽ yên tâm lao động. Khi luật pháp về lao động càng hoàn thiện, công minh và hiệu lực thì người lao động sẽ càng yên tâm hơn trong lao động vì họ sẽ không phải sợ sự bắt ép vô lý của giới chủ đồng thời họ cũng không thể đòi hỏi thái quá đối với người sử dụng lao động. Chính phủ cần kiện toàn hệ thống pháp luật và đặc biệt là hệ thống pháp luật về lao động để đảm bảo các quyền lợi cho người lao động để tạo ra động lực lao động cho họ góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Đồng thời giới chủ, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, bộ Lao động – Thương binh xã hội, và các bộ ngành liên quan cũng phải tích cực vào cuộc để cùng tham gia xây dựng, hoàn thiện pháp luật đặc biệt là pháp luật về lao động.
Bối cảnh của thời đại: thời đại thay đổi với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và xu hướng hội nhập toàn cầu của nền kinh tế. Thời đại ngày nay đòi hỏi một đội ngũ lao động chuyên nghiệp, có trình độ, có năng lực, có sức chịu đựng cao, lao động hăng say, năng động, sáng tạo. Nắm bắt được xu hướng của thời đại các nhà quản lý cần phải đào tạo một đội ngũ lao động phù hợp để họ bắt kịp với xu hướng biến đổi của thời đại và qua đó tạo ra động lực cho người lao động.
Các giá trị về văn hoá và truyền thống dân tộc: tất cả những giá trị, niềm tin, truyền thống… của dân tộc đều ảnh hưởng đến tinh thần và thái độ làm việc của người lao động. Ở những nước Mỹ, Anh đề cao văn hóa cá nhân và các thành viên có xu hướng tìm kiếm lợi ích của chính bản thân mình, tiếp đến là những người thân thiết gần gũi bên họ, các cá nhân coi trọng sự cố gắng phấn đấu bằng chính bản thân họ, họ muốn khẳng định bản thân bằng khả năng của chính bản thân mình, vì vậy sự liên kết và tính tập thể trong lao động của họ là không cao. Trong khí đó văn hóa của người Nhật lại đề cao tinh thần tập thể, mong muốn sư che chở, sự liên kết và hợp tác giúp đỡ nhau để cùng hoàn thành công việc. Rồi văn hóa ưa thích sự mạo hiểm hay không thích sự mạo hiểm, sự phân biệt giới tính, chủng tộc, đẳng cấp… đều có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ, hành vi, tình cảm, kỳ vọng, mong đợi của người lao động. Bởi vậy khi xây dựng các chính sách về Quản trị nhân lực trong Công ty cần xem xét đến yếu tố thuộc văn hóa, truyền thống của dân tộc.
Hệ thống phúc lợi xã hội: phúc lợi xã hội là một yếu tố rất quan trọng để đảm bảo cuộc sống cho người lao động đặc biệt là khi họ gặp khó khăn, khi họ về hưu. Khi hệ thống phúc lợi xã hội càng phát triển thì đời sống của người lao động càng được đảm bảo, và do đó họ sẽ yên tâm để lao động và cống hiến hết mình cho công việc. Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện luật pháp về phúc lợi xã hội để tạo sự yên tâm cho người lao động khi họ công tác. Đồng thời người sử dụng lao động cũng phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống phúc lợi riêng cho Công ty mình sao cho phù hợp nhất với nhu cầu, nguyện vọng, sở thích của người lao động và phù hợp với khả năng của Công ty để tác động tới động lực làm việc của nhân viên.
