18/06/2018, 16:25

Phiên quốc Panduranga – Champa hay Trấn Thuận Thành , phủ Bình Thuận (thế kỷ XVII – XIX)

Tháp Po Kloang Garai (PPhan Rang, Ninh Thuận) Đổng Thành Danh (*) Bài viết này có mục đích nghiên cứu và tìm hiểu về phiên quốc “Panduranga – Champa” hay trấn Thuận Thành (phủ Bình Thuận) trong giai đoạn thế kỷ XVII – XIX. Mà trọng tâm là sự thành lập của trấn Thuận ...

3208

Tháp Po Kloang Garai (PPhan Rang, Ninh Thuận)

Đổng Thành Danh (*)

Bài viết này có mục đích nghiên cứu và tìm hiểu về phiên quốc “Panduranga – Champa” hay trấn Thuận Thành (phủ Bình Thuận) trong giai đoạn thế kỷ XVII – XIX. Mà trọng tâm là sự thành lập của trấn Thuận Thành, sự tồn tại và chấm dứt của nó vào năm 1832. Nhầm minh định về sự tồn tại của một phiên quốc Panduranga sau năm 1692, được người Việt ghi nhận là trấn Thuận Thành, với một vương triều, một hệ thống luật pháp, thuế khóa riêng… lệ thuộc vào xứ Đàng Trong của các chúa Nguyễn. Thông qua đó phác họa mối quan hệ giữa các chúa Nguyễn và phiên quốc Panduranga, quá trình tụ cư và hội nhập của các nhóm cư dân Việt – Chăm trên vùng đất Bình Thuận…

  • Đặt vấn đề

            Năm 1692, là một niên đại quan trọng trong tiến trình mở cõi và lịch sử mối bang giao Đại Việt – Champa. Cuộc quấy rối của của vua Champa, Po Soat (sử Việt gọi là Bà Tranh hay Kế Bà Tranh) dẫn đến cuộc hành quân vào vùng đất Panduranga (ngày nay là hai tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận) – vùng đất cuối cùng của nước Champa – của Nguyễn Hữu Cảnh, thu lấy phần đất này để sát nhập vào xứ Đàng Trong dưới tên gọi trấn Thuận Thành mà đến năm 1697 là phủ Bình Thuận[1].

            Sau biến cố này, sử liệu của nhà Nguyễn còn nhắc đến xứ Panduranga – Champa dưới tên gọi trấn Thuận Thành thêm một thời gian nữa rồi sau đó hầu như ít nói đến. Chính những thiếu vắng về thông tin từ các sử liệu này đãdẫn đến sự ngộ nhận của một số nhà viết sử rằng năm 1692 là niên đại đánh dấusự sát nhập hoàn toàn của Panduranga – Champa vào lãnh thổ Đại Việt[2].

Nhưng trong thực tế, bằng việc trích dẫn các nguồn tài liệu như các văn bản chữ Chăm, bia ký và các tư liệu ghi chép của các thương thuyền, giáo sĩ phương Tây. Các nhà nghiên cứu như PoDharma, P-B. Lafont[3]… đã chứng minh sự tồn tại của Panduranga– Champa sau năm 1692 dưới danh xưng trấn Thuận Thành một đơn vị tự trị của người Chăm với hệ thống chính quyền, quân đội, luật pháp riêng nằm dưới quy chế bảo hộ của chúa Nguyễn trực thuộc phủ Bình Thuận được thiết lập năm 1697.

Cho đến hôm nay, phần lớn những nghiên cứu mới này vẫn chưa được phổ cập ở trong nước, do đó vẫn tạo ra những nhận thức thiếu sót, thậm chí sai lệch về lịch sử của Panduranga – Champa hay trấn Thuận Thành vàmối bang giao Đại Việt – Champa sau năm 1692.Dựa trên các tài liệu hiện có, bài viết này nhầm phác thảo lịch sử của phiên quốc Panduranga – Champa hay trấn Thuận Thành giai đoạn thế kỷ XVII – XIX, hầu bổ sung và sửa chửa cho những khiếm khuyết và ngộ nhận trước đó.

