Phụ chú thời Lê- Lý : Sự kiện (Bài 2)
Đặng Thanh Bình Sách Toàn thư chép: “Đinh Mão[967] Bấy giờ trong nước không có chủ, 12 sứ quân tranh nhau làm trưởng, không ai chịu thống thuộc vào ai. Đinh Bộ Lĩnh nghe tiếng Trần Minh Công là người có đức mà không có con nối, bèn cùng với con là Liễn đến nương tựa ...
Đặng Thanh Bình
Sách Toàn thư chép:
“Đinh Mão[967] Bấy giờ trong nước không có chủ, 12 sứ quân tranh nhau làm trưởng, không ai chịu thống thuộc vào ai. Đinh Bộ Lĩnh nghe tiếng Trần Minh Công là người có đức mà không có con nối, bèn cùng với con là Liễn đến nương tựa (…) Bính Tý[976] Sai Trần Nguyên Thái sang đáp lễ nhà Tống”.
Sách Toàn thư chép:
“Ất Hợi[975] Sai Trịnh Túđem vàng lụa, sừng tê, ngà voi sang nhà Tống (…)
Sách Toàn thư chép:
“Kỷ Mão [979] Mùađông tháng 10 Chi hậu nội nhân Đỗ Thích giết vua ở sân cung [Việt sử lược chép: Tháng 11, ban đêm vua ngự tiệc thì bị Phúc Hầu Hoằng là Đỗ Thích giết. Cương mục chép: Đỗ Thích ngườiĐạiĐê thuộc Thiên Bản. Nay là Vụ Bản, Nam Định] nhân lúc vua ăn yến ban đêm, say rượu nằm trong sân (…) lệnh lùng bắt hung thủ rất gấp, Thích phải lén núpở máng nước 3 ngày (…) cung nữ trông thấy liềnđi báo[Việt sử lược và Cương mục chép: Cung nữ thấy vậy mới báo vớiĐịnh Quốc Công Nguyễn Bặc] Định Quốc Công Nguyễn Bặc sai người bắtđem đi chém (…) Định Quốc Công Nguyễn Bặc, Ngoại Giáp Đinh Điền, cùng Thậpđạo tướng quân Lê Hoàn rước Vệ Vương Toàn lên ngôi Hoàng Đế[Việt sử lược chép: Nguyễn Bặc cùng với Tướng quân là Lê Hoàn phụng lập Vệ Vương Đinh Tuệ lên ngôi vua] Lê Hoàn nhiếp chính, tự xưng là Phó vương”.
* Trong bài Bàn về cái chết của Đinh Bộ Lĩnh tôi đưa ra bằng chứng cho thấy Đại Thắng Minh Hoàng Đế mất khoảng năm 976. Trong bài Phụ chú về thời Đinh Lê tôi đưa ra bằng chứng cho thấy Lê Hoàn không liên quan tới cái chết củaĐinh Liễn năm 979. Như đoạn trích ở trên chúng ta thấy có 1 vài sai khác giữa các bộ sử của Việt Nam. Lê Hoàn là người nắm giữ binh quyền, nếu ngài ấy có ý định giết vua và Đỗ Thích là đồng phạm thì Lê Hoàn phải lên kế hoạch giải quyết Đỗ Thích như hoặc là tạo điều kiện cho Thích trốn khỏi cung, rồi an trí ở 1 địa điểm an toàn nào đó, hoặc chính Hoàn ra tay trừ khử Thích để bịt đầu mối. Chứ không lý gì để Nguyễn Bặc bắt được, mà khi Bặc bắt được Thích cũng giết đi, chứ không thấy tra khảo để tìm ra đồng phạm. Tôi cho rằng Đỗ Thích không giết vua, mà rất có thể Đinh Liễn uống rượu say, ngủ lại ngoài sân cung nên trúng gió mà chết, quan chi hậu họ Đỗ hầu cận ở bên, bị nghi ngờ nên Nguyễn Bặc đã giết đi. Sách Toàn thư và Cương mục thì chép rằng Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lê Hoàn đưa Vệ Vương Toàn lên ngôi, nhưng sách Việt sử lược thì chỉ chép Nguyễn Bắc và Lê Hoàn mà không có Đinh Điền. Việt sử lược chép chính xác hơn, vì khi xảy ra vụ án Đinh Điền đang trấn giữ ở Ái Châu.
Sách Toàn thư chép:
“Định Quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giápĐinh Điền, Phạm Hạp ngờ Hoàn sẽ làm điều bất lợi cho vua nhỏ, bèn cùng nhau dấy binh, chia hai đường thuỷbộ, muốn tiến về kinh đô giết Hoàn, nhưng không thắng, bị giết (…) Canh Thìn[980] Thái hậu[Họ Dương] sai Lê Hoàn chọn dũng sĩđi đánh giặc, lấy người ở Nam Sách Giang là Phạm Cự Lang làmđại tướng quân[Việt sử lược chép: Thái hậu sai người ở Nam Sách là Phạm Cự Lang làmĐại tướng quân] Nhâm Ngọ[982] Lập Hoàng thái hậu nhàĐinh là Dương thị làmĐại Thắng Minh Hoàng Hậu. Hậu là vợ của Tiên hoàng, mẹđẻ của Vệ Vương Toàn, cùng với Phụng Càn Chí Lý Hoàng Hậu, Thuận Thánh Minh Đạo Hoàng Hậu, Trịnh Quốc Hoàng Hậu, Phạm Hoàng Hậu là 5 hoàng hậu[Việt sử lược chép: Năm Nhâm Ngọ vua lập Vương hậu 5 bà] Vua thân đi đánh Chiêm Thành, thắng được. Bắt sống được quân sĩ của chúng nhiều vô kể, cùng là kỹ nữ trong cung trăm người và một nhà sư Thiên Trúc”.
* Trong bài Phụ chú về thời Đinh Lê tôi có đưa bằng chứng cho thấy Lê Hoàn không có quan hệ tư thông với vợ của Đinh Bộ Lĩnh là Dương thị, bà Dương thị vợ của Lê Hoàn có danh xưng đúng phải là Đại Thánh Minh Hoàng Hậu và xưng hiệu của Lê Hoàn là Đại Thánh Minh Hoàng Đế. Ngay như Việt sử lược cũng chỉ nói Hoàn lập 5 vương hậu và cũng không nhắc gì tới việc Hoàn có tư thông với mẹ của Vệ Vương Toàn. Trong 5 bà vương hậu thì có 2 bà thấy nhắc tới họ là Trịnh hoàng hậu và Phạm hoàng hậu. Theo thứ tự nhắc tên thì ngờ rằng 2 bà vương hậu này được lập sau. Chúng ta không biết tình trạng hôn nhân thế kỷ thứ 10 ra sao, nhưng giả sử có lợi cho chúng ta là chỉ những người ở tầng lớp trên mới lấy được nhiều vợ thì khả năng rất cao là Trịnh hoàng hậu và Phạm hoàng hậu trở thành vợ sau khi Hoàn làm vua. Như thế chúng ta có cơ sở để xác lập mối quan hệ thân tộc giữa Trịnh hoàng hậu với Trịnh Tú và Phạm hoàng hậu với Phạm Cự Lạng. Thực chất của các cuộc hôn nhân này là vì mối quan hệ giữa các dòng họ [Chúng ta cũng không thấy Trịnh Tú và Lưu Cơ trong cuộc chiến với Lê Hoàn]
Sách Toàn thư chép:
“Kỷ Sửu[989] Phong Thái tử Thâu làm Kình Thiên Đại vương, Hoàng tử thứ hai là Ngân Tích làmĐông Thành vương, hoàng tử thứ ba là Việt làm Nam Phong vương. Vua sai Quản giáp là[Dương] Tiến Lộcđi thu thuế hai châu Hoan vàÁi, Tiến Lộcđem người của 2 châu ấy theo về với Chiêm Thành. Chiêm Thành không nhận. Vua nghe tin đem quân đánh 2 châu Hoan vàÁi, bắt được Tiến Lộc và giết người 2 châu ấy không biết bao nhiêu mà kể [Việt sử lược chép sự kiện Dương Tiến Lộc làm phản trước việc phong vương của 3 hoàng tử]Giáp Thìn[1004] Mùa xuân tháng giêng lập Nam Phong vương Long Việt làm hoàng thái tử, gia phong Long Đĩnh làm Khai Minh Đại vương, Long Tích làmĐông ThànhĐại vương Ất Tỵ[1005] Mùa xuân tháng ba, vua băng ởđiện Trường Xuân, gọi làĐại Hành Hoàng Đế[Việt sử lược chép và Cương mục chép: Ở ngôi 24 năm thọ 65 tuổi]Tên huý là Long Việt, con thứ 3 của LêĐại Hành, mẹ là Chi hậu Diệu Nữ. Lên ngôi được 3 ngày thì bị em cùng mẹ là Long Đĩnh giết, thọ 23 tuổi[Việt sử lược chép: Năm lên 9 tuổi Trung Tông được phong làm Nam Phong Vương. Thọ 25 tuổi. Cương mục chép: Con gái quan Chi hậu tên là Diệu, không rõ họ là gì] Tên huý là Long Đĩnh, con thứ 5 củaĐại Hànhở ngôi 4 năm, thọ 24 tuổi[Việt sử lược chép: Năm Kỷ Dậu[1009] Mùa xuân Minh Xưởngở Tống về, xin được kinh Đại Tạng và dụ được người con gái nước Tống là Tiêu thịđem dâng. Vua thu nạp làm cung nhân (…) Mùađông tháng 10 vua qua đời tại phòng ngủ trong điện. Ở ngôi 4 năm] Khi ấy Chi hậuĐào Cam Mộc dò biết[Lý] Công Uẩn có muốn việc truyền ngôi”.
