Đô đốc Đặng Tiến Đông- một tướng Tây Sơn chỉ huy trận Đống Đa
GS Phan Huy Lê Ngọc Hồi, Đống Đa là hai chiến thắng oanh liệt nhất giữ vai trò quyết định thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Thanh năm 1788 – 1789. Quang Trung Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy trận Ngọc Hồi. Nhưng dưới sự lãnh đạo chung của Quang Trung, ai là người đã chỉ huy quân đội ...
GS Phan Huy Lê
Gia phả các chi họ Đặng, đặc biệt là bộ Đặng gia phổ hệ toản chính thực lục cho biết khá rõ ràng ngày sinh, quê quán và gia thế của Đặng Tiến Đông. Bộ Đặng gia phổ hệ toản chính thực lục gồm 6 quyển[3], do chính Đặng Tiến Đông biên soạn vào đời Tây Sơn và Ngô Thì Nhậm đề tựa.Đặng Tiến Đông sinh vào giờ Sửu (khoảng từ 1 đến 3 giờ sáng) ngày 2 tháng 5 năm Mậu Ngọ niên hiệu Vĩnh Hựu thứ tư, tức ngày 18 tháng 6 năm 1738 tại xã Thịnh Phúc, huyện Phú Xuyên (Hà Tây) thuộc chi trưởng dòng họ Đặng gốc ở làng Lương Xá (nay thuộc xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây).
Theo gia phả và bài tựa của Ngô Thì Nhậm thì họ Đặng xưa vốn họ Trần, tương truyền thuộc dòng dõi Trần Hưng Đạo. Đến đầu đời Lê, Trần Văn Huy đỗ tiến sĩ, lấy tự là Đặng Hiên nên từ đó, con cháu lấy tự của cha làm họ rồi chuyển từ họ Trần sang họ Đặng. Ngoài cách giải thích đó, một số con cháu họ Đặng còn lưu truyền thuyết cho rằng, vào đời Mạc họ này có nhiều người “phù Lê diệt Mạc” nên bị nhà Mạc truy lùng và từ đấy, đổi ra họ Đặng. Điều chắc chắn là từ đời Đặng Huấn có công phù Lê, dòng họ Đặng trở thành một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan to trong suốt thời Lê – Trịnh. Vùng Chương Mỹ còn lưu hành nhiều câu hát về dòng họ Đặng ở Lương Xá như:
Giàu thì Quảng Bị, Bối Khê,
Làm quan Lương Xá, ngoại đê Đại Từ
hay:
Bao giờ chợ Chúc hết người,
Sông Ninh hết nước, Đặng này hết quan.
Đặng Tiến Đông là con trai thứ tám của Dận quận công Đặng Tiến Cẩm và bà vợ lẽ thứ năm Phạm Thị Yến. Vào thời Lê mạt, cả gia đình ông từ ông cha đến anh em, chú bác đều là những quan lại, tướng soái cao cấp giữ nhiều chức tước quan trọng trong triều ngoài trấn. Nhận xét về họ Đặng và con cháu Đặng Huấn, nhà sử học Phan Huy Chú đã viết: “Ngôi kiêm cả tướng văn, tướng võ; một nhà quý hiển ít ai sánh kịp” [4].
Đặng Tiến Cẩm (1679 – 1749) là con trai thứ năm Yên quận công Đặng Tiến Thự. Đặng Tiến Thự đã từng làm trấn thủ Nghệ An, phong đến chức thái phó, được chúa Trịnh ban cho họ tên là Trịnh Liều và sau khi chết được truy tặng thái tể. Đặng Tiến Cẩm đã từng giữ các chức quyền trấn thủ xứ Nghệ An kiêm trấn thủ châu Bố Chính, trấn thủ các xứ Hải Dương, An Quảng; trấn thủ Sơn Tây, đốc lãnh Hải Dương, lưu thủ kinh thành, hai lần làm đề điệu kỳ thi bác cử (thi võ) và phong đến chức Điện tiền kiểm điểm ty đô kiểm điểm. Anh em của Đặng Tiến Cẩm tức chú bác ruột của Đặng Tiến Đông, đều nắm giữ nhiều chức vụ cao cấp của chính quyền họ Trịnh. Gia quận công Đặng Tiến Lân làm đến đại tư đồ. Lại quận công Đặng Đình Sở giữ chức trấn thủ Sơn Tây. Bốc quận công Đặng Tiến Luận làm đốc phủ Sơn Tây, Hải Dương. Đặc biệt Ứng quận công Đặng Đình Tướng đã giữ những chức tước cao nhất của phủ chúa như bồi tụng, tả đô đốc, thiếu phó, thái phó, đại tư mã, đại tư không và – như Phan Huy Chú nhận định – “trong khoảng 70 năm, là một bậc kỳ cựu trải qua mấy triều, công danh phẩm giá hơn cả các quan; ba con và một cháu của ông đều lấy quận chúa, một nhà quý thịnh, người bấy giờ gọi là ông Tiên quốc lão”[5].
Đặng Tiến Đông thuộc một dòng họ thế phiệt, xuất thân trong một gia đình quý tộc đời đời ăn lộc vua bổng chúa. Nhưng ông sinh ra và lớn lên vào một hoàn cảnh hết sức biến động và đảo lộn của xã hội.
Năm 1747, lên 9 tuổi, Đặng Tiến Đông bắt đầu theo học thầy Doãn Xá tại chùa Thủy Lâm (hay chùa Lương Xá, tại xã Lam Điền, Chương Mỹ, Hà Tây).
Năm 1749, Đặng Tiến Đông 12 tuổi thì mồ côi cha. Mười năm sau, năm 1759, mẹ ông cũng qua đời.
Đặng Tiến Đông bước vào đời đã phải chứng kiến cảnh đổ nát, tàn tạ của chế độ phong kiến, đời sống lầm than cực khổ của nhân dân và những cuộc đấu tranh rung trời chuyển đất của quần chúng. Những cơn bão táp của chiến tranh nông dân ở Đàng Ngoài đã đang lay động tận nền tảng cơ đồ thống trị của vua Lê chúa Trịnh xây dựng đã mấy trăm năm nay. Cha anh và chú bác của Đặng Tiến Đông đã từng cầm quân đàn áp những cuộc khởi nghĩa nông dân đó và nhiều phen bị thất bại thảm hại. Trong gia phả họ Đặng do ông viết, ông đã ghi chép một cách khá đầy đủ và trung thực hành động của cha anh, chú bác, kể cả những lần bị quân nông dân đánh cho thất điên bát đảo. Dưới ngòi bút của ông có thể nhận thấy, hình như ông đã bước đầu cảm thấy trong những cuộc “nổi loạn” của quần chúng một sức mạnh quật khởi khó lòng chế ngự. Nhiều thủ lĩnh nông dân khởi nghĩa, ông vẫn gọi là “nghịch”, là “giặc” nhưng qua một số hành động do ông ghi lại thì không phải là kẻ hung ác, tàn bạo mà là người có tình, có nghĩa. Trong gia phả, ông có kể lại hai trường hợp Quận He Nguyễn Hữu Cầu đã tha chết cho cha ông là Dận quận công Đặng Tiến Cẩm và anh cả của ông là Tri trung hầu Đặng Đình Trí.
Thực tế lịch sử đau thương và quật cường những năm giữa thế kỷ XVIII ở Đàng Ngoài đã dần dần tác động đến cách nhìn, tư tưởng và tình cảm của Đặng Tiến Đông. Nhưng phải đến phong trào nông dân Tây Sơn cùng với những chấn động mãnh liệt của nó đối với toàn bộ cơ cấu xã hội, mới mở ra cho Đặng Tiến Đông cũng như một số sĩ phu tiến bộ ở Bắc Hà, một chân trời mới.