  1. Sự hình thành của phiên quốc Panduranga – Champa (trấn Thuận Thành)

            Tháng 8 năm 1692 (ÂL), nhân việc vua Champa cử binh sang quấy phá dinh Bình Khang (trước là xứ Kauthara, được chúa Nguyễn sát nhập năm 1653), chúa Nguyễn Phúc Chu cử Nguyễn Hữu Cảnh dẹp loạn và sau đó đem quân vào chinh phạt vùng đất cuối cùng của Champa là Panduranga. Tháng 2 và 3 năm 1693, Nguyễn Hữu Cảnh bắt được vua Champa là Po Soat (Kế Bà Tranh) và bầy tôi, chúa Nguyễn sát nhập vùng đất Panduranga – Champa vào xứ Đàng Trong dưới danh xưng Trấn Thuận Thành, sau đó đổi thành Phủ Bình Thuận (tháng 8 cùng năm)[4].

            Việc thành lập phủ Bình Thuận đã tạo nên sự phản ứng tức thì của cư dân bản địa chưa quen với sự cai trị của quan lại người Việt. Tháng 12 năm 1693, một cuộc phản kháng do một người gốc Hoa tên là A Ban kết hợp với Ốc Nha Thát (một cái tên gốc Khmer)nổ ra. Để thu hút người bản địa, A Ban đổi tên là Ngô Lãng vàthần thánh hóa cho mình, tuyên truyền rằng mình có phép thuật hô phong hoán vũ, vũ khí không thể làm hại được, đây là cách thức quen thuộc để gây sự chú ý cho phong trào phản kháng nhầm thu hút sự ủng hộ, được những người Hoa du nhập theo các tổ chức hội kín mà sau này rất phổ biến trong cuộc kháng Pháp ở vùng Nam Bộ.

            Sự tuyên truyền nàyđã có tác động tích cực, cư dân bản địa đã theo phe nổi dậy rất đông. Vì vậy, trong giai đoạn đầu lực lượng nổi dậy đã chiếm được Phố Hài (Pajai) đánh bại quan Cai đội Nguyễn Trí Thắng, dùng mưu ám hại, rồi tạo nội ứng để giết Cai đội Nguyễn Tân Lễ, chiếm Phan Rí (Parik). Như vậy, chỉ trong vòng một thời gian ngắn phe nổi dậy đã chiếm được hai phần ba phủ Bình Thuận, chỉ con vùng Phan Rang (Panrang). Không lâu sau, A Ban lại cho quân đến vây Phan Rang, Cai đội Chu Kiêm Thắng do quân ít nên giữ thành cố thủ, lại bắtPo Saktiraydapatih(Kế Bà Tử), em của Kế Bà Tranh, lúc bấy giờ giữ chức Khám lý, làm con tin uy hiếp A Ban và Ốc Nha Thát, quân nổi dậy bèn rút đi[5]. Chi tiết này cho ta thấy A Ban hay Ốc Nha Thát có thể là một bầy tôi hay mang ơn hoàng tộc Panduranga trước đây.

            Sang năm sau (1694), khi nghe tin Po Soat đã mất, A Ban lại tấn công Phan Rang, Cai đội Chu Kiêm Thắng báo về dinh Thái Khang, Nguyễn Hữu Oai sang chi viện, quân nổi dậy tạm lui. Tháng 2, Lưu thủ tên Nhuận (không rõ họ) lại đem quân đánh quân A Ban và truy sát đến Thượng Dã (có thể là biên giới với Khmer). Chúa Nguyễn lại giao cho Nguyễn Hữu Cảnh vào ổn định vùng đất mới bình định này[6].

            Những cuộc nổi dậy năm 1693 – 1694, khiến cho chúa Nguyễn phải nghĩ đến một cách thức khác thân thiện hơn để sát nhập Bình Thuận vào lãnh thổ xứ Đàng Trong một cách hòa bình để cho các tộc người bản địa không phản ứng quá quyết liệt, tạo điều kiện cho người Việt di dân vào đây một cách thuận lợi và sau cùng là để chúa Nguyễn sau đó dễ dàng sát nhập vùng Gia Định – Đồng Nai (lúc bấy giờ thuộc Khmer) ở phía Nam.

