Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Văn mẫu lớp 7
Nội dung bài viết1 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Bài số 1 2 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Bài số 2 3 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Bài số 3 4 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Bài số 4 5 Phát biểu cảm nghĩ về ...
Nội dung bài viết1 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Bài số 1 2 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Bài số 2 3 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Bài số 3 4 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Bài số 4 5 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Bài số 5 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Bài số 1 Là một anh hùng dân tộc, Nguyễn Trãi có công lớn cùng Lê Lợi dấy lên khởi nghĩa Lam Sơn, đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh, giành lại độc lập cho nước ta. Sau chiến thắng, không được tin dùng, ông lui về quê ngoại làm lều cỏ trên núi Côn Sơn ở ẩn. Bài ca Côn Sơn, bài thơ ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên và bày tỏ tâm sự của mình có lẽ đã được Nguyễn Trãi sáng tác trong thời khoảng này. Tuy phải xa lánh triều đình nhưng ông luôn canh cánh bên lòng hoài bão được mang tài trí ra giúp dân, giúp nước. Phần trích giảng in trong sách giáo khoa là đoạn mở đầu bài thơ chữ Hán vừa nói đã được dịch ra thơ lục bát. Đoạn này chủ yếu ca ngợi cảnh đẹp trên núi Côn Sơn. Bằng lối đặc tả, tám câu thơ đã làm nên một bức tranh thủy mặc đầy sảng khoái, biểu hiện sự quan sát đầy tinh tế, sự cảm nhận đầy sâu lắng của thi nhân, của tâm hồn một trang hiền sĩ tưởng như không vướng bận bụi trần. Nổi lên trên những đường nét chấm phá hữu tình là suối, là đá, là cây. Suối hiện ra bằng âm thanh róc rách của tiếng đàn trời: Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai Đá hiện ra với những trận mưa dội lên đá và những tưởng lớp rêu xanh biếc êm ái phủ lên bề mặt, khiến tác giả ngồi lên như ngồi trên thảm chiếu hoa. Côn Sơn có đá rêu phơi Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm. Cây hiện lên trong một bức tranh mênh mông trải rộng ra tít tắp những trúc, những thông: Trong ghềnh thông mọc như nêm Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm Trong rừng có bóng trúc râm Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn. Người đọc tha hồ mà tưởng tượng theo sự gợi mở của tác giả. Cây thông đứng reo giữa trời chịu rét là hình ảnh bất khuất của bậc anh hùng. Trúc “tiết trực tâm hư” dầu ở đâu, lúc nào cũng tươi tốt, là dáng dấp từ ngàn xưa của người quân tử. Cây cao tán rợp gợi dáng lọng che. Tiếng đàn suối nhắc nhở nhã nhạc. Thảm êm, lối trúc nhắc nhở triều đình. Phải chăng theo Nguyễn Trãi, thà làm thảo mộc vô tri còn hơn làm trang tài trí mà phải mang thân cúi luồn quản gian nịnh? Thấp thoáng trong từng câu chữ của đoạn thơ là bóng dáng đầy tìm cách an hưởng thú nhàn của tác giả. Thực ra đó chỉ là bề ngoài. Bên trong tâm hồn Nguyễn Trãi lúc nào cũng "đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng" lo dân, thương nước. Chính vì vậy, khi Lê Thái Tông thấu hiểu lòng ông, mời ông trở lại triều đình, ông lại hăng hái về triều kề vai gánh vác việc dân việc nước. Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Bài số 2 Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) là một bài thơ chữ Hán nổi tiếng. Có lẽ Nguyễn Trãi viết bài thơ này trong thời kì ông cáo quan về ở ẩn ở Côn Sơn để giữ cho tâm hồn được thanh cao, trong sạch. Đối với Nguyễn Trãi, Côn Sơn là một miền đất có sức hút kì lạ. Chẳng thế mà hai lần cáo quan về ở ẩn, ông đều tìm về với Côn Sơn. Và núi rừng Côn Sơn thanh vắng đã trở thành một thế giới riêng đầy thân thương gắn bó với thi nhân. Tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi đượcsống với chính mình. Dường như thiên nhiên đã trở thành cứu cánh cho tâm hồn ông- một tâm hồn đớn đau vì nhân tình thế thái. Tại Côn Sơn, mọi vật đối với ông trở nên có tình, có nghĩa, như bầu bạn, như tri âm: Núi láng giềng, chim bầu bạn Mây khách khứa, nguyệt anh tam (Thuật hứng – Bài 19) Cảnh trí Côn Sơn thanh tĩnh, rộng mở, để cho tâm hồn Nguyễn Trãi hoá thân tìm về, ùa vào đó mà quên đi mọi nỗi ưu phiền: Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai Côn Sơn có đá rêu phơi Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm Trong ghềnh thông mọc như nêm, Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm. Trong rừng có bóng trúc râm, Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn. (Trích Côn Sơn ca). Đoạn mở đầu bài Côn Sơn ca đem đến cho người đọc bao cảm nhận mới mẻ về tâm hồn thi sĩ của Ức Trai. Trong cảm xúc của ông, cảnh trí Côn Sơn hiện ra thật thơ mộng và lãng mạn: có tiếng suối chảy rì rầm, có đá rêu phơi êm ái, có rừng thông mọc rậm, dày, có rừng trúc xanh mát…, vừa có cái hoang dã của thiên nhiên, vừa có hơi ấm của cuộc sống đầy ắp tình người. Hơn nữa, trong con mắt thi nhân, thiên nhiên không chỉ là cảnh, mà đã trở thành nhà. Ngôi nhà thiên nhiên ấy thật đặc biệt: suối là đàn, rêu là chiếu, bóng thông làm giường, bóng tre trúc là nơi ngâm vịnh thơ ca. Thật là tuyệt thú! Và trong ngôi nhà thiên nhiên ấy, ông để tâm hồn mình giao hoà với cảnh và vẽ lại nó bằng một ngọn bút tài hoa. Bức tranh thiên nhiên được chấm phá bằng âm thanh rì rầm của tiếng suối được cảm nhận như tiếng đàn: Côn Sơn suối chảy rì rầm, Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. Một hình ảnh so sánh thật độc đáo và gợi cảm. Suối đang chảy hay thi nhân đã thả hồn mình vào tiếng suối, làm rung lên cung đàn diễn tả nỗi khát khao yêu cuộc sống? Năm trăm năm sau, thi sĩ Hồ Chí Minh cũng có chung cảm nhận ấy: Tiếng suối trong như tiếng hát xa Phải chăng những tâm hồn nghệ sĩ đã tìm về với nhau? Sau những giây phút thả hồn mình cùng tiếng suối, thi nhân lặng đến ngồi bên những phiến đá mà thời gian đã rêu phong bao phủ. Ông ngồi chơi ngắm cảnh, hay ngồi đánh cờ một mình? Có lẽ là cả hai. Trên nhân gian này, không ít người đã từng ngồi trên đá, nhưng làm sao họ cảm nhận được như thi nhân? Côn Sơn có đá rêu phơi, Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm. Một hình ảnh so sánh liên tưởng đầy thú vị khiến ta không khỏi ngỡ ngàng. Nguyễn Trãi trở về Côn Sơn không phải là để ẩn dật theo đúng nghĩa của cách sống ẩn dật, mà ông trở về Côn Sơn với nỗi hân hoan đầy tự do của một con người trở về nhà mình (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Và trong ngôi nhà ấy, ông không những được tha hồ nghe nhạc rừng, ngồi trên đá đánh cờ, mà còn được nằm dưới bóng thông râm mát, được ngâm thơ nhàn dưới bóng trúc xanh. Một cuộc sống mà người và cảnh gắn bó với nhau, hoà nhập vào nhau. Lòng Ức Trai thanh thản đến lạ kì. Chưa bao giờ mà tâm hồn thi sĩ của Ức Trai lại được bộc lộ đầy đủ, sâu sắc và đầm thắm đến thế! Cũng tại Côn Sơn này, hồn thơ Ức Trai còn tiếp tục rộng mở để đón nhận thiên nhiên, chở thiên nhiên về chất đầy kho: Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc Thuyền chở yến hà nặng vay then (Thuật hứng – Bài 24) Tình yêu thiên nhiên sâu nặng đến mức thi nhân sợ bóng hoa tan mà không dám quét nhà: Hé cửa, đêm chờ hương quế lọt, Quét hiên, ngày đợi bóng hoa tan (Quốc Âm thi tập – Bài 160) Nhân cách thanh cao và tâm hồn thi sĩ của nguyễn Trãi thực sự là tấm gương sáng để ta soi vào. Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Bài số 3 Nguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu là Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc xã Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Gia đình đến lập nghiệp ở làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây và Nguyễn Trãi được sinh ra tại đây. Năm 1400, ông đậu thái học sinh và ra làm quan trong triều nhà Hồ. Sau đó tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, với vai trò quân sư bên cạnh chủ tướng Lê Lợi. Nguyễn Trãi là nhà tư tưởng, nhà quân sự thiên tài, nhà ngoại giao xuất chúng, nhà văn hóa, nhà thơ nỗi lạc. Ông đã để lại cho đòi một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập… Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian hòa bình, ông dã cáo quan về sống ở Côn Sơn. Côn Sơn không chỉ là quê hương mà còn là mảnh đất nuôi dưỡng tâm hồn Nguyễn Trãi. Côn Sơn ca vừa là bài ca thiên nhiên vừa là bài ca tâm trạng. Hai ý này hòa quyện thống nhất trong cảm xúc của thi nhân. Đoạn trích miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên nhưng vẫn thấm nhuần ý vị trữ tình của tâm trạng. Trong nguyên văn chữ Hán, Bài ca Côn Sơn được viết theo thể thơ khác nhưng bản dịch đã chuyển thành thể lục bát: Côn Sơn suối chảy rì rầm, Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. Côn Sơn có đa rêu phơi, Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm. Trong rừng thông mọc như nêm, Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm, Trong rừng có bóng trúc râm, Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn… Sự giao hòa tuyệt đối giữa con người với cảnh vật được thể hiện khá rõ trong đoạn thơ, qua đó phản ánh nhân cách thanh cao và tâm hồn phóng khoáng của Nguyễn Trãi. Trước hết, ta hãy thưởng thức giọng thơ sảng khoái, hứng khởi, bộc lộ qua các câu thơ tự do trong nguyên văn chữ Hán: Côn Sơn hữu tuyền, Kì thanh linh linh nhiên, Ngô dĩ vi cầm huyền. Côn Sơn hữu thạch, Vũ tẩy đài phô bích, Ngô dĩ vi đạm tịch. Nham trung hữu tùng, Vạn lí thúy đồng đồng. Ngô ư thị hồ, Yến tức kì trung. Lâm trung hữu trúc, Thiên mẫu ấn hàn lục Ngô ư ngâm tiếu kì khắc. Nhịp thơ rộn rã như nhịp đàn, nhịp phách. Tinh thần sảng khoái trong tâm hồn thi sĩ đã tạo nên chất phóng khoáng của lời thơ. Gần trọn cuộc đời lo cho dân, cho nước, nhưng những năm cuối đời, Nguyễn Trãi phải sống trong sự đố kị, ghen ghét của đám nịnh thần. Vì vậy, khi trở về Côn Sơn, Nguyễn Trãi như con chim bằng sổ lồng tung cánh, cảm thấy mình thật sự tự do giữa trời cao đất rộng. Lúc này, ông mới được sống thật với chính mình, mới được là mình. Thi sĩ lúc dạo chơi, khi nằm nghỉ, khi chuyện trò tâm sự với những người nông dân áo vải, lúc cao hứng ngâm nga, vui say giữa rừng núi quê nhà. Phong thái nhà thơ thật giản dị, ung dung mà cũng thật cởi mở, chan hòa. Trong Bài ca Côn Sơn, cảnh