* Trong bài Phụ chú về thời Đinh Lê tôi xácđịnh năm Lê Hoàn chính thức lên ngôi [xưng hoàng đế] là năm 993. Nhưng nay căn cứ vào Toàn thư chép năm Minh Xưởng về nước là năm 1009, vậy thì năm Lê Hoàn xưng hoàng đế có thể lùi lại 1 năm, tức năm 994. Nên nay gọi cho chính xác là cuối năm 993 đầu năm 994. Việc Lê Hoàn xưng hoàng đế năm 993 – 994 không mâu thuẫn với thông tin lập 5 hoàng hậu [đúng phải là 5 phi] và phong vương cho các con được ghi chép trong sách sử, vì như sách Toàn thư chép năm 979 Lê Hoàn tự xưng là Phó vương và chính việc xưng là Phó vương này đã làm Nguyễn Bặc, Đinh Điền và Phạm Hạp nghi ngờ Hoàn. Câu hỏi rất quan trọng là Hoàn xưng là Phó vương trước hay sau khi đánh dẹp Nguyễn Bặc, Đinh Điền ? Vì đây là sự kiện rất quan trọng. Có khi nào sau khi đánh dẹp Nguyễn Bặc và Đinh Điền, để chống lại quân Tống, các tướng lĩnh muốn Hoàn lên ngôi, nhưng Hoàn chỉ xưng là Phó vương mà thôi ? Việc Hoàn xưng là Phó vương trước hay sau sự kiện Nguyễn Bặc vàĐinh Điền cho chúng ta thấy Lê Hoàn có dã tâm hay không ?
* Sách Việt sử lược và Toàn thư chép sai khác về tuổi của Lê Trung Tông. Sách nào là sách chép chính xác hơn đây ? Vì thông tin về tuổi của Lê Long Việt là rất quan trọng. Sách Việt sử lược chép rằng mẹ của Long Việt là “sơ hầu di nữ”. Nghĩa là con gái của người hầu người Di. Có giả thuyết rằng: người Di hầu này là người Chiêm mà Lê Hoàn bắt được sau lần tấn công Chiêm Thành năm 982. Và như sách Toàn thư thì năm Trung Tông mất là năm 1005, thọ 23 tuổi, nghĩa là Long Việt sinh năm 983. Hoàn toàn khớp với giả thuyết. Và giả thuyết càng có lý hơn khi Lý Công Uẩn lên ngôi mà không vấp phải sự kháng cứ nào của các công thần triều Lê, bởi vì Lê Long Đĩnh là con của Lê Hoàn với người Di, là sự xúc phạm đến lòng tự tôn của người Việt. Thế nhưng nếu như Việt sử lược chépđúng, Long Việt thọ 25 tuổi, tức là Trung Tông phải sinh năm 981 và như thế thì Lê Long Việt và Lê Long Đĩnh không phải là con của Lê Hoàn với người con gái Chiêm Thành. Có 2 lý do mà tôi cho rằng Long Việt không mang 2 dòng máu Việt Chiêm: thứ nhất là sách sử tuy chép khác nhau song đều chép rằng Hoàn có quan hệ tình cảm với con gái của người hầu, như vậy thì người hầu này phảiở trong cung nhiều năm và Hoàn có mối quan hệ với con gái của người hầu, nếu như năm 982 Hoàn bắt phụ nữ của Chiêm Thành về làm người hầu, thì lúc này sách sử sẽ chép thẳng rằng Lê Hoàn có quan hệ với người hầu người Di, vì dù có bắt được cả mẹ lẫn con thì cả 2 đều là người hầu và nếu như thế thì Hoàn phải quan hệ trực tiếp với người hầu chứ không phải là con gái của người hầu, hiểu đơn giản thì con gái của người hầu chưa hẳn đã là người hầu trong cung. Thứ hai là năm 979 Hoàn xưng là Phó vương, năm 982 Hoàn lập 5 hoàng hậu và việc lập 5 hoàng hậu trước khi đánh Chiêm Thành. Vậy thì rất có thể Lê Hoànđã có quan hệ với các hoàng hậu này trước khi đánh Chiêm Thành, nếu đúng thì khả năng cao các bà hậu này phải có bầu trước người con gái người Chiêm Thành, trong khi Long Việt là con thứ 3 cũng là con của người phụ nữ Chiêm Thành, thì rõ ràng là không ổn.
* Về con trai cả của Lê Hoàn là Lê Long Thâu, chúng ta biết những gì ? Năm 989, Thâu được phong làm Kình Thiên Đại vương, nhưng năm 1000 thì mất, năm nàyĐại Thánh Minh hoàng hậu cũng mất. 2 cái chết này có gì mờ ám không ? Sách Toàn thư chép:
“Mậu Tuất[năm 998] Tháng 6 cũng không mưa. Dân bị bệnh ho, trâu ngựa chết nhiều”.
Rất có thể cái chết của Đại Thánh Minh hoàng hậu và Kính Thiên Đại vương liên quan tới dịch bệnh của 2 năm trước. Chúng ta biết rằng Lê Hoàn sinh năm 941, đến năm 1000 thì ngài cũngđã 59 tuổi. Khả năng cao Đại Thánh Minh hoàng hậu họ Dương là vợ cả của Lê Hoàn và cũng là mẹ của Lê Long Thâu, vậy thì bà cũng chẳng thua Lê Hoàn là mấy tuổi. Nếu Lê Hoàn lấy vợ khoảng năm 24 tuổi (tức là năm 965) thì đến năm 980 vợ chồng Lê Hoàn và Dương thị sinh sống với nhau là 15 năm. Vậy thì không những Lê Long Thâu là con của Lê Hoàn và Dương thị mà 2 người còn cóít nhất là 1 người con trai nữa là Lê Ngân Tích. Bà Đại Thánh Minh hoàng hậu này tôi ngờ là mang họ Dương, nhưng không phải là bà Dương thị vợ củaĐinh Bộ Lĩnh. Có lẽ vì cả 2 mang họ Dương nên sử gia đã nhầm lẫn chăng ?
* Biến loạn năm 1005 được cho là Lê Hoàn không lập thái tử sớm, tuy nhiên không phải là như vậy. Sách Toàn thư chép:
“Giáp Thìn[năm 1004] Trướcđó Long Đĩnh xin làm thái tử, vua cóý muốn cho. Đình thần nghị bàn cho rằng không lập con trưởng mà lập con thứ là không phải lễ. Vua bèn thôi”.