Đặc điểm về ngành và lĩnh vực hoạt động của Công ty: mỗi Công ty hoạt động trong ngành nghề và lĩnh vực khác nhau sẽ có những vị thế và đặc điểm khác nhau, do đó cũng sẽ tác động tới kỳ vọng và mong đợi của người lao động khác nhau. Thông thường trong lĩnh vực công người lao động mong đợi sự thành đạt và sự ổn định trong công việc, trong khi đó trong lĩnh vực tư người lao động lại đánh giá cao sự thành đạt, thu nhập, sự năng động, linh hoạt trong công việc. Tại Việt Nam một số ngành nghề rất hấp dẫn người lao động như: hàng không, bưu điện, dầu khí, ngân hàng… Những ngành nghề này thường thu hút những lao động có trình độ cao, năng động sáng tạo… và thu nhập trong ngành nghề này cũng cao hơn. Và người lao động làm việc trong ngành nghề này cũng tự hào và vui vẻ hơn. Đồng thời do đặc trưng của ngành hoạt động trong môi trường cạnh tranh cao và năng động nên cũng đòi hỏi người lao động phải luôn luôn cố gắng phấn đấu hết mình cho công việc nếu không sẽ bị đào thải.
Ứng dụng hệ thống nhu cầu của Maslow
Người quản lý cần tìm hiểu nhân viên của mình đang ở đâu trong hệ thống thứ bậc nhu cầu để tìm cách thoả mãn nhu cầu đó của họ nhằm tạo ra động lực lao động cho họ.
Người quản lý cần phải biết tạo ra nhu cầu mới, tạo ra những chính sách đối đãi mới mẻ đa dạng nhằm kích thích người lao động.
Khi một nhu cầu nào đó được thoả mãn thì sẽ không còn có ý nghĩa tạo ra động lực cho người lao động nữa nên người quản lý đừng bao giờ nghĩ chỉ chú trọng vào một vấn đề nào đó để thoả mãn cho người lao động.
Mỗi người lao động khác nhau cần được thoả mãn bằng những nhu cầu khác nhau, tại những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau. Khi nhu cầu bậc thấp được thoả mãn thì nhu cầu bậc cao sẽ xuất hiện.
Ứng dụng học thuyết tăng cường tích cực của B.F.Skinner
Người quản lý cần đưa ra các chuẩn mực hành vi tích cực và tiêu cực để định hướng cho người lao động. Đồng thời người quản lý cần phải đảm bảo rằng những chuẩn mực đó được người lao động nắm vững.
Cần đảm bảo thực hiện khen thưởng một cách công bằng và công khai.
Thực hiện thưởng phạt phải gần với thời điểm xảy ra hành vi (kịp thời).
Nên nhấn mạnh các hành vi khen thưởng hơn là trách phạt.
Ứng dụng học thuyết kỳ vọng của Victor Vroom
Làm cho người lao động hiểu được mối quan hệ trực tiếp giữa nỗ lực và kết quả (thông qua đánh giá thực hiện công việc).
Làm cho người lao động thấy rõ được mối quan hệ giữa kết quả và phần thưởng đạt được. Chính sách thù lao công bằng và hợp lý là cơ sở giúp người lao động có kỳ vọng tốt về Công ty.
Ứng dụng học thuyết công bằng của J.Stacy Adams
Tạo ra và duy trì sự công bằng trong đối xử với người lao động: sự đóng góp của các cá nhân và các quyền lợi mà họ được hưởng.
Tránh sự phân biệt đối xử với người lao động bất kể vì lý do gì.
Ứng dụng học thuyết hệ thống hai yếu tố của F.Herzberg.
Duy trì các yếu tố của môi trường cho người lao động giúp họ cảm nhận được môi trường làm việc là phù hợp.
Tăng cường và đề cao trách nhiệm trong thực hiện công việc.
Tạo cơ hội để họ thực hiện tốt công việc và tạo cơ hội thăng tiến cho họ.
Ghi nhận thành tích của người lao động.
Tạo điều kiện hết mức để người lao động hoàn thành tốt công việc.
Nhấn mạnh vai trò của phân tích và thiết kế công việc phù hợp với khả năng, sở trường của người lao động, luôn gây hứng thú cho người lao động.
Đề cao luân chuyển, làm giàu, mở rộng trong công việc để gây sự hứng thú.
