29/01/2018, 21:25

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Văn mẫu lớp 7

Nội dung bài viết1 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài số 1 2 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài số 2 3 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài số 3 4 ...

Nội dung bài viết1 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài số 1 2 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài số 2 3 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài số 3 4 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài số 4 5 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài số 5 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài số 1 Trần Nhân Tông (1258 – 1308) tên thật là Trần Khâm, con đầu của vua Trần Thánh Tông. Sau khi lên ngôi, ông tỏ ra là một vị vua nổi tiếng khoan hòa, nhân ái và yêu nước. Ông đã cùng vua cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông thắng lợi vẻ vang (1285, 1288). Vốn theo đạo Phật và là người sáng lập dòng thiền Trúc Lâm theo hướng Việt Nam hóa đạo Phật, cuối đời, vào năm 1298, ông đi tu và trụ trì ở chùa Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay). Vua Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của đời Trần. Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được ông sáng tác trong một dịp về thăm quê. Các vua đời Trần cho xây ở quê một hành cung gọi là cung Thiên Trường để thỉnh thoảng về nghỉ ngơi. Mỗi dịp về đó, các vua thường có thơ lưu lại, nay còn giữ được vài bài, trong đó có bài này. Ngày tháng sáng tác không thấy ghi cụ thể nhưng chắc chắn bài thơ ra đời sau chiến thắng quân Nguyên – Mông lần thứ ba không lâu, vào giai đoạn cuộc sống yên lành của nhân dân đang được khôi phục lại (nghĩa là vào khoảng những năm 90 của thế kỉ XIII). Phiên âm chữ Hán: Thiên Trường vãn vọng Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên, Bán vô bán hữu tịch dương biên. Mục đồng địch lí ngưu quy tận, Bạch lộ song song phi hạ điền. Dịch nghĩa: Buổi chiều ở phủ Thiên Trường trông ra Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ, Cảnh vật bóng chiều chập chờn nửa như có nửa như không. Mục đồng lùa trâu về nhà tiếng sáo véo von Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng. Dịch thơ: Trước xóm sau thôn tựa khói lồng Bóng chiều man mác có dường không Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng. (Ngô Tất Tố dịch) Bài thơ tả cảnh buổi chiều ở phủ Thiên Trường. Đây là khung cảnh một vùng quê tĩnh lặng như muôn vàn cảnh quê khác lúc chiều buông. Chỉ đếm được vài đường nét: mấy mái nhà tranh thấp thoáng trong làn sương mờ mờ như khói; dăm trẻ mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu thổi sáo, dẫn trâu về chuồng; vài đôi cò trắng chao nghiêng cánh chấp chới liệng xuống đồng… Hai câu thơ đầu: Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên, Bán vô bán hữu tịch dương biên. (Trước xóm, sau thôn tựa khói lồng, Bóng chiều man mác có dường không). Đây là cảnh hoàng hôn, sự vật trước xóm, sau thôn chìm dần vào màn sương đang từ từ buông xuống, hòa lẫn với những làn khói tỏa ra từ mái bếp. Trong bóng chiều man mác, mọi vật thấp thoáng ẩn hiện, dường như có, dường như không. Bức tranh quê với những sắc màu quen thuộc của ánh tà dương vàng còn rớt lại trên ngọn tre, của sương tím, cò trắng, lúa xanh… chỗ đậm, chỗ nhạt cùng tiếng sáo véo von gợi cảm giác về một cuộc sống thanh bình đã trở lại sau bao năm binh lửa. Hình ảnh trong bài thơ không có gì đặc biệt, rất giản dị, bình thường nhưng lại gây xúc động lạ lùng. Tại sao như vậy? Bởi dân ta đã phải đổ xương máu, phải chịu bao đau thương, tang tóc mới giành lại được cuộc sống yên ấm từ tay lũ giặc dữ xâm lược. Hai câu thơ cuối: Mục đồng địch lí ngưu quy tận, Bạch lộ song song phi hạ điền. (Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng). Nhà thơ đã lựa chọn được hai hình ảnh tiêu biểu cho cảnh đồng quê lúc chiều về : trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trầu về chuồng và cò trắng từng đôi sà xuống cánh đồng đã vắng bóng người. Lời thơ không đơn thuần là kể và tả mà nó còn biểu hiện một xúc cảm kì lạ và một niềm vui đang xốn xang, rạo rực trong lòng nhà thơ. Ngắm đàn trâu no căng đang chậm rãi nối đuôi nhau về làng, trên lưng vắt vẻo mấy chú mục đồng ung dung thổi sáo; phóng tầm mắt ra xa (vọng), thấy trên thảm lúa xanh, dăm ba cánh cò trắng muốt đang chao liệng, thử hỏi lòng nào không xao xuyến, bâng khuâng, không dạt dào yêu mến? Cảnh tượng buổi chiều ở nông thôn được tác giả phác họa rất đơn sơ nhưng vẫn đậm đà sắc quê, hồn quê. Điều đó chứng tỏ tác giả là vị vua xuất thân từ nông dân, đã cùng lăn lộn, cùng vào sinh ra tử với dân để đánh đuổi ngoại xâm, giành lại cho đất nước cảnh sống thanh bình. Dù có địa vị tối cao nhưng tâm hồn nhà vua – thi sĩ vẫn gắn bó máu thịt với quê hương và dân chúng. Bài thơ tuy ngắn nhưng nó xứng đáng là thơ của mọi thời bởi cho dù mấy trăm năm đã trôi qua mà sức mạnh rung cảm và chinh phục lòng người của nó vẫn nguyên vẹn như thuở ban đầu. Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài số 2 Nhắc tới Trần Nhân Tông, người ta nghĩ ngay tới người anh hùng cứu nước, vị vua tài trí lỗi lạc đã cùng quân dân nhà Trần đánh bại quân xâm lược Mông Cổ, làm nên một thời đại anh hùng trong lịch sử dân tộc – thời đại Đông A. Nhắc đến Trần Nhân Tông, người ta cũng nghĩ ngay tới vị tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, nhà hiền triết của Đạo Phật. Trần Nhân Tông không chỉ là người – anh hùng cứu nước, vị vua sáng, nhà hiền triết, Trần Nhân Tông còn là một thi sĩ có tâm hồn thanh cao, phóng thoáng và một cái nhìn tinh tế, tao nhã. Trần Nhân Tông đã từng nổi tiếng với những câu thơ rất đỗi hào hùng: Xã tắc hai phen chồn ngựa đá Non sông nghìn thuở vững âu vàng. (Tức sự) Và nhà vua còn làm người đời ngạc nhiên hơn bởi một hồn thơ mang nặng tình quê thắm thiết. Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra (Thiên trường vãn vọng) là một hồn thơ như thế. Từ Thăng Long về thăm quê cũ Thiên Trường (Nam Định ngày nay), từ trên cung điện ở phủ Thiên Trường, nhà vua phóng tầm mắt ra xa. Một cảnh tượng mở ra trước mắt ông xiết bao trìu mến: Trước xóm sau thôn tựa khói lồng Bóng chiều man mác có dường không Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng. (Bản dịch của Ngô Tất Tố) Cảnh buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh của một vùng quê trầm lặng, yên bình (Cái yên bình của một cuộc sống thái bình). Trời đã về lúc chiều tối, thôn xóm chìm dần vào làn khói sương lãng đãng, mờ ảo. Có lẽ, đó là vào dịp thu đông. Có bóng chiều, sắc chiều đấy nhưng chỉ man mác, chập chờn, nửa như có, nửa như không. Cái thời điểm giao thời giữa ngày và đêm ở chốn thôn quê gợi lên bao cảm xúc trong lòng người. Nó bâng khuâng, xao xuyến thật khó tả: Trước xóm sau thôn tựa khói lồng Bóng chiều man mác có dường không. Và vì thế, cuộc sống càng trở nên thân thương. Chỉ một hình ảnh rất bình thường: những đứa trẻ đang dắt trâu về làng, vừa đi, vừa thổi sáo, cũng khiến nhà vua chú ý và đưa vào trong thơ: Mục đồng sáo vẳng trâu về hết. Phải chăng tiếng sáo của bọn trẻ đã đưa nhà vua trở lại cái thời thơ ấu ngây thơ, thoả sức vui đùa? Hay tiếng sáo hồn nhiên, trong trẻo quá khiến lòng ông thư thái lại sau bao nhiêu lo toan trăn trở việc triều chính? Trong lòng vị hoàng đế mang một niềm vui tràn ngập, nó cũng bình dị và trong trẻo như chính cuộc sống nơi đây. Tâm trạng ấy khiến ông thấy cảnh vật càng nên thơ: Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng. Trên nền xanh của đồng nội, trong cái mờ ảo của khói sương, điểm xuyết vài cánh cò trắng đang là là hạ xuống. Chao ôi, cánh đồng quê sao mà đẹp thế! Hai câu thơ cuối với bút pháp miêu tả bằng những nét chấm phá, đã vẽ ra trước mắt người đọc cả một vùng quê yên bình và thơ mộng. Con người và cuộc sống ở đây bình dị quá, hồn hậu quá! Bức tranh cảnh vật với những nét chấm phá tài hoa của thi nhân trở nên thật có hồn: có âm thanh ngọt ngào, sâu lắng; có sắc màu tao nhã, sáng trong, có hoạt động nhẹ nhàng êm ả… Một bức tranh thôn dã được cảm nhận bằng một tâm hồn thi nhân tinh tế và nhạy cảm; hơn nữa, bằng tâm hồn của một con người thiết tha yêu làng quê, yêu cuộc sống. Ít ai có thể nghĩ được rằng, một vị vua ở tận nơi lầu son gác tía, lại gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã như vậy. Vì thế, càng đọc kĩ bài thơ, ta càng hiểu được cái tình quê, tình người lai láng đậm đà trong tâm hồn một bậc vĩ nhân, càng thêm quý trọng và mến phục ông. Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra, thật xứng đáng là một áng thơ hay, tiêu biểu cho bản sắc và tâm hồn Việt Nam. Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài số 3 Trần Nhân Tông là một vị vua yêu nước, anh hùng của dân tộc Việt nam, ông có vai trò vô cùng to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông và khôi phục nền kinh tế nước nhà. Không chỉ là một vị vua tài ba mà Trần Nhân Tông còn là một vị vua có tinh thần thân dân nhất, có khả năng sáng tác thơ văn, nhiều tác phẩm thơ văn của ông giàu giá trị nội dung và được các nhà nghiên cứu đánh giá rất cao. Một trong số đó ta có thể kể đến tác phẩm thơ “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” hay còn có tên là Thiên trường vãn vọng. “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” là một bài thơ mang đậm cảm hứng Phật giáo, bằng những ngôn ngữ, hình ảnh vô cùng bình dị, mộc mạc song Trần Nhân Tông đã vẽ ra được một bức tranh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, đồng thời qua đó cũng bộc lộ được tình cảm chân thành, da diết của nhà thơ dành cho quê hương, đất nước của mình. Là một vị vua nhưng Trần Nhân Tông luôn có sự thân dân, gắn bó với cuộc sống của người dân, vì vậy mà trong các tác phẩm thơ văn của ông thường xuất hiện những cảnh sắc tuyệt mĩ song rất đỗi giản dị, thân quen của không gian làng quê: “Thôn tiền, thôn hậu đạm tự yên Bán vô bán hữu tịch dương biên” Dịch: “Trước thôn, sau thôn, khí trời mờ nhạt như sương khói Bóng chiều tà nửa không nửa có” Thiên Trường là quê hương của nhà Trần, nay thuộc tỉnh Nam Định. Vì vậy bài thơ “Đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” là bài thơ mà Trần Nhân Tông viết về chính quê hương xứ sở của mình. Cảnh vật mà nhà thơ Trần Nhân Tông mở ra trước mắt người đọc, đó là khung cảnh làng quê lúc chiều tà. Trong không gian của thôn xóm, cảnh vật trở nên vô cùng thi vị, mơ mộng bởi được bao phủ lên mình lớp sương nhờ nhạt. Ta có thể thấy, điểm nhìn của nhà thơ là một không gian ở trên cao, vì chỉ có như vậy thì nhà thơ mới có thể quan sát trọn vẹn được khung cảnh “trước thôn”, “sau thôn”. Trong cái nhìn của nhà thơ, không gian bình dị của làng quê được bao phủ bởi những cảnh vật mờ mờ, ảo ảo, như sương khói. Vì sự cảm nhận độc đáo của nhà thơ mà khung cảnh vốn rất đỗi bình dị và gần gũi với con người bỗng chốc trở lại mới