Rõ ràng là vua cóý lập thái tử nhưng bị can ngăn do không phải lễ. Mà vua cũngđã thôi không làm trái lễ vậy thì sao nay lại làm trái lễ, lập con thứ là Long Việt mà bỏ qua Ngân Tích ? Sách Toàn thư chép một sự kiện khá thú vị là năm 989 Dương Tiến Lộc thu thuế 2 châu Hoan Ái, rồi làm phản. Chúng ta biết đất Ái Châu, họ Dương rất thế lực, Lê Hoàn dùng người họ Dương là Tiến Lộc đi thu thuế ở 2 châu Hoan Ái cho thấy Hoàn rất biết dùng người. Tuy nhiên họ Dương đã cự lại. Xem kết cục của việc Hoàn dẹp loạn “giết người hai châu ấy không biết bao nhiêu mà kể” thì rõ là họ Dương đã muốn ly khai. Đại Thánh Minh hoàng hậu người họ Dương và Lê Ngân Tích là cháu ngoại họ Dương. Có lẽđó là lý do Lê Hoànđã không muốn trao ngôi của Ngân Tích. Tuy nhiên một khó khăn xảy ra là Ngân Tích lại bị người ở châu Thạch Hà giết. Đúng lý thì đất châu Hoan vàÁi phải là đất của Ngân Tích mới phải ? Ngân Tích phải an toàn ở đó mớiđúng ? Câu trả lời có thể là đất bắc trung bộ thờiấy có nhiều thế lực, mà họ Dương chỉ là dòng họ thế lực nhất mà thôi.
* Như thế nói rằng Lê Hoàn không có chút tình riêng thì cũng không phải ? Việc Hoàn định cho Long Đĩnh làm thái tử[có lẽ sau cái chết của Lê Long Thâu năm 1000, Lê Long Đĩnh đã xin Lê Hoàn cho làm thái tử] rõ là có tình riêng, nhưng do phản đối nên cho anh cùng mẹ của Đĩnh là Long Việt làm thái tử. Hoàn cho con của con gái người hầu làm thái tử, vậy Lê Hoàn có phong con của người hầu là hoàng hậu không ? Theo như sách sử thì không ? Có khi nào sách sử chép sai không ? Và quan trọng là người con gái của người hầu này là ai ? Sách Toàn thư chép: “Tân Sửu[năm 1001] Vua thân đi đánh giặc Cử Long, vua cũ là Vệ Vương Toàn trúng tên chết tại trận. Vua kêu trời ba tiếng”. Sách Cương mục thì bàn rằng: Lê Hoàn lợi dụng cơ hội, đã cướp lấy nước người ta, lại không khéo đốiđãi chúa cũ, đẩy vào chỗ chết, thế nào mà Toàn chẳng đến chỗ tử vong. Điều trùng hợp là năm Toàn chết cách 1 năm sau cái chết củaĐại Thánh Minh hoàng hậu họ Dương, mà chúng ta biết rằng mẹ của Toàn cũng là người họ Dương ? Có khi nào 2 vị phu nhân này có mối quan hệ thân tộc, chính vì thế mà Lê Hoàn không giám ra tay vớiĐinh Toàn, phải chờ tới khi vợ họ Dương chết mới ra tay ? Nhưng mà, rõ ràng là Lê Hoànđã có được mọi thứ, thì cần gì hại tới Vệ vương làm gì nữa ? Có lẽđây chỉ là trùng hợp mà thôi.
Bài Điềm báo thảm trong giấc mơ mẹ vua Lê Trung Tông của tác giả Lê Thái Dũng viết:
“Theo dã sử, mẹ của hai vua sau một lần đi cầu tự, lúc trở về cung nằm mơ thấy hai con rồng từ trên trời bay xuống hóa thành hai đứa bé trai tranh nhau mặt trời, một đứa nói: “Ta là anh, sao dám tranh giành với ta?”, đứa bé kia ngần ngừ một lát rồi trao trả mặt trời sau đó quay đi, nhưng suy nghĩ một lát nó chạy lại cầm dao đâm anh gục xuống mà nói: “Mặt trời là của báu của thiên hạ, anh thì anh ta cứ giành cho được”, sau đó cướp lấy mặt trời chạy đi.Bà Diệu Nữ giật mình tỉnh giấc, lòng lo lắng bất an. Ít lâu sau bà có mang, đến năm Quý Mùi (983) sinh một người con trai, nhớ lại giấc mơ rồng giáng hạ mới đặt tên con là Long Việt; năm Bính Tuất (986) sinh thêm một người con trai nữa đặt tên là Lê Long Đĩnh. Hai người con sau này đều làm vua, đó chính là Lê Trung Tông và Lê Ngọa Triều, và bi kịch em giết anh cướp ngôi đã diễn ra đúng như trong giấc mộng năm xưa của người mẹ”.
Tống sử chép:
“Cảnh Đức năm thứ nhất[1001] sai con là Thứ sử Hoan Châu Minh Đề sang cống (…) Năm thứ ba [1006] Hoàn chết, lập con giữa là Long Việt (…) Em là Long Đình sát hại Long Việt, tự lập làm vua (…) Năm thứ tư Long Đình xưng quyền An Nam Tĩnh Hải quân lưu hậu, khiển em là Phong Châu thứ sử Minh Sưởng, phó sứ An Nam Chưởng thư kýđiện trung thừa Hoàng Thành Nhã cùng vào cống (…) Chí Trung vừa hai mươi sáu tuổi, bạo nguợc không có phép độ, người trong nước không theo. Viên Đại hiệu Lí Công Uẩn đặc biệt làm người thân cận của Chí Trung, từng lệnh cho Công Uẩn mang họ Lê. Năm đó[1010] liền bắt giữ Chí Trung, đuổi đi, giết bọn Minh Đề, Minh Xưởng, tự xưng Lưu hậu, sai sứ cống nạp.
Tục tư trị thông giám:
“Lê Chí Trung của Giao Châu bạo ngược, người trong nước không theo, viên Đại hiệu Lí Công Uẩn là người thân cận của Chí Trung, bèn đuổi Chí Trung ra thành mà giết đi. Hai em của Chí Trung là Minh Đề, Minh Xưởng tranh ngôi, Công Uẩn lại giết họ, tự xưng Lưu hậu, sai sứ cống nạp”.
Sách Toàn chư chép:
“Sách Địa chí bản cũ chép vua băng vào năm Bính Ngọ[1006] đó là lấy khi Ngoạ Triều xin mệnh[nhà Tống] mà chép, không phải là thực. Nay theo Lê Văn Hưu là đúng”.
* Đúng như sách Toàn thư chép. Tống sử chép năm Lê Hoàn mất sau 1 năm so với sách sử Việt Nam. Cũng theo Tống sử năm Chí Trung [Lê Long Đĩnh] chết là năm 1010, khi ấy Ngoạ Triều 26 tuổi. Vậy Ngoạ Triều sinh năm 985. Tức là sai lệch so với sách Toàn thư 1 năm.
Chúng ta có thể biết được mẹ của Long Việt và Ngoạ Triều không ? Sách Toàn thư chép: “Vua trừ nội gian mà lấy được nước, đuổi giặc ngoài để yên dân, trong nước thanh bình, bắc nam vô sự, tiếc rằng không sớm chọn con nối, khiến cho con cái tranh nhau bên trong, dẫn đến mất ngôi, vềđạo vợ chồng có nhiềuđiềuđáng thẹn”. Vua trừ nội gian vậy nội gian là ai ? Chắc không phải là Đỗ Thích rồi, vì Thích do Nguyễn Bặc giết ? Không lẽ là Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp ? Vì sách Toàn thư cũng chép: “Khi Điền và Bặc cất quân, Thái hậu nghe tin, lo sợ bảo Hoàn rằng: Bọn Bặc dấy quân khởi loạn làm kinh động nước nhà ta”. Còn việc đạo vợ chồng có điều đáng thẹn là các sử gia muốn nói vềđiều gì ? Phải chăng là chuyện Hoàn lập tới 5 vợ ?
Trước đó Ngô Quyền rồi Đinh Bộ Lĩnh đều có nhiều hơn 1 vợ. Có lẽ các sử gia muốn nói tới chuyện Hoàn thông dâm với Dương thị vợ của Bộ Lĩnh hoặc là cả chuyện hoàng có mối tư tình với con gái của người hầu ? Sách Cương mục chép: “Thái Hậu, con gái quan chi hậu tên là Diệu, không rõ họ là gì”. Đây là thông tin khá thú vị, chỉ tiếc rằng thông tin này cách sự kiện quá xa và lại không thấy dẫn nguồn sử ghi chép, nên ở đây tôi chỉ đặt ra giả thuyết, không giám kết luận: Nếu đúng Long Việt thọ 25 tuổi như Việt sử lược, thì Trung Tông sinh năm 981, vậy Hoàn phải quan hệ với con gái của quan chi hậu trước năm 981.