Ứng dụng học thuyết đặt mục tiêu của Edwin Locke
Cần xác định cho người lao động một mục tiêu cụ thể mang tính thách thức theo định hướng của Công ty, hướng người lao động vào việc đặt ra các mục tiêu và phấn đấu thực hiện tốt các mục tiêu đó.
Nâng cao vai trò của người lao động tham gia vào các hoạt động của Quản trị nhân lực và các quyết định nhân sự của Công ty.
Biểu hiện của động lực lao động
Để đánh giá nhân viên của mình có động lực lao động hay không để có biện pháp tác động thích hợp nhằm đem lại hiệu quả cho Công ty nhà quản lý nhân sự có thể quan sát qua biểu hiện của động lực lao động. Khi nhân viên có động lực lao động thì thường được biểu hiện như sau:
Thứ nhất, ý thức lao động tốt, tinh thần lao động hăng say, nhiệt tình, làm việc hết mình, yêu nghề nghiệp yêu sự thành công của Công ty.
Thứ hai, có sự thoả mãn cao trong công việc, hài lòng trong công việc, vui vẻ làm việc, có lòng tự hào cao trong công việc, coi công việc là nhu cầu bậc nhất và không thể thiếu được trong cuộc sống.
Thứ ba, thời gian tác nghiệp cao và hợp lý, những lãng phí công nhân là rất ít, đến nơi làm việc và nghỉ ca theo đúng quy định, sẵn lòng làm thêm giờ khi Công ty cần thiết.
Thứ tư, sự đoàn kết nhất trí, tinh thần hợp tác, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành công việc và phấn đấu vì mục tiêu của Công ty.
Thứ năm, có nhiều sáng kiến rất hữu ích của người lao động được ứng dụng trong thực tế và đem lại hiệu quả cao cho Công ty.
Thứ sáu, năng suất và chất lượng lao động không ngừng được cải thiện và nâng cao góp phần vào việc đưa Công ty ngày càng lớn mạnh.
Biểu hiện của sự mất động lực lao động
Sự mất động lực lao động sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của Công ty đặc biệt trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay. Do đó trước vấn đề có ý nghĩa như vậy thì Công ty cần phải hiểu rõ những biểu hiện của sự thiếu và mất động lực của người lao động để có những điều chỉnh kịp thời. Những biểu hiện của sự thiếu và mất động lực lao động có thể là:
Thứ nhất, sự thiếu tập trung, thiếu ý thức kỷ luật trong công việc dẫn đến tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cao.
Thứ hai, sự chán nản uể oải, thiếu hứng thú lao động, mâu thuẫn và bất bình lao động tăng cao. Tình trạng thuyên chuyển lao động cao, mất cân đối nghề nghiệp, làm tăng các chi phí có liên quan.
Thứ ba, không quan tâm đến hiệu quả công việc hay thành công của Công ty. Dù Công ty có thành công hay không cũng không liên quan gì đến họ, chẳng có ý nghĩa gì với họ.
Thứ tư, tình trạng đi muộn về sớm, nghỉ không lý do, thời gian tác nghiệp là rất ít, lãng phí công nhân là cao.
Thứ năm, tình trạng dựa dẫm đổ trách nhiệm cho nhau, ỷ lại người khác, thiếu hợp tác liên kết trong lao động, không ai bảo được ai, hao hụt nguyên vật liệu, các tài sản của Công ty nhanh chóng bị hỏng hoặc mất không lý do.
Thứ sáu, tình trạng thụ động thiếu sáng tạo trong lao động chỉ đâu làm đấy mà lại làm không hiệu quả chút nào.
Thứ bảy, năng suất lao động không ngừng giảm sút, giá thành sản phẩm làm ra không ngừng tăng, chất lượng sản phẩm ngày càng kém và dẫn đến tình trạng khả năng cạnh tranh của Công ty ngày càng giảm.
Vai trò to lớn của động lực lao động với sự phát triển của Công ty
Maier và lawer đã đưa ra mô hình sau:
Kết quả thực hiện công việc = khả năng x động lực.