lạ, thơ mộng và gợi cho người đọc một liên tưởng, cái thôn quê ấy như đi lạc vào trong cõi thần tiên. Không gian thôn xóm được trải ra mênh mông, bởi giới hạn không có sự xác định, ngoài điểm nhìn rõ nét nhất là vị trí của thôn làng, còn xung quanh bao bọc nó là những cảnh vật mờ ảo, không xác định. Thời gian mà nhà thơ Trần Nhân Tông nói đến trong bài thơ, đó là thời điểm chiều tà, là ranh giới giữa đêm và ngày, trong thời điểm đó, thông thường cái sắc hồng cam của những đám mây khi hoàng hôn sẽ bao phủ lấy không gian, nhưng ở đây nhà thơ lại một lần nữa mang đến cho người đọc một cảm nhận thật độc đáo. Bởi dưới bóng chiều tà, cảnh vật cũng trở nên nửa có, nửa không “Bóng chiều tà nửa không nửa có”, tức cảnh vật hiển hiện trước mặt nửa như thực lại nửa như vô. Trong hai câu thơ đầu tiên, nhà thơ Trần Nhân Tông đưa người đọc vào một thế giới vốn quen thuộc nhưng lại huyễn hoặc các giác quan của người đọc bằng những từ ngữ gợi ra sự mơ hồ, không xác định giữa thực- mơ, hư – vô. Ở những câu thơ tiếp theo, nhà thơ Trần Nhân Tông vẫn điểm xuyết cho bức họa làng quê của mình bằng những nét bút miêu tả khung cảnh, tuy nhiên, sự mơ hồ đã giảm bớt và mang lại cho người đọc cảm giác thực hơn, đó là những nhịp sống của những người dân, của những con vật gắn liền với không gian dân giã: “Mục đồng địch lí ngưu quy tận Bạch lộ song song phi hạ điền” Dịch: (Trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về hết Từng hàng cò trắng bay xuống ruộng) Bức tranh thiên nhiên của Trần Nhân Tông không chỉ được làm nổi bật bởi màu sắc mà còn được phác họa, mô phỏng bởi cả âm thanh, bởi trong không gian văng vẳng của tiếng sáo, những đứa trẻ chăn trâu đã lùa hết trâu về nhà. Ta có thể hiểu tiếng sáo ở đây là âm thanh phát ra của những chiếc sáo, do những đứa trẻ mục đồng thổi. Và trong không gian của chiều tà, cũng là lúc công việc của những đứa trẻ này kết thúc, chúng hò nhau dắt trâu về nhà. Trong không gian đầy rộn ràng của tiếng sáo, từng đôi cò trắng cùng nhau bay xuống ruộng. Thời điểm chiều tà không chỉ là lúc con người tạm ngừng lại mọi hoạt động mà các loài vật cũng vậy, chúng cùng nhau sà xuống cánh đồng để tìm chốn nghỉ. Ở hai câu thơ này, sự kết hợp giữa con người, thiên nhiên và loài vật thật hài hòa. Như vậy, bài thơ “Đứng ở phủ Thiên Trường” trông ra của nhà thơ Trần Nhân Tông hướng tới khắc họa bức tranh phong cảnh làng quê, ở đó vừa có cái thực của làng quê, vừa có cái mờ ảo của cảnh vật, của không gian. Và trong không gian đầy thi vị ấy không thể thiếu đi bóng dáng của những con người. Chính sự xuất hiện của những đứa trẻ chăn trâu đã làm cho bài thơ trở nên sống động đến lạ kì, vì ở cái không gian thi vị, rộng lớn ấy vẫn ấm lên bởi sự sống của con người. Cũng có thể nói, Trần Nhân Tông phải có sự yêu mến, gắn bó lắm với làng quê thì mới có thể phát hiện ra vẻ đẹp tuyệt mĩ ngay trong cái không khí bình dị như vậy, bài thơ cũng thể hiện được tấm lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương mình. Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài số 4 Quê em ở Nam Định, chính nơi đã gợi thi tứ cho Trần Nhân Tông viết ra bài tứ tuyệt Thiên Trường vãn vọng trong dịp nhà vua về thăm quê cũ ở Thiên Trường. Vậy mà đến nay, khi đọc lại bài thơ đó, em mới cảm thấy thấm thía vẻ đẹp của quê hương qua nét bút cúa một ông vua – thi sĩ. Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên Bán vô bán hữu tịch dương biên Mục đồng dịch lí ngưu quy tận Bạch lộ song song phi hạ điền. Dịch thơ: Trước xóm sau thôn tựa khói lồng Bóng chiêu man mác có dường không Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng. Bốn câu thơ dựng lên trước mắt em cảnh một buổi chiều nơi đồng quê thôn dã Việt Nam. Và em nhận ra đó chính là quê mình khi xóm trước thôn sau đã bắt đầu chìm dần vào sương khói khiến cái bóng chiều man mác có dường không. Khung cảnh trầm lặng ấy bỗng ánh lên sự sống con người trong sự hoà hợp với thiên nhiên bằng hai nét vẽ tài hoa – vừa có âm thanh, vừa có màu sắc: Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng. Nhìn bức tranh minh hoạ trong sách giáo khoa, em nhớ lại một thời mình đã từng là "mục đồng" như thế. Tiếng sáo văng vẳng bên tai, cánh cò trắng chao liệng trước mắt, và em bỗng nhận ra đó là hồn quê, tình quê thấm đượm trong hai câu thơ, trong cả bài thơ. Nó quen thuộc gần gũi với em quá, nó chính là mình mà lâu nay mình không biết hoặc nhiều lúc đã hờ hững với nó, chứ không buồn hiu hắt cô đơn như trong thơ Bà Huyện Thanh Quan: Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn Gác mái ngư ông về viễn phố Gõ sừng mục tử lại cô thôn Hay trong khúc ngâm Chinh phụ của Đoàn Thị Điểm: Trông bến nam bãi che mặt nước Cỏ biếc um, dâu mướt màu xanh. Nhà thôn mấy xóm chông chênh Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm. Một ông vua mà vẫn giữ được hồn quê, tình quê tha thiết, vẫn gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã như vậy thật đáng trân trọng và kính phục biết bao! Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài số 5 Thiên nhiên chính là một bức tranh của tạo hóa dành tặng cho con người chúng ta, chủ đề thiên nhiên luôn là chủ đề tiêu biểu của các nhà thơ, nhà văn. Một chủ đề đem lại cho mỗi người một cảm xúc khác nhau theo cách nhìn, cái cảm nhận ấy. Bài thơ ”Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” của Trần Nhân Tông, là một bài thơ viết về bức tranh thiên nhiên buổi chiều thơ mộng. Trần Nhân Tông là một vị vua yêu nước, nổi tiếng khoan thai, nhân ái, công việc triều chính rất bận rộn nhưng không vì thế mà ông hờ hững với phong cảnh thiên nhiên qua tác phẩm ta thấy được một tâm hồn thi sỹ trong ông, gần gũi với thôn quê, với tính chất nhẹ nhàng, bình lặng, một thôn quê yên ả khi viết về cảnh tượng buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh tượng vùng quê trầm lặng mà không đìu hiu. Bài thơ được tác giả sáng tác trong dịp về thăm quê cũ ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam định ngày nay). Nhà thơ đã viết cảnh chiều nay ngay tại chính quê hương yêu dấu của mình, cũng có lẽ là quê hương mình nên tác giả viết lên những câu thơ rất gần gũi hiện lên được bức tranh thôn quê dân dã, khi đọc ngay những câu thơ đầu tiên ta đã cảm thấy được một cảnh tượng mộc mạc, bình dị rất đỗi quen thuộc với mỗi người khi buổi chiều tà tới: “Trước xóm sau thôn tựa khói lồng Bóng chiều man mác có dường không” Cảnh tượng buổi chiều mùa lúa chín mới gặt xong, hình ảnh “khói lồng” cho thấy ghi ngút của khói rơm dạ vào buổi chiều tà, khung cảnh thơ mộng, mờ ảo được bao trùm bởi lớp khói sương mờ mỏng. Một cách nhìn độc đáo, ở một nơi nhìn bao quát được khắp làng xóm ”trước xóm sau thôn” bao trọn trong tầm mắt của tác giả. Nhờ cách nhìn đó mà những hình ảnh rất quen thuộc đó trở nên đẹp một cách lạ lùng, cảm tưởng như lần đầu ta chứng kiến một cảnh vật thơ mộng như vậy. Buổi chiều cảnh hoàng hôn với mặt trời đang dần khuất núi thì lại được nhà thơ dùng “bóng chiều” tả “man mác” lúc có lúc không, một cảm giác thấp thoáng, lúc ẩn lúc hiện, cảnh vật trước mặt ta như hư vô. Ngay hai câu thơ đầu nhà thơ đã đưa người đọc đến với nhiều khung bậc cảm xúc khác nhau, bức tranh thiên nhiên quen thuộc trở nên mộng ảo, làm người đọc muốn ngắm cảnh đó mãi không thôi, như mong muốn cho cảnh tượng đó cứ hiện lên trước mặt, nhưng lại có chút mờ ảo. Tác giả lại tiếp tục đưa ta đến với khung cảnh rất bình dị, nhưng không còn “hư không” nữa mà thay vào đó là một bức họa làng quê cảm giác thực hơn, đó chính là nhịp sống của người dân, những con người chân chất thôn quê, con vật gắn liền với bản chất thôn dã của vùng quê: “Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng” Lấy một hình ảnh rất đẹp chính là những chú mục đồng, những đứa trẻ cầm trên tay chiếc sáo và thổi khắp cánh đồng, trên đường về cùng với đàn trâu, tiếng sáo vang lên khắp nơi trong không gian buổi chiều trông thật hòa hợp với cảnh sắc thiên nhiên. Vào buổi chiều tà đó cũng chính là thời gian kết thúc sau một ngày lao động, và dắt trâu đi về của mấy đứa trẻ, cảm thấy thật vui vẻ cùng nhau một lũ trẻ hò nhau đi về. Màu sắc của bức họa được phác thảo bởi tiếng sao tạo nên một cảm giác nhẹ nhàng khoan thai. Thời điểm đó, không chỉ là lúc con người đi làm về, một hình ảnh khác cũng được nhà thơ nắm trọn đó là hình ảnh từng đàn từng đôi cò trắng đáp xuống đồng, những đàn cò trắng phau phau, cùng nhau sà xuống nghỉ chân rồi lại cùng nhau sải cách bay lên, cảm thấy cuộc sống luôn sôi động. Nhờ sự xuất hiện của những đứa trẻ như vậy đã làm cho một khung cảnh thiên nhiên thi vị trở nên tươi mới, không còn là một cảnh chiều mờ ảo, tạo nên cho một buổi chiều có sự sống của con người, những sự sống dó làm cho thiên nhiên cũng trở nên nhộn nhịp. Bức tranh thiên nhiên của bài thơ thật chất làng quê, những hình ảnh mộc mạc vừa thực vừa ảo, không chỉ miêu tả hình ảnh thiên nhiên mà tác giả còn lồng vào đó cảnh sắc con người. Ở đây vẫn ánh lên sự sống con người trong sự hòa hợp với cảnh sắc thiên nhiên một cách nên thơ, chứng tỏ tác giả là con người tuy có địa vị tối cao nhưng tâm hồn vẫn gắn bó máu thịt với quê hương đất nước thôn dã, một sự kết hợp trong bài thơ thật hài hòa giữa thiên nhiên, con người và loài vật. Qua bài thơ cho thấy Trần Nhân Tông cũng rất gắn bó với làng quê thì mới cảm nhận được hết những cái đẹp của bức tranh thiên nhiên. Nếu như tác giả chỉ nhìn thôi, không có sự gắn bó thì khó có thể viết lên những câu thơ đậm chất thôn quê như vậy. Bài thơ “Buổi chiều ở phủ Thiên Trường trông ra” là một bài thơ viết về thiên nhiên rất bình thường, nhưng trong đó ta cảm nhận được một tấm lòng bao la mà Trần Nhân Tông muốn gửi gắm cho quê hương mình, cái nơi mà mình được sinh ra, một vùng quê yên ả, một bức họa thiên nhiên buổi chiều tà làm ta cảm thấy rất tha thiết, muốn ở trong đó mãi. Nguyễn Tuyến tổng hợp Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Văn mẫu lớp 75 (100%) 1 đánh giá Từ khóa tìm kiếmcảm nghĩ về bai thơ buoi chiều ra đứng ở phủ thiên đừơnghay tim nhung tu ngu hinh anh the hien ro sac que va hon que qua bai buoi chieu dung o phu thien truong trong raphat bieu cam nghi bai buoi chieuphát biểu cảm nghĩ về bài thơ thiên trường vãn vọngqua bài thơ buổi chiều đứng ở phủ thiên trường trông ra hãy tìm những hình ảnh rõ nhất về sắc quê hồn quê Có thể bạn quan tâm?Phát biểu cảm nghĩ về bài Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư) – Văn mẫu lớp 7Cảm xúc về một người thân trong gia đình – Văn mẫu lớp 7Chứng minh đạo lý “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” và “Uống nước nhớ nguồn” – Văn mẫu lớp 7Tả mưa xuân xứ Bắc – Văn mẫu lớp 7Bình luận câu tục ngữ “Cá không ăn muối cá ươn, …” – Văn mẫu lớp 7Phát biểu cảm nghĩ về bài văn Mẹ tôi – Văn mẫu lớp 7Miêu tả cảnh mục đồng thổi sáo dẫn trâu về nhà – Văn mẫu lớp 7Cảm nhận khi đọc bài thơ Sông núi nước Nam (Nam quốc sơn hà) – Văn mẫu lớp 7