Có 3 thời điểm khá thú vị giai đoạn này là mùa đông năm 979, năm 980 và mùa xuân năm 981. Thời điểm Hoàn có quan hệ với người con gái của quan chi hậu là rất quan trọng, tuy nhiên chúng ta không thể xác định, căn cứ duy nhất là 1 căn cứ rất yếu, đó là Lê Hoàn có rất nhiều con, nghĩa là Lê Hoàn không cần tư tình trong thời gian dài mới có thể sinh Long Việt, nói cách khác, có thể thờiđiểm Lê Hoàn có quan hệ với con gái của quan chi hậu là trong năm 980 xảy ra cao nhất, khi ấy Hoàn là Phó vương, lại nắm giữ quân đội.
Cũng không loại trừ Hoàn có mối quan hệ lén lút từ trước năm 980, như vậy thì khả năng rất cao, quan chi hậu ở đây là Đỗ Thích và như thế sự lén lút này của Hoàn khiến người ngoài nghi ngờ rằng Hoàn có mối quan hệ với vợ củaĐinh Bộ Lĩnh. Và tất nhiên việc Đỗ Thích có mặt tại hiện trường vụ ám sát Đinh Liễn không phải là ngẫu nhiên, cũng có lẽ vì mối quan hệ đặc biệt này mà Hoàn có tư thù với Nguyễn Bặc, người đã giết cha củangười tình của Lê Hoàn và cũng có thể vì món nợ này mà sau Lê Hoàn rất ưu ái con gái và cháu ngoại của quan chi hậu Đỗ Thích. Nhưng đó chỉ là giả thuyết, thực sự rất yếu bởi nếu bà Diệu là con gái của Đỗ Thích, một nhân vật biết rõ tên tuổi, quê quán, quá trình tiến thân thì không có lý gì các sử gia không biết về bà, hơn thế nữa sau án giết vua, thì việc người thân của Đỗ Thích bị giết cũng không khó hiểu, vậy thì rất khó để bà Diệu sống sót được để mà sinh Lê Long Đĩnh năm 985, trừ khi Lê Hoàn che giấu, bảo vệ người tình, nhưng nếu thế sử sách cũng phải chép lại chứ sao lại không có dòng nào ?
* Một nhân vật quan chi hậu nữa được sử sách chép lại trong quãng thời gian này làĐào Cam Mộc. Sách Toàn thư chép:
“Kỷ Dậu[1009] Khi ấy Chi hậu làĐào Cam Mộc dò biết Công Uẩn có muốn nhận việc truyền ngôi, mới nhân lúc vắng mà nói khích rằng: Gầnđây chúa thượng ngu tối bạo ngược, làm nhiều việc bất nghĩa, trời chán ghét nên không cho hết thọ, con nối thơấu, không kham nổi nhiều việc khó khăn. Mọi việc phiền nhiễu thần linh, dân chúng nháo nhác, mong tím chân chúa. Sao Thân vệ không nhân lúc này nghĩ ra mưu cao, quyếtđoán sáng suốt, trên thuận lòng trời, dưới theo ý dân, mà cứ khư khư giữ tiểu tiết làm gì”.
Bà Diệu có phải là con gái của Đào Cam Mộc hay không ? Nếu như phải thì Lê Ngoạ Triều là cháu ngoại của Cam Mộc, nếu vậy thì Cam Mộc phải giữ ngôi vị hoàng đế cho con của Ngoạ Triều là Sạ mới phải ?
Sách Toàn thư chép:
“Công Uẩn trong lòng thích lời nóiđó, nhưng còn ngờ Cam Mộc cóý khác, mới giả cách mắng rằng: Sao ông lại nói thế, tôi phải bắtông nộp quan (…) Cam Mộc thong thả bảo Công Uẩn rằng: Tôi thấy thiên thời nhân sự như thế, cho nên mới dám phát ngôn. Nay ông muốn cáo giác tôi, tôi không phải là người sợ chết (…) Công Uẩn nói: Tôi đâu nỡ cáo giácông, chỉ sợ lời nói tiết lộ ra thì chết ráo (…) Hôm sau Cam Mộc lại bảo Công Uẩn: Thân vệ còn nghi ngại gì nữa (…) Công Uẩn nói: Tôi hiểuýông, không khác gìý của thầy Vạn Hạnh, nếu thực như lời ấy phải tính thế nào (…) Cam Mộc biết việc cần kíp, sợ sinh biến, mới nói chuyện với các khanh sĩ và các quan, ai cũng vui theo. Ngay ngày hôm ấy, điều họp cảở trong triều (…) thế rồi cùng dìu Công Uẩn lên chínhđiện, lập làm thiên tử, lên ngôi hoàng đế”.
Rõ ràng là Cam Mộc cóý phụ tá Công Uẩn lên ngôi! Chúng ta hiện chỉ xácđịnh được 3 người hoàng hậu của Lê Hoàn, còn 2 vị nữa là Phụng Càn Chí Lý Hoàng Hậu và Thuận Thánh Minh Đạo Hoàng Hậu là chưa xácđịnh được thân thế. Liệu bà Diệu có phải là 1 trong 2 bà này không ?
Rất là khó, vì nếu vậy sử sách hẳnđã ghi chép. Vậy là Lê Hoàn đã không phong người tình của mình làm hoàng hậu. Thế thì rất khó để phong cho cha vợ chức tước lớn trong triều. Nhưng Ngoạ Triều thì lại phong cho mẹ làm Hưng Quốc Quảng Thánh Hoàng Thái Hậu. Vậy thì Ngoạ Triều cũng không ngần ngại phong cho ông ngoại chức tước quan trọng, chứ không lý gì chỉ để giữ chức Chi hậu[chức hầu cận nhà vua] Tuy nhiên chúng ta lại thấyởđây, một quan chi hậu nhỏ bé lại có 1 vai trò quan trọng, Cam Mộc là người nói với Công Uẩn nên lên ngôi, sau đó lại chính Cam Mộc kêu gọi, họp bàn với các quan đểđưa Công Uẩn lên ngôi.
Rõ ràng một quan chi hậu không đủ sức làm việcấy. Như sách Toàn thư chép về sự đốiđãi của Công Uẩn đối với Cam Mộc, chúng ta sẽ thấy hết tầm quan trọng của Mộc: “Kỷ Dậu[1009] Gả con gái trưởng là công chúa An Quốc cho Đào Cam Mộc, phong Cam Mộc là Nghĩa Tín Hầu”. Đây không hẳn là sự ghi công, vì nếu là ghi công thì chỉ cần phong là Nghĩa tín hầu làđãđủ, việc gả công chúa trưởng cho Cam Mộc có phải bắt đầu từ tình yêu ? Sách Toàn thư chép: “Ất Mão[1015] Đào Cam Mộc chết, tặng Thái sưá vương”. Khi kết hôn với công chúa An Quốc, có lẽ Cam Mộcđã rất nhiều tuổi, nên cuộc hôn nhân này cần phải xem xét dưới góc độ mối quan hệ giữa các dòng họ.
Sách Toàn thư chép: “Tân Mão [991] Mùa xuân tháng 2 sai Đào Cần sang nhà Tốngđáp lễ (…) Kỷ Dậu[1009] Phong Đào Thạc Phụ làm Thái bảo (…) Tân Hợi[1011] Mùa hạ tháng 4 sai viên ngoại lang Lý Nhân Nghĩa vàĐào Khánh Văn sang thăm nước Tống đểđáp lễ (…) Mậu Thìn [1028] LấyĐào Xử Trung làm Thái bảo (…) Đào Văn Lôi làm Tả phúc tâm (…) Quý Dậu[1033] Châu Định Nguyên làm phản. Tháng 2 vua thân đi đánh, cho Đông cung thái tử giám quốc. Mồng 8 quân đi từ Kinh sư, đóng lạiở châu Chân Đăng [Vĩnh Phú] có người đàn bà họĐào dâng con gái, vua nhận cho làm phi”.