Vì những lẽ ấy, từ sự cố vấn của Nguyễn Hữu Cảnh và lời khẩn cầu của Po Saktiraydapatih, chúa Nguyễn quyết định khôi phục lại danh xưng trấn Thuận Thành(tháng 8, 1694) và phong cho Po Saktiraydapatih làm phiên vương, trả lại ấn, gươm, yên, ngựa và những người bị bắt trước đây, bắt hằng năm phải cống theo lệ của chúa Nguyễn đưa ra[7]. Chúa Nguyễn cử 30 lính ở kinh đô để hộ vệ cho Thuận Thành vương[8]. Đến đây, đế quyền của Panduranga – Champa trước kia được khôi phục,trong thân phận một phiên quốc chư hầu của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, mà các văn bản của Việt Nam chỉ còn nhắc đến với tên gọi trấn Thuận Thành.

Sau khi tình hình đã ổn định, người Việt vào định cư lập làng, xóm tại trấn Thuận Thành ngày một đông, bên cạnh đó, để tạo điều kiện cho việc xác lập chủ quyền ở vùng đất Đồng Nai – Gia Định, lúc bấy giờ dù có đông người Việt đến định cư nhưng vẫn còn thuộc chủ quyền Khmer, chúa Nguyễn đã tái lập phủ Bình Thuận vào tháng 8 năm 1697, gồm hai phủ An Phước và Hòa Đa. Trấn Thuận Thành lại lệ thuộc vào dinh Bình Thuận (tương đương phủ Bình Thuận), đặt làm 4 đạo (Phan Rang, Phan Thiết, Ma Li, Phố Hài) mỗi đạo đặt một chức quan văn và võ, đều lệ vào dinh, không đặt phủ, huyện[9].

Như vậy, đến sau năm 1697, dù phủ Bình Thuận đã được thiết lập với hai huyện An Phước và Hòa Đa nhưng trấn Thuận Thành vẫn được duy trì, trấn Thuận Thành đó là khu vực tự trị của người Chăm trực thuộc phủ Bình Thuận, tách biệt với hai huyện An Phước và Hòa Đa là khu vực tập trung của người Việt. Điều này tạo nên một cơ cấu hành chính đặc biệt, theo đó trấn Thuận Thành (chỉ khu định cư của người Chăm) không tập trung một nơi mà nằm rải rác, xen lẫn trong các khu định cư của người Việt. Lafont gọi mô hình đặc biệt này là “Capitulation”[10],trong khi Po Dharma sử dụng một thuật ngữ dể hình dung hơn là “Peau de léopard”[11] (lãnh thổ bị cắt xén như tấm da báo).

  1. Panduranga – Champa (trấn Thuận Thành) trong giai đoạn 1697 – 1771

Sau năm 1697, nếu như các sử liệu của nhà Nguyễn nhắc đến trấn Thuận Thành rất mờ nhạt, thì các văn bản bằng ngôn ngữ Chăm (của hoàng gia hay giới bình dân) và các ghi chép của thuyền buôn phương Tây cho chúng ta thấy rằng trấn Thuận Thành là một phiên quốc độc lập với một triều đình, một hệ thống hành chính, quân đội…và luật pháp riêng, nhưng lệ thuộc chúa Nguyễn. Trong khi các văn bản Việt sử dụng danh xưng trấn Thuận Thành thì các văn bản hoàng gia Chăm sử dụng tên gọi cũ là Panduranga để chỉ thiết chế hành chính đặc biệt này[12]. Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng danh xưng Panduranga – Champa để chỉ trấn Thuận Thành.

Theo các nguồn sử liệu, mối quan hệ “tôn chủ – bồi thần” giữa chúa Nguyễn và Panduranga – Champa(trấn Thuận Thành) trong thời kỳ Po Saktiraydapatih nhìn chung là thân thiện[13]. Bằng chứng làtrong các năm 1694 và 1709, phiên quốc này vẫn thường lệ dâng cống theo quy định cho chúa Nguyễn[14]. Năm 1714, trong thân phận phiên thuộc, Po Saktiraydapatih và gia thần đã đến dự một buổi lễ khánh thành chùa Thiên Mụ ở Phú Xuân[15]. 

Đáp lại, chúa Nguyễn đã thi hành một chính sách thân thiện trong sứ mệnh “tôn chủ” của mình với Panduranga– Champa (trấn Thuận Thành). Chúa Nguyễn, bên cạnh việc cử những bính lính để bảo vệ phiên vương của mình, còn duy trì ở đó các vị cố vấn người Việt được các thuyền buôn phương Tây mô tả là có vai trò quan trọng[16]. Khi được sự yêu cầu của Po Saktiraydapatih trong việc lập công đường chúa Nguyễn cũng giúp đỡ rất thân tình (1714)[17].

Bên cạnh đó, nhầm ngăn chặn và hạn chế tình trạng bất bình đẳng của người Chăm trong quá trình làm ăn, sinh hoạt với người Việt ởvùng đất này[18].Năm 1712, theo lời khẩn cầu của Po Saktiraydapatih, chúa Nguyễn Phúc Chu đã đưa ra quy định 5 điều trong ứng xử với Panduranga– Champa (trấn Thuận Thành)để tạo nên sự bình đẳng giữa hai dân tộc trong quá trình cộng cư ở phủ Bình Thuận[19]:

–  Viên nào có sự trạng gì đến cáo ở vương phủ, thì tiền đòi xét mỗi viên tả hữu trà phải nộp 20 quan, mỗi viên tả hữu phan dung phải nộp 10 quan. Đến cáo ở dinh Bình Khang thì mỗi viên tả hữu trà nộp 10 quan, mỗi viên tả hữu phan dung nộp 2 quan.

–  Phàm người kinh kiện nhau hoặc kiện với dân Thuận Thành thì do phiên vương và cai bạ ký lục xử đoán ; dân Thuận Thành kiện nhau thì một mình phiên vương xử đoán.

–  Hai trạm Kiền Kiền và Ô Cam sai quân canh giữ nghiêm mật để phòng kẻ gian, người sai đi không được bắt ép dân trạm đài đệ.

–  Khách buôn đến các sách Man để mua bán thì phải trình với người cai phái tấn sở của nguồn để cấp giấy thông hành.

–  Dân Thuận Thành xiêu tán đến dinh Phiên Trấn, đều đã thả về cho làm ăn, nên để lòng thương yêu, đừng nên bóc lột hà khắc, cho dân ở yên.

      Những quy định trên của chúa Nguyễn đã làm cho mối quan hệ cộng cư giữa hai dân tộc được điều hòa, tránh những mâu thuẫn, xung đột. Tạo điều kiện để người Việt định cư một cách thuận lợi và ngăn chặn tình trạng bị chèn ép của người dân bản xứ. Tuy vậy, sau cái chết của Po Saktiraydapatih (1727) một số phong trào phản kháng lẻ tẻ vẫn nổi lên, nhưng nhìn chung không đáng kể. Các phiên vương kế tục Po Saktiraydapatih vẫn thi hành chính sách thân thiện và thực hiện nghĩa vụ chư hầu của mình dưới sự bảo trợ của các chúa Nguyễn[20].

  1. Panduranga – Champa (trấn Thuận Thành) thời kỳ thoái trào (1771 – 1832)

Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn bùng nỗ năm 1771 là một biến cố quan trọng trong lịch sử và cũng tác động không kém đến lịch sử Panduranga – Champa (trấn Thuận Thành). Cuộc xung đột giữa chúa Nguyễn và quân Tây Sơn diễn ra căng thẳng tại Bình Thuận, kéo theo cuộc xung đột giữa các lực lượng cầm quyền của phiên quốc Panduranga – Champa (trấn Thuận Thành) do sự tranh giành ảnh hưởng của Nguyễn Ánh và Tây Sơn ở khu vực này[21].