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài số 1

Trần Nhân Tông (1258 – 1308) tên thật là Trần Khâm, con đầu của vua Trần Thánh Tông. Sau khi lên ngôi, ông tỏ ra là một vị vua nổi tiếng khoan hòa, nhân ái và yêu nước. Ông đã cùng vua cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông thắng lợi vẻ vang (1285, 1288). Vốn theo đạo Phật và là người sáng lập dòng thiền Trúc Lâm theo hướng Việt Nam hóa đạo Phật, cuối đời, vào năm 1298, ông đi tu và trụ trì ở chùa Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay). Vua Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của đời Trần.

Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được ông sáng tác trong một dịp về thăm quê. Các vua đời Trần cho xây ở quê một hành cung gọi là cung Thiên Trường để thỉnh thoảng về nghỉ ngơi. Mỗi dịp về đó, các vua thường có thơ lưu lại, nay còn giữ được vài bài, trong đó có bài này. Ngày tháng sáng tác không thấy ghi cụ thể nhưng chắc chắn bài thơ ra đời sau chiến thắng quân Nguyên – Mông lần thứ ba không lâu, vào giai đoạn cuộc sống yên lành của nhân dân đang được khôi phục lại (nghĩa là vào khoảng những năm 90 của thế kỉ XIII).

Phiên âm chữ Hán: Thiên Trường vãn vọng

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.

Dịch nghĩa: Buổi chiều ở phủ Thiên Trường trông ra

Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ,
Cảnh vật bóng chiều chập chờn nửa như có nửa như không.
Mục đồng lùa trâu về nhà tiếng sáo véo von
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.

Dịch thơ:

Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Ngô Tất Tố dịch)

Bài thơ tả cảnh buổi chiều ở phủ Thiên Trường. Đây là khung cảnh một vùng quê tĩnh lặng như muôn vàn cảnh quê khác lúc chiều buông. Chỉ đếm được vài đường nét: mấy mái nhà tranh thấp thoáng trong làn sương mờ mờ như khói; dăm trẻ mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu thổi sáo, dẫn trâu về chuồng; vài đôi cò trắng chao nghiêng cánh chấp chới liệng xuống đồng…

Hai câu thơ đầu:

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
(Trước xóm, sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không).

Đây là cảnh hoàng hôn, sự vật trước xóm, sau thôn chìm dần vào màn sương đang từ từ buông xuống, hòa lẫn với những làn khói tỏa ra từ mái bếp. Trong bóng chiều man mác, mọi vật thấp thoáng ẩn hiện, dường như có, dường như không. Bức tranh quê với những sắc màu quen thuộc của ánh tà dương vàng còn rớt lại trên ngọn tre, của sương tím, cò trắng, lúa xanh… chỗ đậm, chỗ nhạt cùng tiếng sáo véo von gợi cảm giác về một cuộc sống thanh bình đã trở lại sau bao năm binh lửa.

Hình ảnh trong bài thơ không có gì đặc biệt, rất giản dị, bình thường nhưng lại gây xúc động lạ lùng. Tại sao như vậy? Bởi dân ta đã phải đổ xương máu, phải chịu bao đau thương, tang tóc mới giành lại được cuộc sống yên ấm từ tay lũ giặc dữ xâm lược.

Hai câu thơ cuối:

Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng).

Nhà thơ đã lựa chọn được hai hình ảnh tiêu biểu cho cảnh đồng quê lúc chiều về : trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trầu về chuồng và cò trắng từng đôi sà xuống cánh đồng đã vắng bóng người.

Lời thơ không đơn thuần là kể và tả mà nó còn biểu hiện một xúc cảm kì lạ và một niềm vui đang xốn xang, rạo rực trong lòng nhà thơ. Ngắm đàn trâu no căng đang chậm rãi nối đuôi nhau về làng, trên lưng vắt vẻo mấy chú mục đồng ung dung thổi sáo; phóng tầm mắt ra xa (vọng), thấy trên thảm lúa xanh, dăm ba cánh cò trắng muốt đang chao liệng, thử hỏi lòng nào không xao xuyến, bâng khuâng, không dạt dào yêu mến?

Cảnh tượng buổi chiều ở nông thôn được tác giả phác họa rất đơn sơ nhưng vẫn đậm đà sắc quê, hồn quê. Điều đó chứng tỏ tác giả là vị vua xuất thân từ nông dân, đã cùng lăn lộn, cùng vào sinh ra tử với dân để đánh đuổi ngoại xâm, giành lại cho đất nước cảnh sống thanh bình. Dù có địa vị tối cao nhưng tâm hồn nhà vua – thi sĩ vẫn gắn bó máu thịt với quê hương và dân chúng.

Bài thơ tuy ngắn nhưng nó xứng đáng là thơ của mọi thời bởi cho dù mấy trăm năm đã trôi qua mà sức mạnh rung cảm và chinh phục lòng người của nó vẫn nguyên vẹn như thuở ban đầu.

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài số 2

Nhắc tới Trần Nhân Tông, người ta nghĩ ngay tới người anh hùng cứu nước, vị vua tài trí lỗi lạc đã cùng quân dân nhà Trần đánh bại quân xâm lược Mông Cổ, làm nên một thời đại anh hùng trong lịch sử dân tộc – thời đại Đông A. Nhắc đến Trần Nhân Tông, người ta cũng nghĩ ngay tới vị tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, nhà hiền triết của Đạo Phật. Trần Nhân Tông không chỉ là người – anh hùng cứu nước, vị vua sáng, nhà hiền triết, Trần Nhân Tông còn là một thi sĩ có tâm hồn thanh cao, phóng thoáng và một cái nhìn tinh tế, tao nhã.