Khả năng = bẩm sinh xđào tạo x các nguồn lực.
Động lực = sự khao khát x sự tự nguyện.
Biết được mối liên hệ trên nhà quản lý cần phải có những cách thích hợp để tăng cường động lực cho người lao động và qua đó gián tiếp làm phát huy năng lực của người lao động đem lại hiệu quả cao trong công việc và thực hiện thắng lợi mục tiêu của Công ty trên thương trường.
Qua nghiên cứu tôi xin rút ra nhận định là “động lực lao động có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các Công ty trong xu thế phát triển của đất nước” bởi những lý do sau:
Thứ nhất, phát huy tiềm năng của người lao động
Như chúng ta đã biết tiềm năng của người lao động là vô cùng lớn nếu như không muốn nói là vô hạn. Nhưng tiềm năng vẫn chỉ là tiềm ẩn nếu như người quản lý không làm trỗi dậy tiềm năng ấy. Khi tiềm năng được đánh thức thì đó chính là tài sản, là nguồn lực vô cùng quý giá của Công ty.
Tạo động lực cho người lao động chính là chìa khoá vàng để mở cánh cửa tiềm năng ấy của người lao động. Khi người lao động phát huy được tiềm năng của mình sẽ tạo ra nhiều sáng kiến và giá trị bất ngờ cho Công ty.
Thứ hai, cải thiện tinh thần và thái độ làm việc của người lao động
Khi người lao động có động lực họ sẽ cống hiến hết mình, làm việc hăng say, coi công việc của Công ty chính là công việc của mình, cống hiến cho Công ty để nhận thành quả cho chính mình: “làm lợi cho Công ty cũng là làm lợi cho chính mình”.
Với tinh thần làm việc như vậy, không có công việc nào mà người lao động không thể làm được, không có khó khăn nào mà họ không thể vượt qua, không có nhiệm vụ nào mà họ không thể hoàn thành. Và như vậy hiệu quả công việc được nâng cao, mục tiêu của Công ty dễ dàng đạt được.
Thứ ba, mang lại những kết quả hợp lý trong lao động
Do có động lực, người lao động làm việc bằng cả nhiệt huyết, tâm tư tình cảm của mình nên những vấn đề bất hợp lý trong lao động được loại bỏ. Từ đó mang lại cho tổ chức nhiều ý nghĩa lớn lao như:
Loại bỏ được sức ỳ trong lao động. Tính thụ động của người lao động sẽ dần mất đi mà thay vào đó là tính chủ động, năng động, sáng tạo, hoạt bát. Họ sẽ làm việc với tinh thần trách nhiệm cao hơn, với bầu nhiệt huyết lớn hơn, với tình cảm gắn bó hơn. Sẽ không còn tình trạng chán chường, dựa dẫm, ỷ lại vào người khác.
Tạo ra sự đoàn kết, nhất trí và hợp tác trong lao động. Bởi lẽ chính động lực lao động đã thôi thúc họ phải liên kết hợp tác, cùng giúp đỡ nhau, cùng phấn đấu để hoàn thành công việc một cách tốt nhất, cùng đi đến một cái đích chung. Họ sẽ cùng ngồi trên một chiếc thuyền để đi đến một bến bờ thành tích.
Giảm thiểu được mâu thuẫn, bất bình trong lao động. Như chúng ta đã biết nếu như vấn đề mâu thuẫn, bất bình trong lao động xảy ra sẽ gây ra hậu quả khôn lường đối với Công ty. Công ty sẽ không thể đi đến cái đích của mình do tình trạng kém hiệu quả kém chất lượng trong công việc đem lại. Không ai có thể làm việc bình thường trong bầu không khí như vậy, chứ nói chi đến chủ động sáng tạo. Tuy nhiên khi có động lực lao động thì vấn đề này thực sự rất đơn giản. Người lao động sẽ thực sự vui vẻ, yên tâm, thích thú trong môi trường lao động. Tình trạng mâu thuẫn, bất bình trong lao động sẽ dần mất đi.