Giữa năm 1786, nghĩa quân Tây Sơn dưới quyền lãnh đạo của Nguyễn Huệ, ào ạt vượt sông Gianh, tiến ra Bắc Hà. Trong chốc lát, nền thống trị của họ Trịnh bị lật nhào. Trật tự chính trị ở Bắc Hà trải qua một cơn đảo lộn. Trước sự ruỗng nát và sụp đổ của chế độ họ Trịnh, phong trào Tây Sơn tiêu biểu sức mạnh phi thường, một sức sống đang vươn lên. Hơn một tháng sau, đoàn quân “áo vải cờ đào” và người anh hùng của họ rút về Nam, trao trả quyền hành lại cho nhà Lê. Nhưng rồi triều đình vua Lê mà bấy lâu nay nhân dân và sĩ phu Bắc Hà vẫn còn kỳ vọng, lại có dịp bộc lộ tính chất nhu nhược, bất lực hoàn toàn của nó. Chiếc ngai vàng ọp ẹp của nhà Lê vốn đã rệu rạo, nay càng ngả nghiêng trước tình trạng cực kỳ hỗn loạn của Bắc Hà. Quân Tây Sơn vừa rút, Lê Chiêu Thống đã cảm thấy “một nước trống rỗng” và vội “viết thư triệu hết những người thế gia và bầy tôi cũ dấy quân vào bảo vệ hoàng thành”. Nhân đấy “bọn hào mục các nơi chiếm giữ châu quận, chiêu tập binh mã, đều mượn danh nghĩa “bảo vệ”. Những hạng vô lại đánh giết lẫn nhau; trong nước thành ra rối loạn”[6]. Bọn con cháu chúa Trịnh như Trịnh Lệ, Trịnh Bồng, bọn tướng tá cũ như Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng Cơ, Dương Trọng Tế… đều nổi dậy tranh giành, đánh giết nhau và ức hiếp nhân dân thậm tệ. Vua Lê lại bị đặt vào địa vị bù nhìn. Dưới sự hoành hành của bọn tướng quân phiệt, “ngay giữa ban ngày, thủ hạ ra sức cướp bóc dân cư gần kinh thành, không có hiệu lệnh ngăn cấm. Mọi người đều cho là không còn hy vọng gì cả”[7]. Nhân cơ hội đó, cuối năm 1786 Nguyễn Hữu Chỉnh lấy danh nghĩa tôn phò vua Lê, chiêu tập binh mã ở Nghệ An rồi kéo ra Thăng Long. Đến lượt Nguyễn Hữu Chỉnh lại thâu tóm mọi quyền hành ở Bắc Hà, “quyền Chỉnh thật ngang với nhà vua, thế của Chỉnh có thể lật nghiêng cả nước”[8]. Từ một phần tử phong kiến thất thế ở Bắc Hà, Nguyễn Hữu Chỉnh phải theo Tây Sơn để gây dựng lực lượng, nay lại phản bội Tây Sơn âm mưu làm bá chủ ở Thăng Long. Dưới sự chuyên chế của Chỉnh, tình hình Bắc Hà càng rối loạn: “Lòng người lìa tan, quan văn quan võ ai cũng chán nản… Bọn hào mục gian ác ở đâu thì tụ họp ở đấy, rồi đi cướp bóc lẫn nhau. Ngoài thành vài dặm, đều là hang ổ của bọn trộm cướp”[9].
Trong vòng hơn nửa năm kể từ khi quân Tây Sơn tiến ra Thăng Long (tháng 7 năm 1786), tình hình Bắc Hà đã trải qua những biến động dồn dập. Những biến động đó càng chứng tỏ sự bất lực, sụp đổ không gì cứu vãn nổi của các thế lực phong kiến cũ và càng làm cho nhân dân Bắc Hà hướng về phong trào Tây Sơn. Diễn biến lịch sử đó cũng đã ảnh hưởng quyết định đến chí hướng và hành động của một số sĩ phu tiến bộ, thức thời ở Bắc Hà, trong đó có Đặng Tiến Đông. Ông đã sớm tìm thấy ở phong trào Tây Sơn và sự nghiệp của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, một niềm tin và một phương hướng mới của cuộc đời.
Khoảng nửa đầu năm 1787, Đặng Tiến Đông lặn lội vào tận Quảng Nam, tìm đến quân doanh yết kiến Nguyễn Huệ khi Nguyễn Huệ đang đóng quân ở đây. Có hai văn bản và di vật gốc đời Tây Sơn xác nhận sự kiện này. Đó là bài văn bia đề là “Tông đức thế tự bi” do Phan Huy Ích soạn, Ngô Thì Nhậm nhuận sắc và đạo sắc do Nguyễn Huệ phong chức tước cho Đặng Tiến Đông.
Bài văn bia được khắc vào một tấm bia đá dựng trước chùa Thủy Lâm thôn Lương Xá (nay thuộc xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây). Bia cao 1,72m, bề ngang 0,85m, dày 0,34m. Nội dung bài văn bia, ngoài phần nói về Thế phả họ Đặng, có một đoạn ngắn nhưng rất quan trọng tóm lược công lao, sự nghiệp của Đặng Tiến Đông kể từ khi theo Tây Sơn cho đến khi lập chiến công trong cuộc kháng chiến chống Thanh. Bài văn bia khắc vào ngày 15 tháng 6 năm Đinh Tị niên hiệu Cảnh Thịnh thứ năm, tức ngày 9 – 7 – 1797. Cuối bia ghi rõ ngày, tháng và niên hiệu:
“Hoàng triều đệ nhị đế…,… (hai chữ Cảnh Thịnh bị đục) vạn vạn niên chi ngũ tuế, tại Đinh Tị lục nguyệt thập ngũ nhật”.
Cùng chức tước, họ tên người soạn và nhuận sắc bài văn bia là:
“Đương triều dực vận công thần, sắc thụ đặc tiến vinh lộc thượng đại phu, thị trung ngự sử, khâm sai khánh hạ bố chính sứ, Thụy nham hầu Phan Huy Ích chi Dụ phủ, kính soạn”.
“Đương triều dực vận công thần, sắc thụ đặc tiến Vinh lộc thượng đại phu, thị trung đại học sĩ kiêm binh bộ thượng thư quản lĩnh bí thư thự, Tình Phái hầu Ngô Thì Nhậm, Hy Doãn phủ, kính nhuận”.
Phan Huy Ích quê ở Sài Sơn, huyện Quốc Oai (Hà Tây). Ngô Thì Nhậm quê ở làng Tả Thanh Oai (Hà Tây). Hai người đỗ tiến sĩ, đã từng làm quan cho họ Trịnh và tháng 5 năm 1788, khi Nguyễn Huệ tiến ra Thăng Long lần thứ hai, đều theo Tây Sơn. Đối với Đặng Tiến Đông, Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm là những người bạn thân thiết cùng quê, cùng triều và cùng chí hướng.
Về việc Đặng Tiến Đông tìm vào Quảng Nam theo Nguyễn Huệ, bài văn bia ghi rõ: “Thái tổ Vũ hoàng đế của hoàng triều, nghĩa thanh vang dội, đóng quân ở Quảng Nam, ông (tức Đặng Tiến Đông – TG) đến cửa quân xin yết kiến, được đón tiếp và đãi ngộ riêng, rồi được tin yêu ban cho ấn kiếm, giao cho thống lĩnh việc quân…”.