Trần Nhân Tông đã từng nổi tiếng với những câu thơ rất đỗi hào hùng:

Xã tắc hai phen chồn ngựa đá

Non sông nghìn thuở vững âu vàng.

(Tức sự)

Và nhà vua còn làm người đời ngạc nhiên hơn bởi một hồn thơ mang nặng tình quê thắm thiết. Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra (Thiên trường vãn vọng) là một hồn thơ như thế.

Từ Thăng Long về thăm quê cũ Thiên Trường (Nam Định ngày nay), từ trên cung điện ở phủ Thiên Trường, nhà vua phóng tầm mắt ra xa. Một cảnh tượng mở ra trước mắt ông xiết bao trìu mến:

Trước xóm sau thôn tựa khói lồng

Bóng chiều man mác có dường không

Mục đồng sáo vẳng trâu về hết

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.

(Bản dịch của Ngô Tất Tố)

Cảnh buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh của một vùng quê trầm lặng, yên bình (Cái yên bình của một cuộc sống thái bình). Trời đã về lúc chiều tối, thôn xóm chìm dần vào làn khói sương lãng đãng, mờ ảo. Có lẽ, đó là vào dịp thu đông. Có bóng chiều, sắc chiều đấy nhưng chỉ man mác, chập chờn, nửa như có, nửa như không.

Cái thời điểm giao thời giữa ngày và đêm ở chốn thôn quê gợi lên bao cảm xúc trong lòng người. Nó bâng khuâng, xao xuyến thật khó tả:

Trước xóm sau thôn tựa khói lồng

Bóng chiều man mác có dường không.

Và vì thế, cuộc sống càng trở nên thân thương. Chỉ một hình ảnh rất bình thường: những đứa trẻ đang dắt trâu về làng, vừa đi, vừa thổi sáo, cũng khiến nhà vua chú ý và đưa vào trong thơ:

Mục đồng sáo vẳng trâu về hết.

Phải chăng tiếng sáo của bọn trẻ đã đưa nhà vua trở lại cái thời thơ ấu ngây thơ, thoả sức vui đùa? Hay tiếng sáo hồn nhiên, trong trẻo quá khiến lòng ông thư thái lại sau bao nhiêu lo toan trăn trở việc triều chính? Trong lòng vị hoàng đế mang một niềm vui tràn ngập, nó cũng bình dị và trong trẻo như chính cuộc sống nơi đây.

Tâm trạng ấy khiến ông thấy cảnh vật càng nên thơ:

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.

Trên nền xanh của đồng nội, trong cái mờ ảo của khói sương, điểm xuyết vài cánh cò trắng đang là là hạ xuống. Chao ôi, cánh đồng quê sao mà đẹp thế!

Hai câu thơ cuối với bút pháp miêu tả bằng những nét chấm phá, đã vẽ ra trước mắt người đọc cả một vùng quê yên bình và thơ mộng. Con người và cuộc sống ở đây bình dị quá, hồn hậu quá! Bức tranh cảnh vật với những nét chấm phá tài hoa của thi nhân trở nên thật có hồn: có âm thanh ngọt ngào, sâu lắng; có sắc màu tao nhã, sáng trong, có hoạt động nhẹ nhàng êm ả… Một bức tranh thôn dã được cảm nhận bằng một tâm hồn thi nhân tinh tế và nhạy cảm; hơn nữa, bằng tâm hồn của một con người thiết tha yêu làng quê, yêu cuộc sống.

Ít ai có thể nghĩ được rằng, một vị vua ở tận nơi lầu son gác tía, lại gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã như vậy. Vì thế, càng đọc kĩ bài thơ, ta càng hiểu được cái tình quê, tình người lai láng đậm đà trong tâm hồn một bậc vĩ nhân, càng thêm quý trọng và mến phục ông.

Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra, thật xứng đáng là một áng thơ hay, tiêu biểu cho bản sắc và tâm hồn Việt Nam.

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài số 3

Trần Nhân Tông là một vị vua yêu nước, anh hùng của dân tộc Việt nam, ông có vai trò vô cùng to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông và khôi phục nền kinh tế nước nhà. Không chỉ là một vị vua tài ba mà Trần Nhân Tông còn là một vị vua có tinh thần thân dân nhất, có khả năng sáng tác thơ văn, nhiều tác phẩm thơ văn của ông giàu giá trị nội dung và được các nhà nghiên cứu đánh giá rất cao. Một trong số đó ta có thể kể đến tác phẩm thơ “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” hay còn có tên là Thiên trường vãn vọng.

“Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” là một bài thơ mang đậm cảm hứng Phật giáo, bằng những ngôn ngữ, hình ảnh vô cùng bình dị, mộc mạc song Trần Nhân Tông đã vẽ ra được một bức tranh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, đồng thời qua đó cũng bộc lộ được tình cảm chân thành, da diết của nhà thơ dành cho quê hương, đất nước của mình. Là một vị vua nhưng Trần Nhân Tông luôn có sự thân dân, gắn bó với cuộc sống của người dân, vì vậy mà trong các tác phẩm thơ văn của ông thường xuất hiện những cảnh sắc tuyệt mĩ song rất đỗi giản dị, thân quen của không gian làng quê:

“Thôn tiền, thôn hậu đạm tự yên

Bán vô bán hữu tịch dương biên”

Dịch:

“Trước thôn, sau thôn, khí trời mờ nhạt như sương khói

Bóng chiều tà nửa không nửa có”

Thiên Trường là quê hương của nhà Trần, nay thuộc tỉnh Nam Định. Vì vậy bài thơ “Đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” là bài thơ mà Trần Nhân Tông viết về chính quê hương xứ sở của mình. Cảnh vật mà nhà thơ Trần Nhân Tông mở ra trước mắt người đọc, đó là khung cảnh làng quê lúc chiều tà. Trong không gian của thôn xóm, cảnh vật trở nên vô cùng thi vị, mơ mộng bởi được bao phủ lên mình lớp sương nhờ nhạt. Ta có thể thấy, điểm nhìn của nhà thơ là một không gian ở trên cao, vì chỉ có như vậy thì nhà thơ mới có thể quan sát trọn vẹn được khung cảnh “trước thôn”, “sau thôn”. Trong cái nhìn của nhà thơ, không gian bình dị của làng quê được bao phủ bởi những cảnh vật mờ mờ, ảo ảo, như sương khói.