Tăng cường ý thức kỷ luật, tinh thần tự giác trong lao động. Người lao động sẽ tự ý thức được vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong Công ty. Qua đó giảm thiểu được những chi phí, tai nạn lao động, bệnh nghề nghệp. Và như vậy là đã giúp Công ty giảm đi rất nhiều gánh nặng, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty trên thương trường đầy biến động.
Giảm được rất nhiều những chi phí không đáng có, tăng năng suất lao động và do đó làm tăng năng lực cạnh tranh của Công ty.
Động lực của người lao động trong Công ty chưa cao
Qua quá trình thực tập tại Công ty Bảo đảm an toàn hàng hải II, được đi thực tế tại các đơn vị thành viên tôi nhận thấy rằng động lực của người lao động trong toàn Công ty là chưa cao, hiệu quả nguồn nhân lực vần chưa tương xứng với khả năng của ngồn nhân lực, tiềm năng của Công ty về nguồn nhân lực vẫn chưa được khai thác hết. Tình trạng đi muộn về sớm, vừa làm vừa chơi, thiếu sáng tạo, quan liêu, dựa dẫm ỷ lại, nhiều vấn đề không rõ ràng và người lao động không biết phải hành động ra sao, tính liên kết trong lao động chưa cao, thời gian tác nghiệp chưa cao, lãng phí công nhân là nhiều, hiệu quả công việc vẫn chưa tương xứng với các tiềm năng của nguồn nhân lực, nhiều lao động giỏi đã rời bỏ Công ty để tới các Công ty nước ngoài hoặc các Công ty liên doanh hay tư nhân để làm việc…
Những bất cập về động lực lao động trên một phần do bị tác động bởi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp cũ. Khi chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì nhiều Công ty trong đó có Công ty Bảo đảm an toàn hàng hải II đã thay đổi theo xu thế phát triển của đất nước. Tuy nhiên sự thay đổi đó vẫn chưa bắt kịp được với xu thế của thời đại. Rất nhiều những bất cập xảy ra trong quá trình đổi mới tại các Công ty này. Nhiều người tài giỏi cũng muốn cống hiến đóng góp cho sự phát triển của các Công ty nhưng họ lại không có động lực để phấn đấu vì Công ty bởi các chính sách về Quản trị nhân lực (tuyển mộ tuyển chọn, bố trí nhân lực, đánh giá thực hiện công việc, đào tạo & phát triển, trả công lao động, khuyến khích khen thưởng, phúc lợi lao động, môi trường làm việc…) chưa có tác dụng kích thích người lao động nhiều và nhiều khi lại làm nản lòng người lao động.
Vì vậy trong xu thế phát triển của đất nước đặc biệt trong kiện hội nhập như hiện nay thì các Công ty trong đó có Công ty Bảo đảm an toàn hàng hải II cần phải tích cực hoàn thiện các chính sách nhằm tạo ra động lực cho người lao động để đem lại hiệu quả cho công việc và sự thành công của Công ty, đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của Công ty cũng như của người lao động.
Người lao động là tài sản quý giá nhất của Công ty
Người lao động là yếu tố cấu thành nên Công ty, vận hành Công ty và quyết định sự thành công cũng như thất bại của Công ty đặc biệt trong thời đại cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế hội nhập hiện nay. Dù là nguồn vốn khổng lồ, công nghệ hiện đại, đất đai nhà xưởng rộng lớn, tiềm lực thị trường mạnh hay kinh nghiệm lớn trên thương trường… thì đều do bàn tay và trí óc của người lao động làm ra. Người lao động tham gia vào quá trình lao động, quản lý, vận hành Công ty, sản xuất kinh doanh, sáng tạo tìm tòi, phát minh ý tưởng, mở rộng thị trường… và làm nên thành công cũng như thất bại của Công ty. Người lao động với rất nhiều tiềm năng và chính là nguồn lực quan trọng nhất trong các nguồn lực của Công ty, tạo nên lợi thế cạnh tranh của Công ty trong thời đại cạnh cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường thời nay.