Đạo sắc phong chức tước cho Đặng Tiến Đông đề ngày 3 tháng 7 năm Thái Đức thứ mười, tức ngày 15 – 8 – 1787. Văn bản viết trên giấy sắc khổ 138 x 50cm, hiện do chi trưởng của dòng họ Đặng ở Lương Xá giữ và đặt thờ trên bàn thờ của chi họ này. Đây là nguyên bản sắc phong chức tước đời Tây Sơn còn giữ được đến nay. Trên tờ sắc có dấu son hình vuông khổ 7,8 x 7,8cm đóng trên dòng chữ đề niên hiệu “Thái Đức thập niên” và hai dấu kiểm hình bầu dục eo ở giữa, khổ 3,4 x 2,5cm đóng trên dòng chữ ghi họ tên và chức tước của Đặng Tiến Đông.
Thái Đức là niên hiệu của “Hoàng đế” Nguyễn Nhạc. Nhưng tờ sắc này không phải do Nguyễn Nhạc mà do Nguyễn Huệ phong chức tước cho Đặng Tiến Đông. Lúc đó Nguyễn Huệ còn là Bắc Bình Vương, chưa lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu riêng nên tờ sắc còn dùng niên hiệu Thái Đức của Nguyễn Nhạc.
Tờ sắc có đoạn biểu dương Đặng Tiến Đông là người có “khí khái của trượng phu, tấm lòng của nam tử, đường làm quan gặp gỡ, dựng nên công lớn vua tôi, trước sau báo đền, không quên điều hiểu biết của kẻ sĩ trong nước, trải qua mùa đông mà không chịu khuất như cây tùng lúc giá rét…”. Đặng Tiến Đông được Nguyễn Huệ đón tiếp niềm nở, tin cẩn và lập tức được ban ấn kiếm, phong chức tước. Theo tờ sắc, Nguyễn Huệ phong Đặng Tiến Đông làm đô đốc đồng tri, tước Đông Lĩnh hầu và sai giữ chức trấn thủ xứ Thanh Hoa. Từ đó, Đặng Tiến Đông trở thành một tướng soái cao cấp của quân đội Tây Sơn dưới quyền thống lĩnh của Nguyễn Huệ.
Hiện nay, gia phả của họ Đặng và những tư liệu có liên quan chưa cho biết rõ trước khi theo Nguyễn Huệ, Đặng Tiến Đông đã đỗ đạt như thế nào, đã giữ những chức tước gì trong chính quyền họ Trịnh, rồi rời bỏ Bắc Hà vào Quảng Nam vào lúc nào?. Điều chắc chắn là Đặng Tiến Đông đã tìm đến yết kiến Nguyễn Huệ trước ngày 15 – 8 – 1787. Và chính cuộc tri ngộ đó đánh dấu một bước ngoặt căn bản trong cuộc đời và sự nghiệp của Đặng Tiến Đông. Như vậy, trong số quan lại, sĩ phu tiến bộ ở Bắc Hà đi theo Tây Sơn, phải kể Đặng Tiến Đông là người đầu tiên. So với Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích… theo Tây Sơn vào giữa năm 1788, hành động của Đặng Tiến Đông sớm hơn gần một năm. Hơn nữa Đặng Tiến Đông lại tự mình tìm vào Quảng Nam xin yết kiến Nguyễn Huệ, thể hiện một thái độ thức thời, kiên quyết và mạnh dạn.
*
Theo tờ sắc phong chức tước thì từ ngày 15 – 8 – 1787, Đặng Tiến Đông đã được phong làm đô đốc đồng tri, tước Đông Lĩnh hầu, giữ chức trấn thủ xứ Thanh Hoa. Nhưng thực ra, lúc đó quân Tây Sơn chỉ kiểm soát trấn Nghệ An trở vào, còn trấn Thanh Hoa vẫn thuộc phạm vi cai quản của nhà Lê. Cuối năm 1787, khi Vũ Văn Nhậm theo lệnh Nguyễn Huệ, chỉ huy quân Tây Sơn tiến ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh thì tướng trấn thủ Thanh Hoa là Nguyễn Duật[10]. Duật là bộ tướng thân cận của Nguyễn Hữu Chỉnh, được Chỉnh cử vào làm trấn thủ Thanh Hoa trước đó mấy tháng. Trước thế mạnh của quân Tây Sơn, Nguyễn Duật không dám chống cự, rút quân về giữ Trinh Giang (Hoằng Hóa, Thanh Hóa). Vũ Văn Nhậm sai Ngô Văn Sở đem quân đánh úp mặt sau, giết chết Nguyễn Duật. Từ đó, xứ Thanh Hoa mới thuộc quyền kiểm soát của quân Tây Sơn. Theo Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập (q. 30) và đặc biệt là bài ký khắc trên biển gỗ ở đền Đồng Cổ (làng Đan Nê, Yên Định, Thanh Hóa) do Tuyên Công Nguyễn Quang Bàn làm và khắc vào đầu mùa hè năm Bảo Hưng thứ hai (năm 1802) thì từ mùa xuân năm 1790 đến năm 1802, Nguyễn Quang Bàn giữ chức đốc trấn trấn Thanh Hóa[11]. Vậy Đặng Tiến Đông chỉ có thể làm trấn thủ xứ Thanh Hoa trong khoảng thời gian từ cuối năm 1787 đến đầu năm 1790.
Nhưng tại sao trong sắc phong chức tước đề ngày 3 tháng 7 năm Thái Đức thứ mười (ngày 15 – 8 – 1787), Nguyễn Huệ đã cử Đặng Tiến Đông làm trấn thủ xứ Thanh Hoa?. Nguyên văn lời trong đạo sắc là: “Khả gia đô đốc đồng tri chức, Đông Lĩnh hầu, nhưng sai Thanh Hoa xứ trấn thủ” nghĩa là “Nên gia phong chức đô đốc đồng tri, [tước] Đông Lĩnh hầu, vẫn sai làm trấn thủ xứ Thanh Hoa”. Theo lời văn của đạo sắc, thì có thể trước đây Đặng Tiến Đông đã từng làm trấn thủ Thanh Hoa và nay Nguyễn Huệ lại giao cho ông chức vụ đó. Nhưng phải đến cuối năm đó, khi trấn Thanh Hoa thuộc về quân Tây Sơn thì Đặng Tiến Đông mới có thể thực hiện chức vụ trấn thủ của mình.
Cuối năm 1788, quân Thanh tràn sang xâm lược. Quân Tây Sơn ở Bắc Hà phải tạm rút về giữ phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn. Trong cuộc kháng chiến chống Thanh, xứ Thanh Hoa[12] giữ vai trò một địa bàn chiến lược quan trọng. Đó là vùng đất nằm ngay sau phòng tuyến của Tây Sơn, tiếp giáp với vùng kiểm soát của quân địch (từ phía Bắc phủ Trường Yên trở ra). Đó cũng là vùng cực Bắc hậu phương an toàn của quân Tây Sơn và là nơi tập kết các đạo quân chủ lực của Tây Sơn trước khi xuất phát bước vào cuộc phản công chiến lược đập tan cuộc xâm lược của quân Thanh. Với cương vị là trấn thủ xứ Thanh Hoa, hẳn đô đốc Đặng Tiến Đông có góp phần cùng với Ngô Văn Sở xây dựng, bảo vệ phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn vốn thuộc địa phận và hải phận xứ Thanh Hoa, và nhất là chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để đất Thanh Hoa có thể trở thành khu vực tập kết và bàn đạp phản công của đại quân Tây Sơn do Quang Trung Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy. Tiếc rằng chính sử cũng như gia phả họ Đặng và các tư liệu thu thập được không ghi chép gì về những hoạt động của trấn thủ Đặng Tiến Đông trong khoảng cuối năm 1788.