Đến trước năm 1771, Panduranga – Champa (trấn Thuận Thành) do Po Tisuntiraydapaghoh đứng đầu, vị vua này là người thừa kế chính danh, một người thuộc dòng dõi của vua Po Rome và là triều vua thứ 34 theo biên niên sử hoàng gia[22]. Nhưng sau khi Po Tisuntiraydapaghoh mất vào năm 1780, Nguyễn Ánh (lúc bấy giờ đang ở Gia Định và kiểm soát Bình Thuận)lập Po Tisuntiraydapuran lên làm phiên vương của Panduranga – Champa (trấn Thuận Thành), đây có thể là Cai cơ (hay Chưởng Cơ) Tá mà Đại Nam Liệt Truyện[23] nhắc đến, vì rằng tài liệu này xác nhận rằng Tá là người kế tục Kế Bà Tử và vào năm Nhâm Dần (1782), khi quân Tây Sơn vào chiếm đất Bình Thuận, chính Cai cơ Tá đã quy thuận Tây Sơn.

Cũng trong giai đoạn này, biên niên sử hoàng gia Chăm còn ghi nhận về một vị vua tên là Po Cei Brei (1783 – 1786), con củaPo Tisuntiraydapaghoh,do Tây Sơn tấn phong nhưng sau đó lại bỏ theo Nguyễn Ánh, chống Tây Sơn[24]. Nhưng sau vị vua này lại không quy thuận Nguyễn Ánh, ông phản kháng và sau đó phải lưu vong sang Campuchia trong những năm 1795 – 1796[25].  Biên niên sử của nhà Nguyễn cũng ghi nhận về một viên quan dưới quyền của Nguyễn Ánh trong cuộc chiến chống lại Tây Sơn ở Bình Thuận là Nguyễn Văn Chiêu (con của một người tên Thắng là phiên vương Thuận Thành trước), nhưng sau đó bị tội và bi bãi chức[26]. Chính vì những tương đồng này, chúng tôi cho rằng Po Cei Brei rất có thể chính là Nguyễn Văn Chiêu.

Như vậy, cho đến trước năm 1793, Bình Thuận trở thành chiến trường giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn, theo đó Panduranga – Champa (trấn Thuận Thành) cũng diễn ra xung đột giữa Po Tisuntiraydapuran hay Chưởng cơ Tá (theo Tây Sơn) với Po Cei Brei (Nguyễn Văn Chiêu) theo Nguyễn Ánh. Năm 1793, Nguyễn Ánh hành quân chiếm lại Bình Thuận, bắt  Po Tisuntiraydapuran (Chưởng cơ Tá) và giết đi, còn Po Cei Brei (Chiêu) thì lưu vong đến Đồng Nai Thượng rồi sau này là Campuchia. Nguyễn Ánh lại phong cho Po Ladhunpaghuh(tức là Nguyễn Văn Hào trong biên niên sử Việt Nam – một người cũng quy thuận Nguyễn Ánh trong cuộc đối đầu với Tây Sơn) giữ chức Chưởng cơ Thuận Thành[27], tức là triều vua thứ 37 theo biên niên sử Chăm[28].

Sau đó không lâu, năm 1798,Po Ladhunpaghuh (Nguyễn Văn Hào) lâm bệnh từ chức và năm sau thì qua đời[29]. Nguyễn Ánh bổ nhiệm Phó vương Nguyễn Văn Chấn vào cương vị đứng đầu trấn Thuận Thành,tức là quốc vương Po Saong Nyung Ceng mà biên niên sử Chăm nhắc đến[30]. Giai đoạn lên cầm quyền của Po Saong Nyung Ceng (Nguyễn Văn Chấn) cũng là thời kỳ cuộc xung đột giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn bước vào hồi kết (1802).

Năm 1822, Po Saong Nyung Ceng (Chấn) qua đời, trước đó hai năm vua Gia Long cũng băng hà (1820). Chính từ đây, Panduranga – Champa (trấn Thuận Thành) bước vào một khúc quanh mới, khu vực này trở thành nơi tranh giành ảnh hưởng giữa vua Minh Mạng (người kế vị Gia Long) và Tổng trấn Gia Định Thành Lê Văn Duyệt[31]. Trong những năm 1822 – 1828, Po Klan Thu (Nguyễn Văn Vĩnh)  được Minh Mạng bổ nhiệm làm “Trấn thủ” Panduranga – Champa (trấn Thuận Thành), từ đây phiên quốc này chịu sự bảo hộ trực tiếp của vua Minh Mạng. Nhưng đến năm 1828, Po Klan Thu (Nguyễn Văn Vĩnh) qua đời, Lê Văn Duyệt trực tiếp can thiệp vào tình hình phiên quốc này và bổ nhiệm Po Phaok The (Nguyễn Văn Thừa) lên thay Po Klan Thu (Nguyễn Văn Vĩnh), từ đó Panduranga – Champa (trấn Thuận Thành)lại chịu sự bảo hộ của Lê Văn Duyệt[32].