vật thiên nhiên hiện lên với dòng suối trong chảy róc rách, rì rầm như tiếng đàn lúc khoan, lúc nhặt. Phiến đá phẳng phủ rêu xanh mướt, mịn như chiếu êm. Thông, tùng mọc như nêm; rừng trúc bạt ngàn màu xanh tươi mát. Qua nét vẽ tài hoa của ngòi bút Nguyễn Trãi, khung cảnh Côn Sơn hiện liên với những đặc điểm riêng biệt, không lẫn với bất cứ bức tranh sơn thủy nào. Trong bài thơ, đại từ ta xuất hiện năm lần. Ta ở đây chính là Nguyễn Trãi. Ta nghe tiếng suối mà như nghe tiếng đàn. Ta ngồi trên đá lại tưởng ngồi chiếu êm. Ta nằm hóng mát, ta ngâm thơ nhàn… Giữa khung cảnh mơ mộng, hình ảnh của thi sĩ giống như một nhà hiền triết hoặc một ông Tiên ông đang đắm mình vào thiên nhiên tuyệt mĩ. Nguyễn Trãi vừa là thi sĩ rung cảm trước cái đẹp, vừa là họa sĩ vẽ nên phong cảnh hữu tình của Côn Sơn. Ông đã vẽ bức tranh Côn Sơn với cây, với suối, với nhân vật trữ tình là chính mình. Đồng thời, ông còn là một nhạc sĩ tài hoa, bằng những nốt nhạc bổng trầm, dệt nên Bài ca Côn Sơn du dương cuốn hút lòng người. Thiên nhiên Côn Sơn khoáng đạt và thanh tĩnh. Bao trùm lên tất cả là sắc lá xanh ngời. Ở đây có suối chảy rì rầm, có bàn đá rêu phơi, có rừng tùng, rừng trúc che ánh nắng mặt trời, tạo ra khung cảnh tao nhã cho thi nhân ngồi ngâm thơ nhàn một cách thú vị… Hình ảnh cây trúc, cây tùng trong văn chương tượng trưng cho khí phách cứng cỏi của người quân tử : Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất. Nhà thơ hòa mình vào thiên nhiên hoang sơ đầy quyến rũ. Từ tiếng suối chảy róc rách, những tấm thảm rêu biếc, những tán thông kiêu hãnh, rừng trúc xanh tươi đều toát lên vẻ yên ả, đem lại sự thanh nhàn, bình yên cho tâm hồn. Bao lo lắng, phiền muộn của cuộc đời dường như được trút sạch, con người và thiên nhiên hòa làm một. Bức tranh Côn Sơn được Nguyễn Trãi cảm nhận không chỉ bằng thị giác, thính giác mà còn được cảm nhận bằng cả trái tim. Người đọc nhận ra cái "tâm" trong sáng và cái tài độc đáo của thi nhân qua bài thơ này. Bóng dáng nhà thơ hiện lên mờ ảo, thấp thoáng. Dường như ông hòa lẫn vào suối, vào rêu, vào đá, vào thông, vào trúc. Cái bóng dáng ẩn hiện và tiếng ngâm thơ trầm bổng, ngân nga trong không gian ấy gần như đã thể hiện đúng hoàn cảnh và tâm trạng của Nguyễn Trãi lúc bấy giờ. Nếu như ở bốn câu đầu, cảnh thiên nhiên Côn Sơn được miêu tả khách quan thì ở các câu thơ sau, tác giả lại kín đáo lồng vào trong đó lời khuyên xuất thế. Khi Nguyễn Trãi cáo quan về quê, mọi người đều tưởng ông bất mãn, chán đời, lui vào ẩn dật để quên mình, quên đời… nhưng không phải vậy. Lê Thánh Tông hiểu lòng ông, vời ông ra làm việc, ông lại hăng hái về triều, gánh vác việc dân, việc nước. Trong biểu tạ ơn vua, Nguyễn Trãi đã tự ví: Thần như con ngựa già còn ham rong ruổi… Nếu so sánh câu thơ: Côn Sơn có suối rì rầm, Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai của Nguyễn Trãi với câu thơ: Tiếng suối trong như tiếng hát xa của Hồ Chí Minh trong bài Cảnh khuya, chúng ta sẽ thấy cả hai đều là cảm xúc của tâm hồn thi sĩ tinh tế, cùng tưởng tượng tiếng suối giống như tiếng nhạc, tiếng hát tuyệt vời. Hai người cùng chung đề tài, chung biện pháp nghệ thuật so sánh nhưng khác nhau ở vị thế lúc làm thơ. Bài ca Côn Sơn được sáng tác khi Nguyễn Trãi bất đắc dĩ phải sống ẩn dật ở Chí Linh. Còn Cảnh khuya được nhà cách mạng Hồ Chí Minh viết trong lúc giữ cương vị tổng chỉ huy củ cuộc kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc. Hai cảnh ngộ, hai tâm trạng khác nhau, tuy đều lấy tiếng suối làm mạch nguồn cảm xúc nhưng sự cảm nhận và liên tưởng của mỗi người lại thể hiện nét riêng mang đậm dấu ấn cá nhân và tinh thần thời đại. Hai nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, hai thi nhân tầm vóc thời đại tuy sống cách nhau năm thế kỉ nhưng giống nhau ở cảm hứng mãnh liệt trước thiên nhiên tươi đẹp. Chỉ khác là nghe tiếng suối, Nguyễn Trãi liên tưởng đến tiếng đàn huyền diệu, còn Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nghĩ tới âm hưởng hùng tráng của bài ca chiến thắng trong tương lai. Đọc những bài thơ của Nguyễn Trãi viết về cảnh vật thôn quê, chúng ta hiểu thêm về tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng của ông. Bài ca Côn Sơn khiến lòng ta xao xuyến, bồi hồi và càng thêm gắn bó với từng mảnh vườn, góc phố quê hương. Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Bài số 4 Muôn đời nay, thiên nhiên vẫn là người bạn thân thiết, là nguồn cảm hứng vô tận đối với các thi nhân Đông, Tây, kim, cổ. Qua những bài thơ Bài ca Côn Sơn, Cảnh khuya, Rằm tháng giêng, Xa ngắm thác núi Lư, ta có thể cảm nhận được tình cảm yêu mến của các nhà thơ dành cho thiên nhiên tươi đẹp. Có ai không ngỡ ngàng, sung sướng bởi sự phong phú, tươi đẹp, sinh động của thiên nhiên quanh mình? Chỉ qua một số bài thơ, ta bắt gặp đây núi Côn Sơn – nơi có “suối chảy rì rầm”, có “đá rêu phơi”, có “rừng thông mọc như nêm”; đây thác núi Lư – “nước bay thẳng xuống ba nghìn thước”; rồi đây nữa, cảnh những đêm khuya với “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”, “sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”… Quả thực, thiên nhiên muôn hình vạn trạng bao đời nay vẫn khiến con người ngẩn ngơ. Không phải tới nơi núi hùng vĩ, không cần phải đến nơi bờ biển sóng vỗ dạt dào… sống yên bình trên mảnh đất quê hương, ngắm nhìn nơi chôn rau cắt rốn, ta vẫn thấy lòng dạt dào bởi vẻ đẹp của thiên nhiên xứ sở. Mỗi sớm mai trong trẻo, ánh mặt trời rực rỡ đánh thức nhân gian, mời gọi mọi người đón chào ngày mới. Khẽ vươn vai trở dậy, nhìn ra vườn lại nghe thấy tiếng chim lích rích chuyền cành, lòng người thấy rạo rực làm sao! Trong giây phút xôn xao ấy, có ai không hào hứng với công việc của một ngày mới? Bước nhẹ ra đường, bầu trời xanh cao lồng lộng, gió nhẹ nghịch ngợm mơn man đôi bím tóc, và bên đường, cánh đồng lúa chín rộ một sắc vàng như mật rót… Chiều về, mặt trời không còn chiếu nhựng tia nắng chói chang mà khoác lên mình chiếc áo tà dương với ráng hồng huyền diệu. Rồi đêm tối theo làn gió nhè nhẹ hạ xuống, mặt trời đi để gọi trăng về. Khắp không gian mênh mang thứ ánh sáng dịu dàng, mềm mại. Khi ấy, có ai ngồi bên dòng sông quê hương hẳn sẽ giật mình vì ngõ con sông được đất trời dát bạc… Đấy! Chỉ bấy nhiêu thôi đã đủ làm ta sung sướng bằng lòng với sự giàu có của thiên nhiên quanh mình. Chỉ bấy nhiêu thôi đã khiến hồn ta xao xuyến, thấy say mê với sự sống bình dị chốn làng quê… Thiên nhiên muôn đời là người bạn thân thiết của con người. Thiên nhiên chẳng những hiện hữu trong thơ ca, nhạc họa, mà còn sông trong lòng ta như những kỉ niệm đẹp đẽ; sẻ chia với ta bao buồn vui của cuộc sống. Xưa, Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn, rừng núi Côn Sơn từng giúp thi nhân xoa dịu nỗi ưu phiền. Lí Bạch mượn hình ảnh thác núi Lư để nói lên chính mình. Nay, Bác Hồ cũng mượn cảnh