Đầu năm 1789, khi từ Tam Điệp – Biện Sơn mở cuộc tập kích chiến lược giải phóng kinh thành Thăng Long, Quang Trung giao cho đô đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy một đạo quân tiên phong tiến ra bất ngờ tập kích tiêu diệt đồn Đống Đa (hay Khương Thượng, khu Đống Đa, Hà Nội). Bài văn bia của Phan Huy Ích tóm tắt vũ công của đô đốc Đông như sau: “Năm Mậu Thân (năm 1788 – TG), đầu đời Quang Trung (hai chữ Quang Trung bị đục – TG) quân Bắc xâm chiếm nước Nam, ông (tức Đặng Tiến Đông – TG) phụng chiếu cầm đạo quân tiên phong, tiến đánh làm cho quân Bắc tan vỡ, ông một mình một ngựa tiến lên trước, dẹp yên nơi cung cấm”. Con cháu nhiều chi họ Đặng ở Chương Mỹ (Hà Tây) còn ghi nhớ và truyền tụng công lao của “quan đô” – tức đô đốc Đông, theo cách gọi phổ biến của các cụ già họ Đặng – là đã vâng mệnh vua Quang Trung đánh thắng trận Đống Đa, tiêu diệt hàng vạn quân Thanh.
Như vậy là mờ sáng ngày 5 tháng Giêng Tết Kỷ Dậu (ngày 31 – 1 – 1789), khi Quang Trung chỉ huy đạo quân chủ lực tiến đánh đồn Ngọc Hồi ở phía Nam Thăng Long thì đô đốc Đông, theo kế hoạch của Quang Trung, chỉ huy một đạo quân Tây Sơn khác tiến đánh đồn Đống Đa.
Từ Tam Điệp, đạo quân của đô đốc Đông đi theo con đường “thượng đạo” qua Phố Cát ra Thiên Quan (Nho Quan, Ninh Bình) rồi xuyên qua Chương Đức (Chương Mỹ, Hà Tây) là quê hương của Đặng Tiến Đông, tiến lên Đống Đa. Đó là một con đường giao thông đã có từ lâu đời nhưng đến thế kỷ XVIII, như Lê Quý Đôn nhận xét, “Đường núi đã bế tắc, không đi được nữa”[13]. Hành quân theo con đường núi đã bế tắc như vậy, quân Tây Sơn phải mở lấy đường đi, khắc phục nhiều trở ngại của núi rừng. Điều đó đòi hỏi tướng chỉ huy không những phải có năng lực tổ chức mà còn phải am hiểu cặn kẽ địa hình trong vùng. Đặng Tiến Đông sinh trưởng ở vùng Chương Mỹ nằm trên con đường giao thông ấy, hẳn đáp ứng được những yêu cầu trên.
Khoảng canh tư ngày 5 Tết Kỷ Dậu, vào lúc trời còn tối, quân Tây Sơn áp sát đồn Đống Đa rồi bất ngờ tiến công vào doanh trại giặc. Một sự kiện cần đặc biệt chú ý là vừa lúc đó, nhân dân 9 xã chung quanh đem những con cúi bện bằng rơm rạ, tẩm dầu, đốt lửa bao vây đồn giặc, tạo thành một hàng rào lửa dày đặc, đó là “trận rồng lửa” (hỏa long trận) mà nhà thơ Ngô Ngọc Du còn ghi lại trong bài thơ Long thành quang phục kỷ thực. “Trận rồng lửa” đã phát huy tác dụng to lớn của nó, góp phần bao vây, uy hiếp quân địch, tạo điều kiện cho quân Tây Sơn nhanh chóng tiêu diệt đồn giặc. Hành động đó chứng tỏ lòng yêu nước, tinh thần mưu trí và sự tham gia tự nguyện của nhân dân; nhưng mặt khác cũng đòi hỏi sự vận động và tổ chức trước của quân Tây Sơn. Theo lời kể của con cháu họ Đặng thì “quan đô” đã “bày ra mưu kế” diệt đồn Đống Đa. Phải chăng “trận rồng lửa” nằm trong mưu kế của đô đốc Đông?. Vốn là người quê ở Chương Mỹ, có nhiều bạn bè, bà con thân thuộc và ảnh hưởng rộng lớn trong vùng, Đặng Tiến Đông có nhiều điều kiện thuận lợi để vận động và chuẩn bị một kế hoạch phối hợp với nhân dân địa phương như vậy.
Trận Đống Đa là một trận đánh tiêu diệt chớp nhoáng. Trận đánh bắt đầu lúc canh tư và kết thúc lúc trời chưa sáng. Sau khi tiêu diệt đồn Đống Đa, đô đốc Đông đưa đạo quân tiền phong vượt qua cửa ô Thịnh Quang, tràn vào thành Thăng Long. Rồi như một mũi dao nhọn, đô đốc Đông dẫn đầu đoàn quân lao thẳng về phía cung Tây Long, tạo nên mối uy hiếp hết sức bất ngờ đối với đại bản doanh của chủ soái quân Thanh. Phan Huy Ích còn ghi lại trong bài văn bia, mũi tiến công thọc sâu lợi hại đó qua hình ảnh: “Ông một mình một ngựa tiến lên trước, dẹp yên nơi cung cấm”.
Mũi tiến công như vũ bão của đạo quân chủ lực do Quang Trung đích thân chỉ huy ở mặt nam Thăng Long cùng với mũi vu hồi thọc sâu bất ngờ sắc bén của đô đốc Đông ở mặt tây nam, đã giáng những đòn quyết định nghiền nát cuộc xâm lược của quân Thanh, buộc Tôn Sĩ Nghị và bọn tàn quân phải tháo chạy thảm hại.
Sáng ngày mồng 5 Tết, đạo quân của đô đốc Đông tiến vào thành Thăng Long trước hết. Trưa ngày hôm đó, Quang Trung cùng với đại quân tiến vào kinh thành giữa sự đón chào của đô đốc Đông và sự hoan nghênh của nhân dân các phố phường Thăng Long. Bài văn bia của Phan Huy Ích còn ghi công trạng của đô đốc Đông và sự ban thưởng của Quang Trung với ông: “Vũ hoàng đế vào Thăng Long, tiến hành khen thưởng, ban riêng cho ông xã quê hương là Lương Xá làm thực ấp vĩnh viễn, phàm các khoản binh phân, hộ phân, sưu sai đều cho miễn trừ”.
*
Không còn nghi ngờ gì nữa, đô đốc Đặng Tiến Đông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Thanh và là một vị tướng chỉ huy quân Tây Sơn đánh thắng trận Đống Đa lịch sử. Ở đây, có vấn đề đặt ra là đô đốc Đông có phải là đô đốc Long hay đô đốc Mưu được ghi chép trong sử cũ không?. Hiện nay, chưa tìm thấy tài liệu nào nói rõ đô đốc Đông là đô đốc Long hay đô đốc Mưu. Nhưng phân tích và đối chiếu các tư liệu, các sự kiện có liên quan thì theo tôi, có nhiều khả năng Đặng Tiến Đông là tên thật của đô đốc Long hay đô đốc Mưu. Nhận định đó dựa trên những cơ sở sau đây:
– So sánh các loại tài liệu thì những sự việc mà sử sách trước đây chép là của đô đốc Long (hay Mưu), theo những tư liệu mới phát hiện và thu thập được lại là của đô đốc Đông. Ví dụ tướng Tây Sơn được Quang Trung giao cho chỉ huy đạo quân diệt đồn Đống Đa (hay trại Khương Thượng) theo Hoàng Lê nhất thống chí là đô đốc Long, theo Đại Nam chính biên liệt truyện là đô đốc Mưu, theo những tư liệu mới trình bày ở trên lại là đô đốc Đông. Đội quân Tây Sơn đầu tiên tiến vào thành Thăng Long, theo Hoàng Lê nhất thống chí và Minh đô sử là đội quân của đô đốc Long, theo bài văn bia do Phan Huy Ích soạn lại là đô đốc Đông. Hoàng Lê nhất thống chí chép: “Sáng hôm ấy, Long đã đánh tên thái thú Điền Châu ở trại Khương Thượng thuộc huyện Quảng Đức. Quân Thanh tan vỡ bỏ chạy, Long liền tiến trước vào thành[14]. Có thể so sánh với đoạn văn bia của Phan Huy Ích: đô đốc Đông “phụng chiếu cầm đạo quân tiên phong, tiến đánh làm cho quân Bắc tan vỡ, ông một mình một ngựa tiến lên trước, dẹp yên nơi cung cấm”. Ngay cả hình ảnh đô đốc Đông cưỡi ngựa chỉ huy quân sĩ đánh giặc mà Phan Huy Ích ghi lại trong văn bia cũng phù hợp với một đoạn văn của Minh đô sử mô tả đô đốc Long phi ngựa ra đón tiếp Quang Trung. Những điều trùng hợp đó chứng tỏ đô đốc Long, đô đốc Mưu, đô đốc Đông chỉ là một người. Đó là những tên ghi chép khác nhau về vị đô đốc đã chỉ huy quân Tây Sơn đánh thắng trận Đống Đa và tiến vào thành Thăng Long đầu tiên.