Rõ ràng là họ Đào rất có thế lựcở đất Phong Châu. Nhưng câu chuyện chỉ có thế ? Sách Toàn thư chép:
“Canh Tuất [1010] Mùa xuân tháng 2 xa giá về châu Cổ Pháp, ban tiền lụa cho các bô lão trong làng (…) Sai viên ngoại lang Lương Nhậm Văn và Lê Tái Nghiêm sang nước Tốngđể kết hảo. Vua thấy thành Hoa Lưẩm thấp chật hẹp, không đủ chỗở của đế vương, muốn di dờiđi nơi khác, tự tay viết chiếu truyền rằng: “Ngày xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh 5 lần dờiđô, nhà Chu đến Thành vương 3 lần dời đô, há phải các vua thời Tam đại ấy theo ý riêng tự dờiđô xằng bậy đâu. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọnở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng (…) cứ chịu yên đóngđô nơi đây, đến nỗi thếđại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể dời đô. Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắcđông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắngđịa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượngđô kinh sư mãi muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợiấy màđịnh nơi ở, các khanh nghĩ thế nào”.
Trong việc dời đô này, ngoài cái vị thế mà vua Lý cho thấy qua Chiếu, còn có nguyên do của tình hình chính trị thờiđiểmđó. Vua Lê Hoàn có nhiều người con trai, sau cái chết của ngài, các con đã tranh ngôi, khiến đất nước khói lửa suốt 8 tháng, khi Lê Long Đĩnh lên ngôi thì cũng thân chinh đi dẹp loạnở khắp nơi, sau cái chết của Ngoạ Triều nước Việt thực khổ sở. Công Uẩn lúc này giữ binh lực, có thầy Vạn Hạnh ủng hộ, lại là con rể củavua Lê Hoàn nên nhận ngôi vị hoàng đế, thế nhưng thế lực họ Lê còn rất mạnh, không những thế những thế lựcở đất Hoa Lư như họ Nguyễn, họĐinh vẫn cònđương mạnh. Trong thếấy phương án tốt cho Công Uẩn là dờiđô vềĐại La, nơi mà họ Lý rất mạnh. Tuy nhiên họ Lý không phải là độc tôn ở vùng Đại La, phía bắc có họĐào họ Thân, phíađông có họ Đỗ và như chúng ta đã thấy vua Lý đã ứng biến mối quan hệ giữa các dòng họ thông qua hôn nhân như thế nào.
* Trong bài Bàn về thân thế của Lý Công Uẩn tôi có đưa ra bằng chứng cho thấy Lý Công Uẩn là người châu Cổ Pháp, còn thông tin Công Uẩn là người Mân chỉ là tin đồn. Chúng ta có thể xácđịnh rõ hơn thân thế của ngài Công Uẩn không ? Sách sử đều chép rằng: Mẹ ngài người họ Phạm. Sách Toàn thư thì chép rằng:
“Kỷ Mão[979] Điền, Bặcđã chết, quân Phạm Hạp mất hết khí thế, tan chạy về hương Cát Lợiở Bắc Giang. Hoàn dẫn quân đuổi theo, bắt sống được Hạpđem về Kinh sư”. Sách Việt sử lược thì không thấy chép về Phạm Hạp chống lại Lê Hoàn. Sách Cương mục chép: “Kỷ Mão[979] Nguyễn Bặc, Đinh Điễnđã chết rồi, quân của Phạm Hạp mất tinh thần, chạy lên Bắc Giang, Lê Hoànđưa quân đuổi theo, bắtđưa về kinh đô, giết chết (…) Phạm Hạp người Nam Sách (…) Canh Thìn[980] Dương hậu sai Lê Hoàn lựa tuyển dũng sĩ để kháng chiến, cho Phạm Cự Lạng Phạm làmĐại tướng quân (…) Cự Lạng em Phạm Hạp”.
Vậy là sách Toàn thư và sách Cương mục chép sai khác nhau ở tình tiết, Phạp Hạp bị giết. Có 2 câu hỏi quan trọngởđây ? Thứ nhất Phạm Cự Lạng được làmĐại tướng quân, cho thấyđó là người rất giỏi và rất có thể lựcở phía đông, Lạng là em của Hạp vậy thì vì sao khi thua Hạp không chạy về Nam Sách để nương nhờ em trai mà lại chạy về Bắc Giang. Thứ hai nếu Lạngđúng là em của Hạp thì vì sao Lạng lại đầu quân cho Lê Hoàn người giết anh trai của mình ?
Có lẽ sách Toàn thư chépđúng, Hoàn bắt được Hạp nhưng không giết, ngược lại, Hoàn muốn nhân đó mà thu phục em trai của Hạp là Cự Lạng. Phạm Hạp và Cự Lang cũng chưa hẳn là anh em ruột, mà có thể là anh em họ. Vùngảnh hưởng của họ Phạmở mạn phía đông và phíađông bắc, trong đó Cự Lạng làm chủ vùng phíađông, còn Phạm Hạp làm chủ vùng phíađông bắc [Tôi ngờ rằng: Phạm Hạp là con của Phạm Bạch Hổ] Câu hỏi thêm là bà Phạm thị mẹ của Lý Công Uẩn có mối quan hệ thân tộc với Phạm Hạp hay không ? Thời điểm của loạn sứ quân, họ Lý mà tiêu biểu là sứ quân Lý Khuê chiếm giữ vùng Siêu Loại ngay sát với Đằng Châu, căn cứ của sứ quân Phạm Bạch Hổ làđại diện sức mạnh của họ Phạm. Việc 2 dòng họ lớnở sát bên nhau hẳn sẽ hình thành những cuộc hôn nhân mang tính chất chính trị.
Sách Toàn thư chép:
“Thái Tổ Hoàng Đế. Họ Lý, tên huý là Công Uẩn. Người châu Cổ Pháp Bắc Giang, mẹ họ Phạm, đi chơi chùa Tiêu Sơn [Trường Liêu] cùng với người thần giao hợp rồi có chửa, sinh vua ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất, niên hiệu Thái Bình thứ 5 [974] thời Đinh (…) Vua sinh ra mới 3 tuổi, mẹẵm đến nhà Lý Khánh Văn. Khánh Văn bèn nhận làm con nuôi (…) Lúc còn nhỏđi học, nhà sưở chùa Lục Tổ là Vạn Hạnh thấykhen rằng: Đứa bé này không phải người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rồi, làm bậc minh chủ trong thiên hạ”.
Sách Việt sử lược chép:
Vua Thái Tổ tên huý là Uẩn, họ Nguyễn[Lý] người ở Cổ Pháp thuộc Bắc Giang. Mẹ là người họ Phạm, sinh ra ngài vào ngày 17 tháng 2 năm thứ 5 niên hiệu Thái Bình (…) Lúc nhỏ, vua thông minh, tính khi khôi hoạt rộng rãi. Tới họcở chùa Lục Tổ thiền sư Vạn Hạnh thấy cho là khác lạ”.
Sách Cương mục chép:
“Công Uẩn người làng Cổ Pháp, thuộc Bắc Giang, tư chất thông sáng, hình dạng tuấn tú khác đời. Khi còn nhỏ thường học nhà sư Vạn Hạnh (…) Mẹ ngài là Phạm thị, đi chùa Tiêu Sơn, gặp thần nhân giao cấu, do đấy có thai, sinh ngài năm Giáp Tuất, Thái Bình thứ 5 đờiĐinh. Khi ngài lên 3 tuổi, sư chùa Cổ Pháp là Lý Khánh Văn nuôi làm con, nhân đấy lấy theo họ Lý”. Sách Việt sử tiêu án chép: “Ngoại truyện lại nói: Mẹ vua năm 20 tuổi nghèo hèn không có chồng, nương tựa người lão Sa môn ở chùaỨng Thiên, làm việc thổi nấu, khi lửa tắt và bà đang lơ mơ ngủ, lão Sa môn ngẫu nhiên chạm phải, giật mình trở dậy rồi cho thai mà sinh ra vua”.
* Chúng ta thấy rằng sách sử chép sai khác vài điểm, sách Việt sử lược chỉ chép về mẹ của vua Lý người họ Phạm, không thấy nhắc đến Lý Khánh Văn, trong khi sách Toàn thư thì chép thêm về Khánh Văn. Câu hỏi là thông tin về Khánh Văn sách Toàn thư lấyởđâu ? Có phải từ Lê Văn Hưu hay từ những thông tin dã sử ? Sách Toàn thư chép rằng khi Công Uẩn được 3 tuổi, bà Phạm thị mang tới nhà của Lý Khánh Văn, trong khi sách Cương mục xácđịnh rõ hơn, Lý Khánh Văn là thiền sư chùa Cổ Pháp. Không rõ sách Cương mục dựa vàođâu để xácđịnh thông tin này. Trong khi sách Toàn thư chép rằng bà Phạm thị mang Công Uẩn tới nhà Lý Khánh Văn, thì nghĩa là Khánh Văn không phải là thiền sư và quan trọng hơn, vì sao bà lạiđem con mình tới gặp Lý Khánh Văn ?