Vì sự cảm nhận độc đáo của nhà thơ mà khung cảnh vốn rất đỗi bình dị và gần gũi với con người bỗng chốc trở lại mới lạ, thơ mộng và gợi cho người đọc một liên tưởng, cái thôn quê ấy như đi lạc vào trong cõi thần tiên.  Không gian thôn xóm được trải ra mênh mông, bởi giới hạn không có sự xác định, ngoài điểm nhìn rõ nét nhất là vị trí của thôn làng, còn xung quanh bao bọc nó là những cảnh vật mờ ảo, không xác định. Thời gian mà nhà thơ Trần Nhân Tông nói đến trong bài thơ, đó là thời điểm chiều tà, là ranh giới giữa đêm và ngày, trong thời điểm đó, thông thường cái sắc hồng cam của những đám mây  khi hoàng hôn sẽ bao phủ lấy không gian, nhưng ở đây nhà thơ lại một lần nữa mang đến cho người đọc một cảm nhận thật độc đáo. Bởi dưới bóng chiều tà, cảnh vật cũng trở nên nửa có, nửa không “Bóng chiều tà nửa không nửa có”, tức cảnh vật hiển hiện trước mặt nửa như thực lại nửa như vô.

Trong hai câu thơ đầu tiên, nhà thơ Trần Nhân Tông đưa người đọc vào một thế giới vốn quen thuộc nhưng lại huyễn hoặc các giác quan của người đọc bằng những từ ngữ gợi ra sự mơ hồ, không xác định giữa thực- mơ, hư – vô. Ở những câu thơ tiếp theo, nhà thơ Trần Nhân Tông vẫn điểm xuyết cho bức họa làng quê của mình bằng những nét bút miêu tả khung cảnh, tuy nhiên, sự mơ hồ đã giảm bớt và mang lại cho người đọc cảm giác thực hơn, đó là những nhịp sống của những người dân, của những con vật gắn liền với không gian dân giã:

“Mục đồng địch lí ngưu quy tận

Bạch lộ song song phi hạ điền”

Dịch:

(Trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về hết

Từng hàng cò trắng bay xuống ruộng)

Bức tranh thiên nhiên của Trần Nhân Tông không chỉ được làm nổi bật bởi màu sắc mà còn được phác họa, mô phỏng bởi cả âm thanh, bởi trong không gian văng vẳng của tiếng sáo, những đứa trẻ chăn trâu đã lùa hết trâu về nhà. Ta có thể hiểu tiếng sáo ở đây là âm thanh phát ra của những chiếc sáo, do những đứa trẻ mục đồng thổi. Và trong không gian của chiều tà, cũng là lúc công việc của những đứa trẻ này kết thúc, chúng hò nhau dắt trâu về nhà. Trong không gian đầy rộn ràng của tiếng sáo, từng đôi cò trắng cùng nhau bay xuống ruộng. Thời điểm chiều tà không chỉ là lúc con người tạm ngừng lại mọi hoạt động mà các loài vật cũng vậy, chúng cùng nhau sà xuống cánh đồng để tìm chốn nghỉ. Ở hai câu thơ này, sự kết hợp giữa con người, thiên nhiên và loài vật thật hài hòa.

Như vậy, bài thơ “Đứng ở phủ Thiên Trường” trông ra của nhà thơ Trần Nhân Tông hướng tới khắc họa bức tranh phong cảnh làng quê, ở đó vừa có cái thực của làng quê, vừa có cái mờ ảo của cảnh vật, của không gian. Và trong không gian đầy thi vị ấy không thể thiếu đi bóng dáng của những con người. Chính sự xuất hiện của những đứa trẻ chăn trâu đã làm cho bài thơ trở nên sống động đến lạ kì, vì ở cái không gian thi vị, rộng lớn ấy vẫn ấm lên bởi sự sống của con người. Cũng có thể nói, Trần Nhân Tông phải có sự yêu mến, gắn bó lắm với làng quê thì mới có thể phát hiện ra vẻ đẹp tuyệt mĩ ngay trong cái không khí bình dị như vậy, bài thơ cũng thể hiện được tấm lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương mình.

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài số 4

Quê em ở Nam Định, chính nơi đã gợi thi tứ cho Trần Nhân Tông viết ra bài tứ tuyệt Thiên Trường vãn vọng trong dịp nhà vua về thăm quê cũ ở Thiên Trường. Vậy mà đến nay, khi đọc lại bài thơ đó, em mới cảm thấy thấm thía vẻ đẹp của quê hương qua nét bút cúa một ông vua – thi sĩ.

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên 
Mục đồng dịch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.

Dịch thơ:

Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
 Bóng chiêu man mác có dường không
 Mục đồng sáo vẳng trâu về hết 
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.

Bốn câu thơ dựng lên trước mắt em cảnh một buổi chiều nơi đồng quê thôn dã Việt Nam. Và em nhận ra đó chính là quê mình khi xóm trước thôn sau đã bắt đầu chìm dần vào sương khói khiến cái bóng chiều man mác có dường không. Khung cảnh trầm lặng ấy bỗng ánh lên sự sống con người trong sự hoà hợp với thiên nhiên bằng hai nét vẽ tài hoa – vừa có âm thanh, vừa có màu sắc:

Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.

Nhìn bức tranh minh hoạ trong sách giáo khoa, em nhớ lại một thời mình đã từng là "mục đồng" như thế. Tiếng sáo văng vẳng bên tai, cánh cò trắng chao liệng trước mắt, và em bỗng nhận ra đó là hồn quê, tình quê thấm đượm trong hai câu thơ, trong cả bài thơ. Nó quen thuộc gần gũi với em quá, nó chính là mình mà lâu nay mình không biết hoặc nhiều lúc đã hờ hững với nó, chứ không buồn hiu hắt cô đơn như trong thơ Bà Huyện Thanh Quan:

Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn

Hay trong khúc ngâm Chinh phụ của Đoàn Thị Điểm:

Trông bến nam bãi che mặt nước
Cỏ biếc um, dâu mướt màu xanh.
Nhà thôn mấy xóm chông chênh 
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.

Một ông vua mà vẫn giữ được hồn quê, tình quê tha thiết, vẫn gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã như vậy thật đáng trân trọng và kính phục biết bao!