Người lao động là yếu tố trung tâm trong hoạt động quản lý của Công ty, là sức sống và là linh hồn của Công ty. Tất cả hoạt động quản lý của Công ty đều do con người thực hiện và các hoạt động quản lý đó đều nhằm hướng tới con người. Người lao động là tài sản quý giá nhất của Công ty. Tuy nhiên tài sản quý giá ấy cần phải được sử dụng và đem lại hiệu quả cao nhất cho Công ty, thực hiện tốt các mục tiêu tồn tại và phát triển của Công ty trong xu thế phát triển và hội nhập của đất nước. Chính vì vậy việc tạo động lực cho người lao động là rất cần thiết để tài sản quý giá nhất của Công ty thực sự có ý nghĩa.
Môi trường kinh doanh luôn biến động
Cùng với xu thế phát triển của đất nước trong thời kỳ Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa và xu thế hội nhập của nền kinh tế toàn cầu thì sự canh tranh giữa các Công ty ngày càng trở nên khốc liệt. Sự thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu, sự phát triển như vũ bảo của khoa học kỹ thuật đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin đòi hỏi tất cả các Công ty phải thích ứng kịp thời nếu không dễ rơi vào tụt hậu và thất bại trong thời đại ngày nay. Để nâng cao khả năng thích ứng với sự biến động không ngừng của môi trường kinh doanh hiện nay thì Công ty cần có một đội ngũ lao động chuyên nghiệp, năng động, có tinh thần làm việc hăng say chủ động, sáng tạo và làm việc hết mình vì Công ty. Muốn có được đội ngũ lao động như vậy thì người lao động cần phải có động lực làm việc. Nhờ có động lực lao động mà họ sẽ cố gắng học tập và rèn luyện để nâng cao trình độ tay nghề, nhanh chóng nắm bắt những kiến thức mới về khoa học, chủ động nắm bắt thị trường, luôn tìm tòi sáng tạo đổi mới để tìm ra những hướng đi mới cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty nhằm bắt kịp với xu hướng biến động của môi trường kinh doanh trong xu thế hội nhập và cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế toàn cầu. Từ đó tạo ra cho Công ty sự năng động, nhạy bén, thích ứng cao và đem về những thành quả bất ngờ.
Công ty Bảo đảm an toàn hàng hải II có những chiến lược phát triển mới trong tương lai và có vị trí quan trọng trong sự phát triển của đất nước
Là một Công ty hoạt động trong lĩnh vực công ích thực hiện rất nhiều những chức năng nhiệm vụ quan trọng mà nhà nước giao cho, trong đó quan trọng nhất là đảm bảo an toàn hàng hải, phối hợp bảo vệ vùng biển quốc gia, quần đảo Trường sa, thực hiện các mục tiêu an toàn và an sinh đất nước, góp phần bảo vệ chủ quyền của đất nước… Trong xu thế phát triển của đất nước và xu hướng hội nhập hiện nay, đặc biệt sau khi nước ta bước vào tổ chức thương mại thế giới WTO thì Công ty ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển của đất nước. Bởi lẽ trong xu thế hiện nay thì giao thông đường sông và đường biển ngày càng phát triển, số lượng tàu biển ngày càng nhiều, việc buôn bán với nước ngoài thông qua ngành hàng hải ngày càng lớn. Vì vậy công tác bảo đảm an toàn hàng hải là vô cùng quan trọng, công tác này giúp cho nước ta thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế, chủ động và tích cực tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện các mục tiêu xã hội, quảng bá hình ảnh của đất nước Việt Nam. Việc thực hiện không tốt các chức năng nhiệm vụ của Công ty không những ảnh hưởng tới sự phát triển về kinh tế mà còn ảnh hưởng tới các vấn đề về chính trị-xã hội và nhiều vấn đề tế nhị khác của đất nước.