Các sách Toàn thư và Cương mục đều xác nhận rằng vua Lý là con của bà Phạm thị với Thần nhân, nhưng đây chỉ là cách làmđẹp hìnhảnh vua Lý, trong khi sách Việt sử lược thì không chép việc bà Phạm thị có mối quan hệ với thần nhân, thêm nữa đến Ngô Thì Sĩ chép Việt sử tiêu án lại thu thập được thông tin từ dã sử viết rằng: Mẹ của Công Uẩn là người phụ nữ nghèo khó, thổi nấu cho nhà chùa, bị thầy Sa môn chạm vào mà có bầu.
Chúng ta thấy rằng thông tin về vua Lý Công Uẩn luôn luôn được gia thêm theo thời gian, sách Việt sử lược chép ngài là con bà Phạm thị, sách Toàn thư gia thêm bà Phạm thị có thai với thần nhân và xuất hiện nhân vật bố nuôi là Lý Khánh Văn, sách Việt sử tiêu án gia thêm bà Phạm thị có bầu do lão Sa môn trong chùa chạm phại, cho đến sách Cương mục thì Quốc sử quán triều Nguyễn đã phải chép rằng: Không thể khảo được cứ tạm chép lại. Sách Cương mục lúng túng trước rất nhiều thông tin sử và phải đặt câu hỏi: Không biết Lý Công Uẩn phong cho cha là Hiển Khánh Vương là cha nào ? Cha đẻ hay cha nuôi. Thế nhưng nếu chúng ta bám sát vào Việt sử lược thì sẽ nhận thấy ngay, trong tư duy của tác giả, Hiển Khánh Vương phải là cha đẻ của Lý Công Uẩn, vì tác giả không hề biết tới sự tồn tại của cha nuôi Lý Khánh Văn và tất nhiên Võ Oai Vương, Dực Thái Vương đều là người thân ruột thịt của vua Lý.
Mọi sự có lẽ chỉ đơn giản là cha đẻ của Lý Công Uẩn mất sớm, không mấy người biết tên tuổi, rồi lại thêm kỵ uý nên chẳng khi nào nhắc tới tên cúng cơm, thành ra các sử gia không biết tới mà chép lại.
Sách Toàn thư chép: “Phong cho con Vũ Uy Vương là Trưng Hiển làm thái uý”.
Tống sử chép: “Năm Thiên Thánh thứ 6 [1028] sai Hoan Châu thứ sử Lý Công Hiển vào cống”.
Nhân vật Công Hiển này rất có thể là Trưng Hiển, nếu vậy ngay như sử phương bắc cũng xác nhận nhân vật này mang họ Lý. Vậy thì họ hàng của Lý Công Uẩn gồm: anh vua làm Vũ Uy Vương [người mang sư Vạn Hạnh đi giấu] chú vua làm VũĐạo Vương, em vua làm Dực Thánh Vương đều mang họ Lý.
Ngay như bài văn trên bông gạo bị sét đánh trong 2 sách Việt sử lược và Toàn thưđã cho thấy sự khác nhau khá thú vị. Trong sách Toàn thư có chép nhiều hơn 2 câu là “Đông A nhậpđịa / Mộc dị tái sinh”. Sư Vạn Hạnh tựđoán rằng: “Đông A là chữ Trần, nhậpđịa là phương bắc vào cướp, Mộc dị tái sinh là họ Lê khác lại sinh ra”.
Rõ ràng người chép sử Toàn thư phải sống thời Hậu Lê. Trong khi sách Việt sử lược chỉ dừng lạiở “Thập bát tử là chữ Lý”. Nghĩa là người chép sử sống thời Lý hoặc nếu không thì người chép sử cũng chépđúng nguyên bản, mà tác giả của nguyên bản sống thời Lý.
Thế để thấy rằng Ngô Sĩ Liên đã thu thập các thông tin từ dã sử để chép vào sách Toàn thư, không chỉ có thế tôi ngờ rằng những thông tin từ dã sử mà Sĩ Liên thu thập, được sáng tạo, cũng cách không xa thời của Sĩ Liên sống là bao. Hoặc ít nhất là chúng ta cũngcó bằng chứng để ngờ rằng Sĩ Liên đã không chépđúng nhưĐại Việt sử ký của Lê Văn Hưu.
Tôi cho rằng: sử gia Lê Văn Hưu không có thông tin về cha đẻ của Lý Công Uẩn, việc này khiến cho người đời sau đã sáng tạo nêu câu chuyện bà Phạm thị có thai với Thần nhân và để giải thích cho việc Công Uẩn mang họ Lý thì dân gian tiếp tục sáng tạo ra nhân vật Lý Khánh Văn nhận nuôi Công Uẩn, để từđó Uẩn mang họ Lý. Nhưng việc Công Uẩn lên 7 tuổi tới học thầy Vạn Hạnh thì có thể tin được.
* Sách Toàn thư chép:
“Kỷ Dậu[979] Truy phong cha là Hiển Khánh Vương, mẹ là Minh Đức Thái Hậu. Lê Văn Hưu nói: Lý Thái Tổ ta đã xưng đế mà truy phong cha là Hiển Khánh Vương, bấy giờ lễ quan không biết cải chính, thế là tự ti vậy (…) Canh Tuất[1010] Lê Văn Hưu nói: Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trướcđã dựng 8 chùaở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quánở các lộ và độ cho lằm tăng hơn nghìn người ở Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chứng nào mà kể (…) Mậu Ngọ[1018] Mùa xuân tháng 2 truy phong bà nội làm hậu và đặt tên thuỵ. Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua đếnđây mới truy phong cho bà nội, đó là lỗi chậm trễ (…) Kỷ Mùi[1019] Mùa xuân tháng giêng dựng Thái Miếuở phủ Thiên Đức”.
Chúng ta thấy rằng: Lý Công Uẩn xưng đế mà chỉ truy phong cha làm vương, liền bị Lê Văn Hưu phê, vậy mà mãi tới năm 1018 vua mới truy phong cho bà nội mà không thấy Lê Văn Hưu phê, mà chỉ thấy Ngô Sĩ Liên phê. Vì sao chúng ta đoán được rằng Lê Văn Hưu không phê, ấy là vì nếu Lê Văn Hưu phê thì thường Ngô Sĩ Liên sẽ chép lại lời phêấy, chỉ khi nào Sĩ Liên cóý khác thì mới chép rõ cả 2 lời phê. Trong trường hợp của mục năm 1018, Lê Văn Hưu không phê ? Hay Lê Văn Hưu không biết ? Nghĩa là thông tin vua Lý truy phong cho bà nội là do sử gia Ngô Sĩ Liên thu thập và chép vào ?Lê Văn Hưu phê rằng vua Lý Thái Tổ lên ngôi được 2 năm mà tông miếu chưa dựng lạiđi dựng chùa khắp nơi, có lẽ Lê Văn Hưu không hình dung ra hoàn cảnh của vua Lý Công Uẩn thờiđiểmđó. Vua lên ngôi trong lo lắng, rồi ngay sau đó là dời đô về đất mới, các thế lựcở khắp nơi nổi lên, vua mà cứ khư khư lấy cho mình, không tung tiền ra để dựng chùa, nhằm xoa dịu các thế lực thì e là họ Lý không truyền được 8 đời.
Lê Văn Hưu phê không đúng vì không ở trong hoàn cảnh của ngài Công Uẩn, Ngô Sĩ Liên chỉ xem chiếu dời đô trong đối chiếu với nhà Thương, nhà Chu mà không thấy cái nguy của Công Uẩn nơi cốđô Hoa Lư, nhắc lại việc này để đặt câu hỏi cho chúng ta hiện tại: Chúng ta có thể nhìn về quá khứ với vị trí hiện tại không ?