Năm 1832, Lê Văn Duyệt qua đời, vua Minh Mạng cho quân chiếm và kiểm soát Panduranga – Champa (trấn Thuận Thành), trừng phạt những người theo Lê Văn Duyệt và quyết định xóa bỏ hoàn toàn tước vị hoàng gia, hủy bỏ trấn Thuận Thành và sát nhập hoàn toàn vào tỉnh Bình Thuận, trong thời kỳ cải cách hành chính (1832 – 1833)[33]. Đến đây, Panduranga – Champa, sau thời gian dài tồn tại dưới quy chế bảo hộ của chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn, chính thức chấm dứt sự tồn tại của mình.

  • Kết luận

Thiết nghĩ, nghiên cứu và tìm hiểu về lịch sử Panduranga – Champa (trấn Thuận Thành) trong giai đoạn 1697 – 1832 là một vấn đề cần thiết. Hầu từ đó, có thể “vén mở” một giai đoạn, một hiện tượng lịch sử ít được biết đến ở nước ta, trên chính vùng đất Ninh – Bình Thuận ngày nay.Vùng đất này là địa bàn cộng cư của các tộc người Kinh, Chăm, Raglai và là nơi hội tụ giữa hai sắc thái văn hóa Đại Việt – Champa. Chính việc nhận thức rõ lịch sử vùng đất này giúp chúng ta thấy rằng, vương quốc Champa, trong quá trình hòa nhập với Việt Nam, không bị diệt vong năm 1692.

Sau một loạt các sự kiện diễn ra trong giai đoạn 1692 – 1697, vương quốc Panduranga – Champa vẫn tồn tại như một phiên quốc lệ thuộc vào chúa Nguyễn và trực thuộc phủ Bình Thuận ở Đàng Trong, được các văn bản hành chính của Đàng Trong gọi dưới danh xưng trấn Thuận Thành. Trấn Thuận Thành thành lập năm 1697 là một đơn vị tập hợp các khu định cư rãi rác của người Chăm ở Bình Thuận, hoàn toàn tách biệt với các khu định cư của người Việt..

Phiên quốc Panduranga – Champa (trấn Thuận Thành) sau năm 1697 có một tổ chức triều đình riêng, một quân đội, hệ thống luật pháp  riêng… nằm dưới sự bảo hộ của các chúa Nguyễn. Điều này đã được nhiều tài liệu, văn bản của người Chăm, của các thuyền buôn phương Tây chỉ ra. Nếu như chỉ dựa vào các sử liệu của nhà Nguyễn, chúng ta khó mà có thể hình dung rõ rệt về một phiên quốc từng tồn tại ở trong lòng phủ Bình Thuận trong giai đoạn này.

Từ hậu bán thế kỷ XVIII và 30 năm đầu thế kỷ XIX, Panduranga – Champa (trấn Thuận Thành) bước vào một khúc quanh mới. Phiên quốc này bị kéo vào vòng xoáy của các cuộc xung đột chính trị và quân sự của người Việt Nam. Từ cuộc xung đột Nguyễn – Tây Sơn đến cuộc mâu thuẫn quyền lực giữa Minh Mạng (một vị vua có quyết tâm tập trung quyền lực về tay mình) và Tổng trấn Gia Định Thành Lê Văn Duyệt (người muốn biến Gia Định thành một vùng đất tự trị). Theo đó, trong nội bộ triều đình Panduranga – Champa (Thuận Thành) những mâu thuẫn, xung đột giữa phe theo Nguyễn Ánh, theo Tây Sơn hay theo Minh Mạng, theo Lê Văn Duyệt cũng bùng nổ làm cho vương quốc này càng phân liệt và dần đi vào suy thoái.