– Toàn bộ quân đội Tây Sơn huy động vào cuộc phản công chiến lược có trên 10 vạn, chia làm 5 doanh (hay 5 quân): Tiền, Trung, Hậu, Tả, Hữu. Như vậy mỗi doanh ước chừng dưới 2 vạn quân. Đạo quân chủ lực do Quang Trung trực tiếp thống lĩnh tập trung đến 3 doanh: Tiền quân do nội hầu Phan Văn Lân chỉ huy, Trung quân do Đại tư mã Ngô Văn Sở chỉ huy và Hậu quân do Hám Hổ hầu chỉ huy. Tả quân do đại đô đốc Lộc và đô đốc Tuyết chỉ huy đảm nhiệm mũi tiến công vào Hải Dương và mũi bao vây vu hồi chặn đường rút chạy của tàn quân địch. Hữu quân, theo Hoàng Lê nhất thống chí do đại đô đốc Bảo và đô đốc Long chỉ huy, chia làm hai đạo: một đạo tiến ra Đại Áng phối hợp với đạo quân chủ lực tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, một đạo tiến ra Nhân Mục, tiêu diệt đồn Đống Đa. Đạo quân đánh đồn Đống Đa là một bộ phận của hữu quân. Mũi tiến công đó rất quan trọng, nhưng về binh lực không nhiều lắm. Đứng về tổ chức và phiên chế, chỉ huy một đạo quân như vậy là một đô đốc, không có lý do gì phải giao cho hai hay ba đô đốc[15]. Ngoài đạo quân chủ lực, ba đạo quân kia mỗi đạo cũng chỉ do một đô đốc chỉ huy (đô đốc Bảo, đô đốc Lộc, đô đốc Tuyết). Đô đốc Long hay đô đốc Mưu hay đô đốc Đông chỉ là một người.
– Hơn nữa, qua đạo sắc phong chức tước và bài văn bia của Phan Huy Ích, thấy rõ Quang Trung rất tin cẩn và ưu đãi Đặng Tiến Đông. Không lẽ Quang Trung lại đặt đô đốc Đông dưới quyền đô đốc Long (hay Mưu) nếu đó là hai người. Chính sách dùng người của Quang Trung nói chung và thái độ đối xử với những sĩ phu tiến bộ theo Tây Sơn nói riêng, càng chứng tỏ đô đốc Long chính là đô đốc Đông.
Nhưng là một người, tại sao có tài liệu chép là đô đốc Long, có tài liệu chép là đô đốc Mưu, có tài liệu chép là đô đốc Đặng Tiến Đông?. Cũng chưa có cứ liệu nào cho phép giải thích rõ vấn đề này. Điều đáng lưu ý là những sách chép là đô đốc Long hay đô đốc Mưu, không có một tài liệu nào ghi chú rõ nguồn gốc của nhân vật, ngay cả họ hàng quê quán cũng không biết. Còn gia phả họ Đặng, đạo sắc phong chức tước đời Tây Sơn, văn bia của Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm là những tư liệu có giá trị, ghi chép đầy đủ họ tên, quê quán và phản ánh những nét lớn thân thế, sự nghiệp của Đặng Tiến Đông. Có thể do ghi chép sai lạc, phát âm chệch [16], cũng có thể do một lý do nào đó, Đặng Tiến Đông giấu tên thật của mình và vì vậy, đô đốc Đông trở thành đô đốc Long hay đô đốc Mưu.
Sau khi đánh tan quân giặc ngoại xâm, Đặng Tiến Đông vẫn giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền Tây Sơn, tiếp tục đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng đất nước. Dưới triều Quang Trung (1788 – 1792), ông giữ chức Vệ quốc thượng tướng quân trấn thủ hai xứ Thanh Hoa và Nghĩa An (thời Tây Sơn gọi trấn Nghệ An là Nghĩa An hay Trung Đô). Có lẽ ông giữ chức vụ đó cho đến năm 1790 là khi Quang Trung cử con là Nguyễn Quang Bàn làm đốc trấn trấn Thanh Hóa và tướng Trần Quang Diệu làm đốc trấn trấn Nghĩa An. Theo bài văn bia chùa Thủy Lâm do Phan Huy Ích soạn khắc vào năm Cảnh Thịnh thứ năm (1797) và bài minh do Trần Bá Lam soạn khắc vào chuông chùa Trăm Gian (thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây) vào năm Cảnh Thịnh thứ hai (1794) thì trong thời Quang Toản (1792 – 1802), ông giữ chức đại tướng thống vũ thắng vệ Thiên hùng hiệu.
Ngoài việc nước, trong thời gian làm quan trong triều Tây Sơn, Đặng Tiến Đông còn chăm lo tu bổ một số đền chùa ở quê hương. Trải qua nhiều năm biến loạn thời cuối Lê, dân làng Lương Xá có một bộ phận lưu tán đi các nơi. Ông đã chiêu tập dân làng trở về quê hương, khai khẩn đất đai, mở mang thôn xóm. Ông cúng cho làng 600 quan tiền và 17 mẫu ruộng tốt để tu bổ chùa Thủy Lâm, đền thờ họ Đặng và làm chi phí thờ cúng hàng năm. Ông còn sửa sang lại chùa Trăm Gian, đúc chuông cho nhà chùa (năm 1794) và cúng 80 quan tiền, 8 mẫu ruộng làm hậu Phật.
Chùa Trăm Gian còn giữ được bức tượng Đặng Tiến Đông mà nhân dân địa phương thường gọi là “tượng quan đô”. Bài văn bia “Đặng tướng công bi” dựng trong chùa và gia phả một số chi họ Đặng cho biết bức tượng tạc vào năm Cảnh Thịnh thứ hai (1794) lúc Đặng Tiến Đông 56 tuổi. Các tài liệu trên chép là “tượng truyền thần”, tạc vào lúc “sinh thời” của ông. Các cụ già làng Tiên Lữ tương truyền rằng, tượng giống người đến mức độ khi rước tượng về chùa, tượng đặt trong kiệu đi trước, “quan đô” ngồi trong kiệu đi sau, người xem không làm sao phân biệt được người và tượng! Ngày nay, khó mà xác định bức tượng có giống người đến mức độ như vậy không. Nhưng nghiên cứu bức tượng thì rõ ràng đấy không phải là một bức tượng mang tính chất tượng trưng, ước lệ thường gặp trong các chùa đền. Bức tượng nhằm diễn tả một con người cụ thể có dáng vóc, phong thái và cá tính riêng.