Tất nhiên là có, nhưng rõ ràngđó không bao giờ là cái nhìn công bằng đối với tiền nhân, chúng ta phải đặt trong hoàn cảnh lịch sử của họ mới có thể bình. Chúng ta cứ tranh luận hoài về công tội của nhà Nguyễn mà không biết rằng lịch sử có nhiều hơn 2 khái niệm công và tội, thay vì chúng ta hỏi triều Nguyễn có công hay có tội, tốt hay xấu thì chúng ta cần đặt thêm câu hỏi rằng các chính sách của nhà Nguyễn có là hợp lý với hoàn cảnh hay không ?
Ngay như việc bàn công tội chúng ta đã không công bằng, chúng ta chỉ biết vua Nguyễn Ánh cõng rắn cắn gà nhà mà không biết vua Hàm Nghi chống Pháp phảiđi đày. Vậy nên sẽ công bằng hơn nếu chúng ta bàn thật rõ rằng vị vua ấy của triềuđạiấy trong quãng thời gian ấy rơi vào hoàn cảnhấy và cuối cùng hành động như vậy. Không nên chỉ vì vua NguyễnÁnh mà cho rằng cả nhà Nguyễn là cõng rắn cắn gà nhà, đó chẳng khác gì chuyện thầy bói xem voi. Và tất nhiên là bao gồm cả chiều ngược lại.
* Trở lại với họ Lê. Sau cái chết của Lê Hoàn, các vương hầu tranh ngôi, cuối cùng thì Lê Long Việt chiến thắng, lúc này Lý Công Uẩnđang theo giúp Lê Trung Tông. Sự kiện em trai cùng mẹ Lê Long Đĩnh sai người trèo tường lẻn vào cung lúc nửađêm để hành thích Trung Tông và sau đó là sự kiện các quan lại sự hãi bỏ chạy, chỉ có Công Uẩn ôm xác Trung Tông mà khóc, Lê Long Đĩnh cho là trung nên phong chức, đã hình thành dấu hỏi: Cái chết của Trung Tông có liên quan tới Lý Công Uẩn hay không ? Nhất là sau này dưới triềuđại Lê Ngoại Triều, Công Uẩn là 1 đại thần thân tín.
Sách Toàn thư chép:
“Vua [Trung Tông] không biết phòng giữ từ khi mới chớm, đến nỗi bị hoạ nạn, tính nhân hậu nhưng không biết làm vua, tiếc thay (…) Sau khi Đại Hành Hoàng Đế băng, vua cùng hai vương Đông Thành, Trung Quốc vàem cùng mẹ là Khai Minh vương tranh ngôi, giằng co 8 tháng, trong nước không có chủ (…) Cam Mộc nói: “Thân vệ[Công Uẩn] là người khoan thứ, nhân từ, lòng người chịu theo (…) Công Uẩn lên chínhđiện, lập làm thiên tử, lên ngôi hoàng đế (…) Đại xá cho thiên hạ (…) Đốt giềng lưới, bãi ngục tụng, xuống chiếu từ nay ai có việc tranh kiện cho đến triều tâu bầy, vua thân xét quyết (…) Vua [Công Uẩn] ứng mệnh trời, thuận lòng người, nhân thời mở vận, là người khoan thứ nhân từ, tinh tế hoà nhã, có lượng đế vương (…) Hạ lệnh cho các hương ấp, nơi nào có chùa quánđã đổ nát phải sửa chữa lại (…) Đại xá các thuế khoá cho thiên hạ trong 3 năm, những người mồ côi, goá chồng, già yếu, thiếu thuế lâu năm đều tha cho cả. Cắtáo quần, lương thực thuốc men cho 28 người lính man bị Ngoạ Triều bắt, sai người đưa về quê cũ (…) Sách phong Hoàng thái tử Phật Mã làm Khai Thiên Vương, làm cung Long Đứcở ngoài thành cho ở, ý muốn thái tử hiểu biết mọi việc của dân”.
Rõ ràng Lý Công Uẩn là con nhà phật nên việc các quan lại bỏ trốn hết, chỉ có Công Uẩn ôm xác vua mà khóc, rất khó là diễn trò, lòng trung là thật.
Sách Toàn thư chép:
“Ất Tỵ[1005] Mùađông vua [Ngoạ Triều] cướp ngôi, tôn hiệu là Khai Thiên Ứng Vận Thánh Vân Thần Vũ Tắc Thiên SùngĐạoĐại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng Đế[Sách Việt sử lược chép: Khai thiên ứng vận thánh thần võ tắc sùngđạođại thăng minh quang hiếu hoàng đế]Lập bốn hoàng hậu. Ngự Bắc vương cùng với Trung Quốc vương chiếm trại Phù Lan làm phản. Vua thân đi đánh. Đến Đằng Châu (…) Lê Hấp Ni làm phản. Vua sai bắt tra hỏi, Hấp Ni và những kẻ dự mưu 12 người đều bị giết (…) Chém Trung Quốc vương (…) rồiđem quân đánh Ngự Man vương ở Phong Châu (…) thấy trạm báo tin là giặc Cử Long vào cướpđã đến cửa biển Thần Đầu, vua về đến sông Tham đi sang Ái Châu đểđánh giặc Cử Long (…) Bính Ngọ[1006] Hành Quân vương Minh Đề thấy trong nước loạn không thể về được, trú lạiở Quảng Châu (…) Mùa hạ tháng 6, trí Quảng Châu là Lãng Sách dâng thư nói: “Nay nhân Giao Châu có loạn (…) xin lấy binh (…) thuỷ bộ cùng tiến, có thể bìnhđịnh được ngay”. Xuống chiếu cho bọn Sách vỗ yên như trước, cốt được yên lặng. Minh Đề về, Thiệu Việp muốn nhân đó lấy nước Việt ta, mới dâng bản đồ đường thuỷ, đường bộ từ Ung Châu đến Giao Châu. Vua Tống cho các cận thần xem và nói rằng: “Giao Châu nhiều lam chường dịch lệ, nếuđem quân sángđánh thì chết tất nhiều, nên cẩn thận giữ gìn cõi đất của tổ tông mà thôi”. Đinh Mùi[1007] Mùa xuân sai em là Minh Xưởng và Chưởng thư ký Hoàng Thành Nhã dâng tê ngưu trắng cho nhà Tống, xin kinh Đại Tạng (…) Mậu Thân [1008] Vua thân đi đánh 2 châu Đô Lương, Vị Long bắt được người Man (…) Kỷ Dậu[1009] Mùa xuân Minh Xưởngở Tống về , xin được kinh Đại Tạng và dụ được người con gái nước Tống là Tiêu thịđem dâng. Vua thu nạp làm cung nhân.Sai sứđem biếu nhà Tống con tê ngưu thuần. Vua Tống cho tê ngưu từ xa đến, không hợp thuỷ thổ muốn trả lại, nhưng sợ tráiý vua, sai đợi cho sứ nước ta về rồi thả ra biển. Vua lại sai xin áo giáo mũ trụ giát vàng, vua Tống bằng lòng cho (…) Mùa thu tháng 7 vua thân đi đánh các châu Hoan Đường, Thạch Hà(…) Mùađông tháng 10 vua băng ở tẩm điện”.
* Theo như Tống sử và Tục tư trị thông giám thì Minh Đề và Minh Xưởng là 2 người. Theo sách Toàn thư thì Lê Long Đĩnh là người hiếu chiến, sau khi lên ngôi Ngoạ Triềuđã thân đi đánh dẹp khắp nơi, có lẽ vì thế mà xuất hiện tiếng đồn Đĩnh là người tàn bạo.Phương bắc luôn muốn thu thập phương nam, tuy nhiên trong tình thế củaĐại Tống thì chính sách hợp lý với An Nam là vỗ yên như trước cốt đượcêm lặng.
Thế nhưng tài giỏi như Lê Hoàn, phía bắc chống Tống phía nam bình Chiêm, mà còn có phần kiêng nể bắc triều, trong khi Long Đĩnh có phần tự tin. Phần tự tin trước hết là xin cha cho làm thái tử, có lẽ trong những người con của Lê Hoàn, Ngoạ Triều là người hùng dũng giống Lê Hoàn nhất, nên được vua yêu quý, định cho làm thái tử. Long Đĩnh càng tự tin hơn khi thân đi đánh dẹp được các thế lực chống đối, có lẽ chính những tự tin quá mứcđã trở thành tự phụ này, Lê Ngoạ Triều đã xin triều Tống ban cho áo giáp mũ trụ giát vàng, vua Tống bằng long cho, tuy nhiên không khỏi gây ra sự khó chịu cho phương bắc.