Năm 1832, Panduaranga – Champa (trấn Thuận Thành) lúc đó do Po Phoak The (Nguyễn Văn Thừa) lãnh đạo, ông là một người chấp nhận quy thuận Lê Văn Duyệt mà đối đầu với triều đình. Chính vì lẽ ấy, sau khi Lê Văn Duyệt qua đời (cũng năm), Minh Mạng đã quyết định đem quân tấn công Panduranga – Champa (trấn Thuận Thành) và xóa bỏ quy chế tự trị của phiên quốc này, sát nhập nó vào tỉnh Bình Thuận. Năm 1832, chính là năm chính thức đánh dấu cho sự cáo chung của vương quốc Champa trong lịnh sử.

Sự diệt vong của vương quốc Panduranga – Champa là một ngẫu nhiên của lịch sử. Vì rằng, sau năm 1697, khi hoàn thành việc tích hợp sát nhập vùng đất cuối cũng của Champa là tiểu quốc Panduranga vào lãnh thổ Đại Việt, các chúa Nguyễn vẫn ban cho người bản địa một quy chế tự trị đặc biệt và vẫn luôn thi hành các chính sách nhầm bảo đảm quyền lợi của người Chăm trong quá trình cộng cư với người Việt. Sau năm 1802, vua Gia Long còn ban cho Panduranga – Champa nhiều quyền lợi hơn các thời trước. Nhưng vào năm 1832, vua Minh Mạng quyết định xó bỏ phiên quốc này vì là đồng minh của Lê Văn Duyệt, một người được xem như phản nghịch. Như vậy, việc xóa sổ vương quốc này, chỉ nhầm trong dụng ý cá nhân của vua Minh Mạng chứ hoàn toàn không phải là tư tưởng cố hữu của người Việt Nam và càng không phải là kết quả tất yếu của quá trình mở cõi về phương Nam.

Không nhận thức rõ vấn đề này, chúng ta sẽ càng làm cho lịch sử bị “che lấp”, tạo nên những ngộ nhận rằng người Việt đã cố ý xâm chiếm và xóa sổ Champa, để lại những hiểu lầm trong nhận thức của hai tộc người. Lịch sử Panduranga – Champa chỉ khi nào được nhận thức một cách đầy đủ thì chúng ta mới thấy rằng, bên cạnh cuộc chiến tranh Việt – Chăm, cón có quá trình cộng cư sinh tồn của hai tộc người ấy, chính trong quá trình ấy, nền văn hóa của hai dân tộc đã giao thoa và phát triển làm nên một vùng đất có nền văn hóa phong phú và đa dạng. 

[*]Người nghiên cứu tự do.

Chú thích:

[1]Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2002),Đại Nam Thực Lục, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội,tr. 106 – 107.

[2]Về quan điểm này có thể xem: Trần Trọng Kim (2008), Việt Nam sử lược, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr. 355; Lê Thành Khôi (1955), Le Vietnam: Histoire et Civilisation, Edit de Minuit, Paris,  pp.265 ;  Lương Ninh (2004), lịch sử vương quốc Champa, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội,tr. 220.

[3]Xem Po Dharma (1987), Le Panduranga(Campa) 1802-1835,2 tomes, EFEO, Paris; P-B. Lafont (1991), “Les grandes dates de l’histoire du Campa”. Le Campa et leMonde malais, CHCPI, Paris, pp. 7-23.Xem thêm Phan Khoang (1969), Việt sử: xứ Đàng Trong, Khai Trí, Saigon.

[4]Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam Thực Lục, sđd, tr. 106 – 107.

[5] Như trên, tr. 107 – 108.

[6] Như trên, tr. 108.

[7] Như trên, tr. 109.

[8] Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam Liệt Truyện, tập 2: chính biên – sơ tập, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 691.

[9] Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 3, Nxb. Thuận Hóa, Huế,tr. 144.