Tượng bằng gỗ mít, cao 1,30m không kể bệ, tạc một võ tướng mặc võ phục đơn giản, trong tư thế ngồi, hai tay vòng về phía trước. Tượng thể hiện một người có tuổi, dáng cao lớn, vai rộng, khuôn mặt to, mồm hơi dô, môi dày, râu quai nón… Nét mặt trang nghiêm nhưng có vẻ hiền lành, chất phác.
Bức tượng đã bị mọt đục ruỗng đôi chỗ và đã bị sơn lại. Gia phả chi họ Đặng ở thôn Long Châu, xã Phụng Châu (Chương Mỹ, Hà Tây) đề là Đặng gia phả ký cho biết năm Thành Thái thứ 15 (1903), năm chi họ Đặng đã góp tiền, trùng tu bức tượng của tiên tổ ở chùa Trăm Gian. Đó là một lần trùng tu có thể xác định được. Do những lần trùng tu như vậy nên nước sơn và những trang trí trên áo quần, mũ đai không còn giữ được phong cách đời Tây Sơn. Nhưng tính chất và giá trị chân dung của bức tượng vẫn có thể nhìn nhận và đánh giá được. Đây không phải là một tác phẩm điêu khắc thật đẹp, nhưng là một bức tượng chân dung rất hiếm có của nghệ thuật thời Tây Sơn. Bức tượng cho thấy một hình ảnh cụ thể về đô đốc Đặng Tiến Đông, vị tướng Tây Sơn đã có công lập nên chiến thắng Đống Đa lịch sử.
Đặng Tiến Đông mất ngày 15 tháng 4 vào một năm khoảng cuối đời Tây Sơn (năm cụ thể chưa xác định được). Mộ ông táng ở xứ Đồng Trê, nay thuộc thôn Đầm Dền, xã Đại Yên, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây.
*
Sử sách không ghi chép một câu nào về Đặng Tiến Đông. Nhưng những tài liệu, di vật mới phát hiện cho phép nêu cao công lao, sự nghiệp của đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Đông và trả lại cho ông vị trí xứng đáng cùng với cống hiến xuất sắc trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc năm 1788 – 1789.
Đặng Tiến Đông là một trong những sĩ phu tiến bộ ở Bắc Hà đã sớm tìm ra con đường đi đúng đắn của mình trong tình hình đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc cực kỳ ác liệt và phức tạp cuối thế kỷ XVIII. Ông đã kiên quyết và dũng cảm đi theo phong trào Tây Sơn, đứng về phía nhân dân và dân tộc. Phương hướng đúng đắn đó đã mở ra cho ông một cuộc đời mới, tạo điều kiện cho ông phát huy tài năng của mình, có những cống hiến tích cực đối với lịch sử.
Đặng Tiến Đông đã sớm trở thành một tướng soái tài ba của quân đội Tây Sơn. Dưới sự tổ chức và lãnh đạo tuyệt vời của Quang Trung Nguyễn Huệ, đô đốc Đông đã chỉ huy quân Tây Sơn đánh thắng trận Đống Đa, góp phần quan trọng tạo nên mùa xuân đại thắng của dân tộc năm Kỷ Dậu 1789.
(Bài in trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 154, 1974, tr.63-70)
[1] Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1964, tr.362; Lê Trọng Hàm, Minh đô sử, sách chép tay, Q.44.
[2] Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, sách in đời Nguyễn, Q.30; Đào Nguyên Phổ, Tây Sơn thủy mạt khảo, sách chép tay.
[3] Đặng Tiến Đông, Đặng gia phổ hệ toản chính thực lục, Sách chép tay gồm 6 quyển:
– Quyển 1 gọi là “ngoại kỷ” chép nguồn gốc xa của họ Đặng vốn là họ Trần.
– Quyển 2 chép về đời Nghĩa quốc công Đặng Huấn.
– Quyển 3 chép về đời Hà quận công Đặng Tiến Vinh.
– Quyển 4 chép về đời Doanh quận công Đặng Thế Tài.
– Quyển 5 chép về đời Yên quận công Đặng Tiến Thự.
– Quyển 6 chép về đời Dậuquận công Đặng Tiến Cẩm.
[4] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960, T.I, tr.257.
[5] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, tr.229.
[6] Sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục, bản dịch, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960, T.XX, tr.23.
[7] Sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục, Sđd, T.XX, tr.25.
[8] Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1964, tr.195.
[9] Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Sđd, tr.219.
[10] Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập (Q.30) chép là Lê Duật. Hoàng Lê nhất thống chí có chỗ chép là Nguyễn Duật (bản dịch đã dẫn, tr.246), có chỗ chép là Lê Duật (tr.225, 265). Việt sử thông giám cương mục chép thống nhất là Nguyễn Duật và chú thích rõ là người Nộn Liễu, huyện Nam Đường (Sđd, T.XX, tr.38).
[11] Trần Văn Giáp, Nguyễn Duy Hinh, Một bài văn đời Tây Sơn khắc trên biển gỗ ở miếu thờ thần núi Đồng Cổ (Thanh Hóa) nói về trống đồng, Tạp chí Khảo cổ học số 5 – 6, tháng 6 – 1970, tr.168 – 175.
[12] Từ thời Lê Trung Hưng, xứ hay trấn Thanh Hoa gồm Thanh Hoa nội là tỉnh Thanh Hóa ngày nay và Thanh Hoa ngoại là tỉnh Ninh Bình ngày nay. Thời Tây Sơn, Thanh Hoa ngoại thống thuộc vào Bắc Thành.
[13] Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, bản dịch, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962, tr.341.
[14] Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Sđd, tr.364.
[15] Thời Quang Trung, đô đốc là một chức võ quan cao cấp và trong cuộc kháng chiến chống Thanh được giao quyền chỉ huy các đạo quân phụ trách các hướng tiến công phối hợp. Sang thời Quang Toản, chính quyền Tây Sơn suy yếu dần, tệ mua bán chức tước phát triển và từ đó mới có nạn “đô đốc tam thiên đô đốc, chỉ huy bát vạn chỉ huy…”.
[16] Đặng Tiến Đông vốn tên là Đông chữ Hán viết là (东), sau đổi viết là (月东). Chữ Đông (东) và chữ Long (龙) (viết tắt), tự dạng gần giống nhau, rất dễ viết nhầm. Về phương diện ngữ âm, những từ có phụ âm đều đầu là Đ, L rất dễ chuyển hóa lẫn nhau.
Phụ lục :
Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản, vị đô đốc Tây Sơn qua các di vật ở Lương Xá (Hà Nội).
Trúc Diệp Thanh
Đầu những năm 70 của thế kỷ trước, giới sử học VN đã phát hiện một số di bản, di vật đời Tây Sơn ở Lưong Xá và chùa Trăm Gian (Chương Mỹ, Hà Tây cũ-nay là Hà Nội) trong đó quan trọng nhất là Bộ Đặng gia phả ký được biên soạn dưới triều Tây Sơn, bản Sắc có niên đại Thái Đức thứ 10 (1787) và tấm bia đá có khắc văn bia “Tông Đức thế tự bi” có niên đại Cảnh Thịnh thứ 5 (1797). Ba di bản này (bản gốc bằng chữ Hán) chứa đựng những thông tin chính xác, trung thực nhất về vị tướng quân họ Đặng đời Tây Sơn ở Lương Xá hiện được biết dưới cái tên “Đặng Tiến Đông”.
1- Đặng Tiến Đông chính là Đặng Tiến Giản vị tướng Tây Sơn thuộc dòng dõi họ Đặng ở Lương Xá (Chương Mỹ- Hà Nội).