đêm khuya, rằm tháng giêng để gợi tấm lòng dành cho quê hương, đất nước,… Giờ đây, thiên nhiên vẫn chia sẻ với chúng ta những nụ cười, những giây phút bâng khuâng và cả những giọt nước mắt âm thầm. Có nụ cười nào chợt hiện trên môi cô học trò khi cô đang nhìn bầu trời xanh thẳm. Phải chăng bạn ấy mơ thành cánh chim bay vút trời xanh? Có ai từng mơ màng nhìn về phía hoàng hôn tím ngát, trong lòng dìu dịu một nỗi buồn không tên? Và những cánh bằng lăng tím, những bông phượng rực tỡ tươi màu có gợi cho bạn nỗi buồn chia xa khi mùa hè tới?… Sống giữa thiên nhiên, chúng ta được thiên nhiên sẻ chia bao điều quý giá. Được sống giữa thiên nhiên là niềm hạnh phúc với mỗi người. Thiên nhiên làm tâm hồn ta phong phú, đẹp đẽ. Và đến lượt mình, sống gần gũi, thân thiện và biết góp phần bảo vệ thiên nhiên là việc cần làm của mỗi chúng ta. Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Bài số 5 Nguyễn Trãi là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam, ông là một trong những nhà văn có công rất lớn trong sự nghiệp chiến đấu để bảo vệ đất nước, là một người có tài năng ông đã dùng tài năng đó để thể hiện trong thơ ca của mình để nói về tấm lòng trong sạch yêu nước thương dân tiêu biểu là bài Côn Sơn Ca. Bài thơ côn sơn ca là bài thơ nói về khung cảnh thiên nhiên ở côn sơn khi tác giả về đây ở ẩn, khung cảnh thiên nhiên đã làm cho tác giả có cảm xúc để sáng tác lên bài thơ này, hình ảnh bức tranh thiên nhiên đã thể hiện rất rõ trong tác phẩm này, tiếng suối chảy ở côn sơn làm cho tác giả có những cảm giác nghe vui tai, những đá rêu phong bên dòng suối, hàng loạt những hình ảnh khác như những viên đá ghềnh, những tiếng suối chảy tác giả đã miêu tả và so sánh nó giống như tiếng đàn, hình ảnh tiếng suối được so sánh với tiếng đàn chứng tỏ nó rất hay và để lại cho tác giả những cảm giác gần gũi và tác giả đang có những cảm giác mong nhớ về hình ảnh thiên nhiên nơi đây, hình ảnh đó đã tác động đến tâm hồn của tác giả: Côn Sơn suối chảy rì rầm, Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. Côn Sơn có đá rêu phơi, Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm. Trong ghềnh thông mọc như nêm, Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm. Trong rừng có bóng trúc râm, Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn. Tác giả đang ngồi trên không gian rộng lớn của Côn Sơn, tác giả quan sát và hàng loạt những hình ảnh thiên nhiên đã hiện lên và nó thể hiện được một điều rằng tác giả có tấm lòng yêu thiên nhiên rất sâu sắc. Những hình ảnh thiên nhiên hiện lên rất hùng vĩ và phong phú trong đoạn thơ đầu, những hình ảnh thiên nhiên nhẹ nhàng làm cho tâm hồn của tác giả cảm thấy rất thanh thản, ngồi trên đá rêu phong mà tựa như ngồi trên ghế đệm êm, trong dòng suối có những thác ghềnh thì tưởng như đang ngồi như nêm, đứng trong bóng mát, trong bóng trúc râm để ngâm thơ, đây là những giây phút thanh nhàn trong cuộc đời của tác giả, tác giả đã cáo quan về ở ẩn và khi về tới Côn Sơn tâm hồn của tác giả như đang hòa cùng với thiên nhiên, nó thể hiện một tâm hồn đồng điệu của tác giả với không gian rộng lớn. Những hình ảnh đó gần gũi và nó gắn bó với tâm hồn của tác giả, tác giả đang thể hiện những nỗi lòng của mình trong đó, những hình ảnh mà tác giả tưởng tượng nó có ảnh hưởng rất lớn đến tâm hồn và khoảng thời gian tác giả ở lại nơi đây. Khi cáo quan về ở ẩn tác giả đã hòa cùng với thiên nhiên