Mặt khác trong nhiều năm gần đây thì Công ty Bảo đảm an toàn hàng hải II tích cực chủ động tham gia nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh để tăng thêm nguồn thu như: kinh doanh khách sạn, du lịch, đóng tàu, thiết kế, thi công các công trình xây dựng, nghiên cứu và ứng dụng các thiết bị hiện đại phục vụ cho ngành hàng hải… Trong những năm tới Công ty tiếp tục đầu tư và phát triển mạnh những lĩnh vực này, đồng thời mở rộng nhiều lĩnh vực kinh doanh khác và liên kết hợp tác với các Công ty trong và ngoài nước để thực hiện nhiều chiến lược đầu tư mới. Bên cạnh đó Công ty sẽ mở chi nhánh ở thủ đô Hà Nội để thực hiện nhiều nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, thực hiện giao dịch với đối tác…
Trong lĩnh vực công thì Công ty phải hoàn thành những chức năng, nhiệm vụ mà nhà nước giao cho. Trong lĩnh vực tư thì Công ty phải thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển của mình. Dù hoạt động trong lĩnh vực công hay tư thì Công ty cũng cần phải có một đội ngũ lao động chuyên nghiệp; làm việc hăng say, nhiệt tình, năng động, sáng tạo; ý thức kỷ luật tốt, thái độ làm việc đúng đắn; tinh thần đồng đội cao, đoàn kết nhất trí, hợp tác trong công việc. Chính vì vậy mà tạo động lực cho người lao động là rất cần thiết và khách quan.
***SORRY, THIS MEDIA TYPE IS NOT SUPPORTED.***
Lời cuối chương: trong xu thế phát triển kinh tế của đất nước và xu thế hội nhập của nền kinh tế nước nhà thì việc sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực là yếu tố làm nên sự thành công của các Công ty. Mà muốn sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực thì công tác tạo động lực cho người lao động có ý nghĩa vô cùng to lớn để sử dụng và phát huy hiệu quả nguồn nhân lực của Công ty. Trong chương này tôi đi nghiên cứu những vấn đề cơ bản và khoa học của lý thuyết về động lực, từ đó làm nổi bật vai trò và tầm quan trọng của công tác tạo động lực cho người lao động tại các Công ty. Làm rõ mối quan hệ giữa động lực lao động và sự thành bại của Công ty. Từ đó đưa ra phương hướng và cách thức nghiên cứu cho vấn đề sao cho đem lại hiệu quảt tốt nhất cho công tác này.
Đã đến lúc các Công ty nên nhìn thẳng vào sự thật và thực sự hành động vì chính sự tồn tại của Công ty mình, trong đó có Công ty Bảo đảm an toàn hàng hải II cũng vậy. Các Công ty cần phải nhận thức rằng “động lực lao động chính là yếu tối quyết định tới sự thành công của các Công ty”.
“Nếu bạn muốn đóng một con thuyền thì đừng có uổng công kêu gọi các thủy thủ lên rừng xẻ gỗ đóng thuyền hoặc tìm cách phân công công việc cho người này người kia mà bạn cần phải biết cách truyền cảm giác thèm nhớ biển cả vô tận đến người thủy thủ”. Có lẽ không thể nào diễn đạt và so sánh hay hơn tác dụng của việc tạo động lực lao động như nhà văn Pháp Antonne De Shaint Euperry trong đoạn văn trên. Cũng như một nhà quản lý luôn muốn nhân viên của mình làm việc hết mình để đem lại hiệu quả cao nhất trong công việc, nhưng một nhà quản lý giỏi không phải chỉ biết làm việc hay giao việc này việc khác cho nhân viên. Một nhà quản lý giỏi phải là một người biết cách tạo ra động lực và truyền cảm hứng làm việc hăng say cho người lao động để rồi chính họ mới là người làm ra những kết quả mà người quản lý mong muốn.