1-Ảnh: tượng Đô đốc Đặng Tiến Giản tại chùa Trăm Gian
Trong Bộ Đặng gia phả ký có 6 quyển Đặng gia phả hệ toàn chính thực lục do chính Đặng tướng công biên soạn dưới triều Tây Sơn. Khai thác 6 quyển phả này cho thấy Đặng tướng công thuộc dòng dõi gia đình đại vọng tộc có công lớn với nhà Lê (đời Lê Trung Hưng). Ông là cháu đời thứ sáu của Nghĩa quốc công Đặng Huấn. Trên trang đầu mỗi quyển phả tác giả đều ghi rõ tên, họ, chức tước. Tuy nhiên tên của ông bằng chữ Hán lại có hai cách đọc khác nhau: người thì đọc là “ĐÔNG” (Đặng Tiến Đông) , kẻ thì đọc là “GIẢN” (Đặng Tiến Giản) !
Vậy tên của ông là “Đông” hay “Giản”? Điều lý thú là câu hỏi của người đời nay đã được chính Đặng tướng công giải thích từ ngày ông biên soạn gia phả (cuối thế kỷ 18). Tại trang cuối quyển 6 chép về Dận quận công Đặng Đình Miên-thân phụ của Đặng tướng công, tác giả có chép một đoạn “tự bạch”về mình như sau (phiên âm):
”Mậu Ngọ ngũ nguyệt sơ nhị, Quý Sửu thì, sinh đệ bát tử ”Đông” () hậu cải ”Giản” dĩ tự vựng vân: Trùng âm tích vũ chi hậu hốt kiến nhật sắc, cố tri danh yên” Có nghĩa là: ”Năm Mậu Ngọ, tháng 5, ngày 2, giờ Quý Sửu, sinh con trai thứ 8 là Đông sau đổi tên Giản () theo nghĩa chữ Giản là: Sau khi mây mù tích mưa bổng thấy ánh mặt trời, cho nên đặt tên như thế” (1)
Thẩm định qua Từ điển Hán ngữ hiện đại, tại cuốn “Từ Hải” (NXB Thượng Hải 1989) ỏ trang 1580 chữ ”Giản” được định nghĩa: ”Trùng âm tích vũ chi hậu hốt kiến nhật sắc dã” Đối chiếu với gia phả biên soạn 200 năm về trước thì định nghĩa chữ “Giản” như trên hoàn toàn trùng khớp! Với thông điệp của người xưa như trên, hậu thế phải đọc tên họ Đặng tướng công là Đặng Tiến Giản là lẽ đương nhiên!
2 – Trong hàng ngũ Tây Sơn, Đặng Tiến Giản có vị trí như thế nào?
Điều này khống thể tìm thấy trong bộ phả do Đặng Tiến Giản biên soạn mà phải khai thác từ 2 di bản còn lại:
1)- Bản “Sắc” có niên đại ngày 3 tháng 7 năm Thái Đức thứ 10 (15/8/1787) là bằng chứng lịch sử cho ta biết Đặng Tiến Giản từng là vỏ quan hàng Đô đốc, trấn thủ xứ Thanh Hoa dưới triều nhà Lê, năm 1787 ông từ bắc vào nam xin yết kiến Nguyễn Huệ được Huệ thu dụng, gia phong chức”Đô đốc Đồng tri tước Đông Lĩnh hầu vẫn sai làm trấn thủ xứ Thanh Hoa” (vào thời điểm này Thanh Hoa vẫn thuộc quyền cai quản của nhà Lê). Trong Sắc phong, Nguyễn Huệ khen Đặng Tiến Giản là người có khí tiết, có uy tín cao trong hàng ngũ các sĩ phu Bắc Hà và “người này” (Đặng Tiến Giản) sẽ có vai trò không ai có thể thay thế trong trừong hợp Tây Sơn tiến quân ra Bắc. Những tiên liệu của Nguyễn Huệ đã trở thành hiện thực chỉ vài tháng sau đó như đoạn văn bia dưới đây ghi chép.
2-Bản Sắc Phong tước Đông Lĩnh Hầu cho Đặng Tiến Giản
2)- Văn bia “Tông đức thế tự bi” do Phan Huy Ích biên soạn, Ngô Thì Nhậm nhuận sắc lập ngày 15 tháng 6 năm Đinh Tỵ (ngày 9/7/1797) để tưởng niệm Đặng Tiến Giản là bằng chứng lịch sử ghi nhận chiến công của Đặng Tiến Giản phục vụ Tây Sơn sau ngày nhận phong tước Đông Lĩnh hầu. Văn bia có đoạn như sau:
Phiên âm:
”Kim triều đại tướng thống Vũ Thắng đạo Thiên Hùng đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản hệ xuất lệnh tộc giáp nhất chi, Yên quận công chi tôn, Dận quận công chi tử (mất một chữ) thì, Hoàng triều Thái tổ Vũ Hoàng đế nghĩa thanh chấn bạc quy trú Quảng nam, công nhất kiến quân môn, mật mông tri ngộ, sủng ban ấn kiếm, ủy thống nhung huy. Ngưỡng lại thiên uy, nhất cử đảng định. Mậu thân … … (2 chữ bị đục) sơ, bắc binh nam mục, công phụng chiếu tiên phong đạo, tiến chiến nhi bắc binh hội. Công đơn kỵ đương tiên, túc thanh cung cấm. Vũ Hoàng giá lâm Thăng Long, sách hành thưởng đặc tứ bản quán Lương Xá xã vĩnh vi thực ấp…”
Dịch nghiã:
”Vị Đại tướng triều ta là Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản thống lĩnh về Thiên Hùng trong đạo Vũ Thắng, xuất thân từ chi thứ nhất một họ lớn, cháu cụ Yên quận công, con cụ Dận quận công (…) Bấy giờ tiếng tăm nghĩa khí của Thái tổ Vũ Hoàng đế lừng lẫy khắp nơi, ngài đang đóng quân ở Quảng Nam. Ông một lần vào ra mắt trước cửa quân, nhờ ơn tri ngộ, yêu ban ấn kiếm, giao cho cầm quân. Ngữa nhờ oai trời, một lần cất quân là quét sách giặc giả. Năm Mậu Thân… … quân Bắc nhòm ngó phương nam, ông vâng chiếu lãnh đạo tiên phong tiến đánh quân Bắc tan rã. Ông một mình một ngựa đi trước vào dẹp yên cung cấm. Vũ Hoàng đế đến Thăng Long xét công phong thưởng, đặc biệt ban cho ông làng quê Lương Xá làm thực ấp vĩnh viễn” (2)
Bia tưởng niệm Đô đốc Đặng Tiến Giản được lập năm Cảnh Thịnh thứ 5 (1797) là lúc triều Tây Sơn đang tuột dốc trong khi thế lực Nguyễn Ánh đang ngày càng hùng mạnh. Để tấm bia có thể tồn tại qua biến cố thời cuộc, 2 ông Phan, Ngô buộc phải thận trọng. Vì vậy, trong đoạn văn bia trên cần lưu ý một số nhóm từ hai ông Phan, Ngô sủ dụng với dụng ý đánh lạc hướng người đọc.
Bia tưởng niệm chiến công một tướng lĩnh Tây Sơn nhưng tuyệt nhiên không có 2 từ”Tây Sơn”, cũng không có tên nhân vật khét tiếng thời Tây Sơn là Nguyễn Huệ, sau này là vua Quang Trung, đối tượng tác chiến cũng không chỉ rõ cụ thể chỉ dùng cụm từ“Băc binh nam mục”, ”Bắc binh hội”. Tuy nhiên giới nghiên cứu cũng không mấy khó khăn nhận ra tấm bia nói về một tướng lĩnh Tây Sơn: danh xưng Thái tổ Vũ Hoàng đế là miếu hiệu của vua Quang Trung sau ngày nhà vua băng hà (1792).