Sử phương bắc thì chép rằng: Ngoạ Triều bạo ngược, lòng người không theo, Lý Công Uẩn nhân đó mà đuổi đi rồi giết chết, cái chết mờ ám của Long Đĩnh trong tẩm cung tất nhiên gây ra nhiều mối nghi ngờ, trong đó Công Uẩn là người bị hướng đến. Thế nhưng hiện không có bằng chứng nào cho mối nghi ngờ này. Công Uẩn bây giờ là thân tín của Ngoạ Triều, nếu Ngoạ Triều có mất thì Công Uẩn là người thiệt trước mắt. Sách Toàn thư chép: “Đến khi Ngoạ Triều băng, vua nối còn bé, Công Uẩn cùng với Hữuđiện tiền chỉ huy sứ là Nguyễn Đê mỗi người đượcđem 500 quân tuỳ long vào làm túc vệ”. Rõ ràng là Công Uẩn không nắm toàn bộ quân đội nhà Lê, vậy thì viết như sử phương bắc là Công Uẩn đuổi Ngoạ Triều đi rất khó xảy ra.
Thêm nữa, khi sư Vạn Hạnh hỏi rằng vì sao Thân vệ không nhân cái chết của tiên chủ mà giành ngôi, Công Uẩn đã sợ hãi mà giấu Vạn Hạnhđi, cùng như khi Cam Mộc có hỏi Công Uẩn sao không lên ngôi, vua Lý còn ngờ rằng Cam Mộc hỏi dò và sợ sự việc tiết lộ ra thì khó thoát chết. Như vậy rõ ràng là Lý Công Uẩn không phải là tộtđỉnh quyền lực dưới triều Lê, hoạ chăng là thân tín của vua Ngoạ Triều, là người có được nhân tâm và chỉ là tướng quân nắm giữ 1 phần quân đội nhà Lê mà thôi.
Với mức độ như vậy thì rất khó để Lý Công Uẩn lập kế hoạch giết hại vua Ngoạ Triệu, vì nếu Long Đĩnh chết, con củaĐĩnh nối ngôi, cácđại thần và các tướng lĩnh nắm giữ quân đội không theo Công Uẩn thì kế hoạch coi như bỏ dở. Trừ khi Công Uẩn và sư Vạn Hạnhđã bàn tính kỹ, cuộc mưu sát có sự tham gia của rất nhiều tướng lĩnh nắm giữ quân đội và các quan đại thần tham dự, thế nhưng những thông tin sử lại cho chúng ta điều ngược lại, đến lúc vua Ngoạ Triều băng mà chi hậuĐào Cam Mộc mới hỏi dò Công Uẩn vềýđịnh lên ngôi, cho thấy Cam Mộc tuyệt không biết gì kế hoạchám sát vua, thêm nữa khi Cam Mộc và Công Uẩnđã hiểu nhau thì lại chính là Cam Mộc đứng ra bàn với cácđại thần, vậy thì rõ là cácđại thần và khanh sĩ cũng không biết gì về kế hoạch mưu sát vua.
Tuy nhiên có 2 khó khăn mà chúng ta vẫn cần đề cập tới là: Trước hết chắc chắn mong muốn lên ngôi của Công Uẩnđã phát lộ ra thì Cam Mộc mới dò biết được, vậy thì sau khi Long Đĩnh chết, tin đồn Công Uẩn cóý lên ngôi đã xuất hiện và có lẽ nguồn tin này khởi phát từ thầy Vạn Hạnh, nói cách khácđây là bằng chứng cho thấy thầy VạnHạnhđã khởi động cuộc vận động chính trị nhằmđưa Công Uẩn lên ngôi. Sau cùng không loại trừtrường hợpnhững thông tin sử bị chép sai.
* Nếu như không có kế hoạch mưu sát Lê Long Đĩnh vậy thì Ngoạ Triều chết như thế nào ? Ngoạ Triều có thể là người khoẻ mạnh, 3 tháng trước Long Đĩnh còn thân đi đánh 2 châu Hoan Đường, Thạch Hà. Có khi nào vua ốm không ? Sách sử không hề chép đến ? Sách Toàn thư chép rằng: Vua say đắm tửu sắc lại chết trong phòng ngủ. Vậy có khi nào vua chết khi đang ân ái hay không ? Sử phương bắc và sử phương nam chép cũng có khác nhau ở chi tiết, sau cái chết của Long Đĩnh, theo sử phương nam, mọi sự đều yên tuy nhiên theo sử phương bắc thì em của Long Đĩnh là Minh Đề và Minh Xưởng tranh ngôi, Công Uẩn giết đi. Thế nhưng sử phương bắc chỉ nhắc tới 2 người em mà người phương bắc biết tới họ, qua những lầnđi sứ, không thấy nhắc tới người em nào khác, như vậy hoặc làđúng như sử phương bắc chép, chỉ có 2 người em tranh ngôi hoặc sử gia phương bắc không biết nhiều thông tin về An Nam.
Thêm nữa khi Lê Hoàn băng, các con trai tranh ngôi, phương bắc biết An Nam loạn bởi các con trai của Lê Hoàn nhưng lại biết thông qua Hoàng Khánh Tập, người bất mãn với chính quyền nhà Lê nên dẫn người dưới trướng bỏ trốn sang phương bắc, kể lại, vậy thì những thông tin của triềuđình phương bắc biết đượcvề An Nam cũng lõm bõm, chứ không tận mắt nhìn thấy, nghe thấy, nên không thể tin hết.
Thế nhưng khi Lê Hoàn băng, các con trai của Hoàn tranh ngôi, tới khi Trung Tông mất, anh em cũng tranh ngôi, vậy nên sau khi Ngoạ Triều băng, nếu chép như các sử gia phương nam rằng mọi chuyện vô sự, không có binh đao thì cũng rất khó tin, bởiở thờiđiểm Lê Hoàn mất, những hoàng tử tranh ngôi đềuđã trưởng thành, sau nhiều năm Ngoạ Triều mất, các hoàng tử khác cũngđã trưởng thành, rồi thêm cả 3 người con nuôi của Lê Long Đĩnh, rất khó để tin rằng họ không làm gì, chỉ đứng nhìn Lý Công Uẩn lên ngôi.
Tôi đặt giả thuyết về cái chết của Lê Long Đĩnh như sau: Triềuđình phương bắc thấy An Nam dưới quyền cai trị của Lê Ngoạ Triều trở thành mối nguy đối với nhà Tống nên cóý muốn loại bỏ. Nhân việc Ngoạ Triều xin áo giáp mũ trụ giát vàng sao không dùng độc ?
Rồi lại thêm mùa xuân năm 1007 Minh Xưởng và Hoàng Thành Nhã sang Tống xin kinh Đại Tạng, vua Tống lại ban đại yến cho Xưởng và Nhã, rồi ban cho Thành Nhã tước ngũ phẩm[Trướcđó năm năm 1003 dân ở thành Nhật Hiệu và đầu mục là bọ Hoàng Khánh Tậpđem gia thuộc hơn 450 người trốn sang Khâm Châu đất Tống. Tống sai sứ đến dỗ bảo phải về. Bọn Khánh Tập sợ tội không về, bèn ra ở bờ biển. Năm 1006 tháng 6 trí Quảng Châu là Lãng sách dâng thư nói: Bọn thần[Thiệu Việp] dựa theo lời của bọn Hoàng Khánh Tập hơn nghìn ngườiở Giao Châu, do Liêm Châu đưa đến, nói rằng các con của Nam Bình Vương đều đặt trại phân tán các nơi, quan thuộc lìa tan, nhân dân lo sợ, xin đem quân sang đánh dẹp, bọn Khánh Tập nguyện làm tiên phong. Thiệu Việp muốn nhân đó lấy nước Việt, dâng bản đồ đường thuỷ đường bộ từ Ung Châu đến Giao Châu] Mùa xuân năm 1009 Minh Xưởng về, dâng người con gái nước Tống làTiêu thị, vua thu nạp làm cung nhân. Mùađông tháng 10 vua băng ở tẩm cung. Không thấy sử sách chép thêm về nàng Tiêu thị. Hoàng Thành Nhã rất được trọng vọng và Thành Nhã có quan hệ với Hoàng Khánh T