[10] P-B. Lafont (1991),  Sđd, pp. 19 – 20. « Capitulation » theo chú thích của Lafont là thuật ngữ dung để chỉ hệ thống hành chính nằm rải rác của người thiên chúa giáo trong cộng đồng Hồi giáo, những tiểu quốc độc lập trong lãnh thổ Thái Lan hay của những vùng định cư của dân nước ngoài ở một nước mà chỉ chịu ảnh hưởng pháp lý của lãnh sự quán nước ngoài, chứ không phải chính quyền nước ấy.

[11]Po Dharma (1989), “Les Frontieres du Campa (derbier etat des recherches) », Les Frontieres du Vietnam, L’Hamattan, Paris, pp. 134.

[12]Về các văn bản này xem: Po Dharma (1978), Chroniques du Panduranga, Thèse de l’EPHE, IV°section, Paris; Complément au catalogue des manuscrits cam desbibliothèques françaises, l’EFEO, Paris, 1981. Nhiều tác giả (1984), Inventaire desarchives du Panduranga du fonds de la SociétéAsiatique de Paris (pièces en caractères chinois), CHCPI, Paris; Thành Phần (2007), Danh mục thư tịch Chăm ở Việt Nam, Nxb.Trẻ, Tp.HCM.

[13]Danny Wong Tze Ken (2007), The Nguyen and Champa during 17 and 18 century, IOC – Champa, San Jose, p.136.

[14]Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam Thực Lục, sđd, tr.109, tr. 124.; Xem thêm Lê Qúy Đôn (2007),Toàn tập, tập 2 Phủ Biên Tạp Lục, phần 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 151. Về lễ vật dâng cống xem gồm: voi đực 2 thớt, bò vàng 20 con, ngà voi 6 cái, sừng tê 10 tòa, khăn vải trắng 500 bức, sáp ong 50 cân, da cá 200 tấm(2), cát sủi(3) 400 thúng, chiếu tre trắng 500 lá, gỗ mun 200 cây, thuyền dài 1 chiếc.

[15]Như trên, tr. 130.

[16]Dohamide – Dorohiem (1965), Dân tộc Chàm lược sử, Saigon, tr.106.

[17]Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực Lục ,…, tr.131.

[18]Po Dharma (1987), Le Panduranga(Campa) 1802-1835,vol1, EFEO, Paris, p. 71.

[19]Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam Thực Lục, sđd, tr.128.

[20]Các phiên vương Panduranga – Champa sau Po Saktiraydapatih là: Po Ginuhputih (1728 – 1731); Po Thuttiraidaputih (1731 – 1732); Po Rattiraydaputao (1732 – 1763) ; Po Tisundimahrai (1763 – 1765); và Po Tisuntiraydapaghoh (1765 – 1780)… Xem Po Dharma, Chroniques du Panduranga, Thèse de l’EPHE, IV°section, Paris, 1978.

[21]Về cuộc nội chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh xem thêm: Tạ Chí Đại Trường (2012), Lịch sử nội chiến ở Việt Nam (1771 – 1808), Nxb. Tri thức, Hà Nội.

[22]Po Dharma (1978), sđd, pp. 62.

[23] Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2006),sđd, tr. 692.

[24] Nicolas Weber (2004), “Cuộc khởi nghĩa Tuen Phaow vào năm 1796 – 1797, trong Champaka 4, IOC, San Jose,tr. 88 – 89.

[25] Mak Phoeun (2004), “Po Cei Brei sang Kampuchia cầu cứu viện trợ vào năm 1795 – 1796”, trong Champaka 4, IOC, San Jose, tr.80 – 81.

[26]Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực Lục , sđd, tr.264.

[27] Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2006), sđd, tr. 692.

[28] Po Dharma (1978), sđd, pp. 148.

[29] Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2002), sđd, tr.366, 398.

[30] Po Dharma (1978), sđd, pp. 157.

[31] Về mâu thuẫn giữa Minh Mạng và Lê Văn Duyệt xem thêm: Choi Byung Wook (2011), Vùng đất Nam Bộ dưới triều Minh Mạng, Nxb. Thế Giới, Hà Nội.

[32] Po Dharma (1987), sđd, pp. 110 – 111.

[33] Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam Thực Lục, tập 3, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 303 – 305; Xem thêm Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2010),Minh Mạng Chính Yếu, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 1699 – 1700.

0