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra – Bài số 5

Thiên nhiên chính là một bức tranh của tạo hóa dành tặng cho con người chúng ta, chủ đề thiên nhiên luôn là chủ đề tiêu biểu của các nhà thơ, nhà văn. Một chủ đề đem lại cho mỗi người một cảm xúc khác nhau theo cách nhìn, cái cảm nhận ấy. Bài thơ ”Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” của Trần Nhân Tông, là một bài thơ viết về bức tranh thiên nhiên buổi chiều thơ mộng.

Trần Nhân Tông là một vị vua yêu nước, nổi tiếng khoan thai, nhân ái, công việc triều chính rất bận rộn  nhưng không vì thế mà ông hờ hững với phong cảnh thiên nhiên qua tác phẩm ta thấy được một tâm hồn thi sỹ trong ông, gần gũi với thôn quê, với tính chất nhẹ nhàng, bình lặng, một thôn quê yên ả khi viết về cảnh tượng buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh tượng vùng quê trầm lặng mà không đìu hiu. Bài thơ được tác giả sáng tác trong dịp về thăm quê cũ ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam định ngày nay).

Nhà thơ đã viết cảnh chiều nay ngay tại chính quê hương yêu dấu của mình, cũng có lẽ là quê hương mình nên tác giả viết lên những câu thơ rất gần gũi hiện lên được bức tranh thôn quê dân dã, khi đọc ngay những câu thơ đầu tiên ta đã cảm thấy được một cảnh tượng mộc mạc, bình dị rất đỗi quen thuộc với mỗi người khi buổi chiều tà tới:

“Trước xóm sau thôn tựa khói lồng

Bóng chiều man mác có dường không”

Cảnh tượng buổi chiều mùa lúa chín mới gặt xong, hình ảnh “khói lồng” cho thấy ghi ngút của khói rơm dạ vào buổi chiều tà, khung cảnh thơ mộng, mờ ảo được bao trùm bởi lớp khói sương mờ mỏng. Một cách nhìn độc đáo, ở một nơi nhìn bao quát được khắp làng xóm ”trước xóm sau thôn” bao trọn trong tầm mắt của tác giả. Nhờ cách nhìn đó mà những hình ảnh rất quen thuộc đó trở nên đẹp một cách lạ lùng, cảm tưởng như lần đầu ta chứng kiến một cảnh vật thơ mộng như vậy. Buổi chiều cảnh hoàng hôn với mặt trời đang dần khuất núi thì lại được nhà thơ dùng “bóng chiều” tả “man mác” lúc có lúc không, một cảm giác thấp thoáng, lúc ẩn lúc hiện, cảnh vật trước mặt ta như hư vô.

Ngay hai câu thơ đầu nhà thơ đã đưa người đọc đến với nhiều khung bậc cảm xúc khác nhau, bức tranh thiên nhiên quen thuộc trở nên mộng ảo, làm người đọc muốn ngắm cảnh đó mãi không thôi, như mong muốn cho cảnh tượng đó cứ hiện lên trước mặt, nhưng lại có chút mờ ảo.         

Tác giả lại tiếp tục đưa ta đến với khung cảnh rất bình dị, nhưng không còn “hư không” nữa mà thay vào đó là một bức họa làng quê cảm giác thực hơn, đó chính là nhịp sống của người dân, những con người chân chất thôn quê, con vật gắn liền với bản chất thôn dã của vùng quê:

“Mục đồng sáo vẳng trâu về hết

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng”

Lấy một hình ảnh rất đẹp chính là những chú mục đồng, những đứa trẻ cầm trên tay chiếc sáo và thổi khắp cánh đồng, trên đường về cùng với đàn trâu, tiếng sáo vang lên khắp nơi trong không gian buổi chiều trông thật hòa hợp với cảnh sắc thiên nhiên. Vào buổi chiều tà đó cũng chính là thời gian kết thúc sau một ngày lao động, và dắt trâu đi về của mấy đứa trẻ, cảm thấy thật vui vẻ cùng nhau một lũ trẻ hò nhau đi về. Màu sắc của bức họa được phác thảo bởi tiếng sao tạo nên một cảm giác nhẹ nhàng khoan thai. Thời điểm đó, không chỉ là lúc con người đi làm về, một hình ảnh khác cũng được nhà thơ nắm trọn đó là hình ảnh từng đàn từng đôi cò trắng đáp xuống đồng, những đàn cò trắng phau phau, cùng nhau sà xuống nghỉ chân rồi lại cùng nhau sải cách bay lên, cảm thấy cuộc sống luôn sôi động.

Nhờ sự xuất hiện của những đứa trẻ như vậy đã làm cho một khung cảnh thiên nhiên thi vị trở nên tươi mới, không còn là một cảnh chiều mờ ảo, tạo nên cho một buổi chiều có sự sống của con người, những sự sống dó làm cho thiên nhiên cũng trở nên nhộn nhịp.

Bức tranh thiên nhiên của bài thơ thật chất làng quê, những hình ảnh mộc mạc vừa thực vừa ảo, không chỉ miêu tả hình ảnh thiên nhiên mà tác giả còn lồng vào đó cảnh sắc con người. Ở đây vẫn ánh lên sự sống con người trong sự hòa hợp với cảnh sắc thiên nhiên một cách nên thơ, chứng tỏ tác giả là con người tuy có địa vị tối cao nhưng tâm hồn vẫn gắn bó máu thịt với quê hương đất nước thôn dã, một sự kết hợp trong bài thơ thật hài hòa giữa thiên nhiên, con người và loài vật.

Qua bài thơ cho thấy Trần Nhân Tông cũng rất gắn bó với làng quê thì mới cảm nhận được hết những cái đẹp của bức tranh thiên nhiên. Nếu như tác giả chỉ nhìn thôi, không có sự gắn bó thì khó có thể viết lên những câu thơ đậm chất thôn quê như vậy.

Bài thơ “Buổi chiều ở phủ Thiên Trường trông ra” là một bài thơ viết về thiên nhiên rất bình thường, nhưng trong đó ta cảm nhận được một tấm lòng bao la mà Trần Nhân Tông muốn gửi gắm cho quê hương mình, cái nơi mà mình được sinh ra, một vùng quê yên ả, một bức họa thiên nhiên buổi chiều tà làm ta cảm thấy rất tha thiết, muốn ở trong đó mãi.

Nguyễn Tuyến tổng hợp

0