Thời điểm Đặng Tiến Giản vào yết kiến Nguyễn Huệ ở Quảng nam (1787) , Huệ còn là Bắc Bình vương song các nhà soạn bia dùng miếu hiệu (tiên đế) vừa tránh lộ liễu vừa giữ được sự tôn nghiêm. Tuy nhiên điều khó nắm bắt hơn là hiểu đúng cụm từ ẩn dụ”bắc binh nam mục”, bắc binh hội”.
Chìa khóa để giải mả những bí ẩn trên là ở hai chữ xác định niên đại trận đánh là Mậu Thân (1788) (không cần tính đến 2 chữ bị đục) Trên những trang sử chép về triều đại Tây Sơn xưa, nay đều có ghi lại trận đánh của quân Tây Sơn ra Thăng Long vào đầu năm Mậu Thân (1788). Về trận này sách”Tây Sơn thuật lược” xuất bản dưới triều Nguyễn chép (lược trích):
”Năm Đinh Vị (1787) Nguyễn Hửu Chỉnh lấy binh Nghệ An ra Thăng Long đánh đuổi An Đô vương Trịnh Bồng. Vua Lê tin dùng phong cho Chỉnh tước Bằng quận công giao nắm binh quyền coi giúp việc nước. Mùa đông năm ấy Chỉnh xúi dục vua Lê gửi quốc thư cho Nguyễn Huệ đòi lại đất Nghệ An. Huệ nổi giận sai Tiết chế Vũ Văn Nhậm đôn đốc bộ quân, Thái úy Điều đôn đốc thủy quân, Đô đốc Đặng Giản làm tiên phong, nhắm kinh thành Thăng Long tiến phát…. Năm Mậu Thân (1788) , tháng Giêng, quân Tây Sơn tiến phạm Thăng Long bắt giết cha con Hửu Chỉnh, Lê Chiêu Thống chạy về Hải Dương cho người sang cầu viện nhà Thanh. Huệ cho Nhậm trấn giữ Thăng Long. Đặng Giản trấn Thanh Hoa (Giản là người Lương Xá, dòng dõi của Đặng Nghĩa Huấn”…Nhậm ở Thăng Long sinh kiêu căng lộng quyền, được tin báo mùa hạ năm đó (1788) Huệ mượn cớ đi tuần đất Bắc, bất ngờ vào Thăng Long bắt và giết Nhậm, giao Ngô Văn Sở , Phan Văn Lân giữ trấn Thăng Long…” (3).
Diễn biến trận đánh năm Mậu Thân (1788) của quân Tây Sơn ra Thăng Long như trên so với đoạn văn bia bằng chữ Hán do hai ông Phan, Ngô biên soạn năm 1797thấy hoàn toàn trùng hợp: giữa năm 1787, Đặng Tiến Giản từ Bắc Hà vào Quảng Nam yết kiến Nguyễn Huệ được Huệ trọng dụng phong tước Đông Lĩnh hầu, đến mùa thu năm đó xảy ra sự kiện Nguyễn Hửu Chỉnh xúi dục vua Lê gửi thư cho Huệ đòi lại đất Nghệ An (Bắc binh nam mục: quân bắc triều nhòm ngó lãnh thổ Tây Sơn) Huệ ban cho Đặng Tiến Giản ấn kiếm và giao cầm quân (đội tiên phong trong đạo quân do Vũ Văn Nhậm thống lĩnh) đánh ra Thăng Long hỏi tội bè lũ Lê Chiêu Thống-Nguyễn Hửu Chỉnh (Bắc binh hội). Đầu năm Mậu Thân, Giản dẫn đầu đoàn quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long bắt giết Chỉnh vua Lê chạy trốn khỏi kinh thành (túc thanh cung cấm). Nhậm được giao binh quyền ở Thăng Long sinh kiêu căng, lộng quyền. Tháng 4/Mậu Thân, Huệ bất ngờ ra Thăng Long (Vũ hoàng giá lâm Thăng Long) bắt giết Nhậm, ủy lạo khen thưởng tướng lĩnh có công trong đó “đặc cách ban cho Đặng Tiến Giản làng quê Lương Xá làm thực ấp”. Riêng về ngày Giản qua đời, cả ba di bản trên đều không đề cập nhưng căn cứ vào năm lập bia tưởng niệm người quá cố là năm 1797, có cơ sở để phán đoán ông mất trước thời điểm lập bia vài năm tức vào những năm đầu triều Cảnh Thịnh.
Xác minh lai lịch của Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản như trên là hoàn toàn khách quan, trung thực có cơ sở từ những cứ liệu lịch sử đời Tây Sơn hiện đang tồn tại. Từ đó có thể khẳng định Đặng Đô đốc ở Lương Xá không phải là Đô đốc Long vị tướng Tây Sơn chỉ huy đánh giặc Thanh ở Khương Thượng-Đống Đa dịp Tết Kỷ Dậu (1789). Văn bia Tông đức thế tự bi do 2 danh sĩ Tây Sơn là Phan Huy Ích biên soạn, Ngô Thì Nhậm nhuận sắc vào năm 1797 dưới triều Cảnh Thịnh chỉ cách trận đánh năm Mậu Thân 9 năm, cả 2 ông Phan Ngô đều là người từng trực tiếp chứng kiến 3 lần Tây Sơn tiến phạm Thăng Long vào các năm Bính Ngọ (1786) Mậu Thân (1788) và Kỷ Dậu (1789) thì không thể có sự nhầm lẫn giữa trận đánh năm Mậu Thân và năm Kỷ Dậu, giữa Đô đốc Đặng Tiến Giản và Đô đốc Long! (4)
Hà Nội tháng 01 năm 2010
Trúc Diệp Thanh
(Nhà báo-Hà Nội)
Chú thích:
(1) Sử dụng lời dịch của cố học giả Trần Văn Quý đăng trên ”Đối thoại sử học” (NXB Thanh Niên-2000) trang 360. Trong sách dịch Đặng Gia phả ký (Viện Nghiên cứu Hán Nôm-2000) ở trang 365 câu chữ Hán dẫn trên được dịch “…sinh con thứ tám là Đông sau đổi sang chữ Đông” là vô nghĩa!
(2) Sử dụng bản dịch của Lê Ngân và Lê Nguyễn Lưu đăng trên mục ”Thông tin tư liệu” tạp chí Huế Xưa và Nay (Hội Khoa học Lịch sử TT-H) số 90 (11-12/2008) trang 84-85).
(3) Đoạn lược trích trong bài là từ bản dịch cuốn”Tây Sơn thuật lược” (xuất bản từ đời Nguyễn) của Tạ Quang Phát, chuyên viên Hán học. Viện Khảo cổ Sài gòn đăng trên Đặc san Sử Địa (Sàigòn) số Xuân Mậu Thân 1968. (được in lại gần đây trên Fortune City http://www.GraneenFoundation.org)
- 1 Vương quốc Phù Nam từ Tk 1 đến Tk thứ 6
- 2 Sự Thực Lịch Sử và Các Nhà Sử Học Mác-xít Việt Nam
- 3 Lý do Mỹ ủng hộ Israel
- 4 Al Capone – Trùm mafia khét tiếng nước Mỹ
- 5 Ðế Quốc Việt Nam (3-8/1945)
- 6 Thanh đại đao 500 năm tuổi của Mạc Đăng Dung
- 7 nước Pháp và Đông Dương (1886)
- 8 Chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam bộ
- 9 bàn về việc định đô Thăng Long và về gốc tích Lý Thường Kiệt
- 10 Phật giáo từ Siddharta đến Asoka