để sống một cuộc đời an nhàn không vướng bận việc đời, là một người rất yêu nước nhưng vì để giữ lấy tấm lòng trong sạch của mình nên Nguyễn Trãi đã về ở ẩn tại Côn Sơn và không gian nơi đây đã tạo điều kiện cho tác giả sáng tác ra những vần thơ hay và nó thể hiện được tấm lòng trong sáng của tác giả: Về đi sao chẳng sớm toan, Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi? Muôn chung chín vạc làm gì, Cơm rau nước lã nên tuỳ phận thôi. Đổng, Nguyên để tiếng trên đời, Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan. Lại kia trên núi Thú San, Di, Tề nhịn đói chẳng màng thóc Chu. Hai đàng khó sánh hiền ngu, Đều làm cho thỏa được như ý mình. Trăm năm trong cuộc nhân sinh, Người như cây cỏ thân hình nát tan. Nửa cuộc đời của tác giả đã gắn bó và cống hiến cho sự nghiệp của đất nước nhưng chỉ vì muốn giữ lại tấm lòng trong sạch của mình nên ông đã ở ẩn, một cuộc sống hồng trần vướng bận nhiều việc nên ông đã không có thời gian cho chính bản thân mình, nhưng nay ông quyết định về ở ẩn nhưng trong lòng vẫn muôn phần lo cho đất nước, về cùng với những bữa cơm rau muống, nhưng vì danh tiếng muôn đời nên ông đã quyết định về ở ẩn và sống giữa khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, tâm hồn hòa nhập với thiên nhiên để nghĩ về nhiều điều trong cuộc sống này, ông đã nghĩ lại những quãng thời gian khi còn sống ở trong triều đình, sống một cuộc sống bon tren, và cả đời của ông vẫn mong muốn phục vục cho dân cho nước, đó là những tình cảm rất đáng quý trong con người của tác giả. Tác giả đã sử dụng hàng loạt những hình ảnh thể hiện một cuộc đời vướng bận và lo toan của mình, nửa đời đã vướng hồng trần đến cuối đời ông muốn thanh tĩnh và sống cùng với thiên nhiên, trăm năm trong cõi nhân sinh sống cùng với nhân dân phục vụ cho nhân dân, người được miêu tả như cây cỏ đã nát tan giữa những chốn xa hoa của triều đình tác giả đã quyết định sống một cuộc sống an nhàn và yên tĩnh, hết những lo toan trong triều chính, nhưng bên trong con người của tác giả dù đã về ở ẩn những ông thực chất không nguôi nhớ và nghĩ cho vận mệnh của đất nước, một người có tấm lòng rất cao quý và muôn đời muốn giữ lại tiếng thơm của mình của muôn đời. Ông là một biểu tượng cho những con người cao quý ông đã gắn bó và cả đời phục vụ cho nhân dân cho đất nước, bài côn sơn ca là bài thơ ông viết khi ông về ở ẩn ở côn sơn khi ông sống giữa thiên nhiên rộng lớn, và đó là cảm xúc để tạo nên một không gian rộng lớn cho ông: Trăm năm trong cuộc nhân sinh, Người như cây cỏ thân hình nát tan. Hết ưu lạc đến bi hoan, Tốt tươi khô héo, tuần hoàn đổi thay. Núi gò đài các đó đây, Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh. Sào, Do bằng có tái sinh, Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn. Những đổi thay trong cuộc đời của tác giả khi thì bình an, khi lại gặp những tai ương con người cũng giống như cây cỏ hoa lá khi tốt tươi khi héo úa, tác giả đã dùng thiên nhiên để nói về chính cuộc đời của mình, cuộc đời của ông cũng gặp rất nhiều những tai ương khi ông lâm vào vụ án lệ chi viên cả nhà bị giết chỉ còn ông duy nhất, cuộc đời của ông gặp nhiều khó khăn bất hạnh, nhưng những lời tâm sự về cuộc đời của mình cũng được hòa vào cùng với thiên nhiên và dùng thiên nhiên để làm rõ những điều mà tác giả đã thể hiện trong tâm hồn của mình, một tấm lòng yêu nước và thương dân muốn phục vụ cho nhân dân nhưng cũng không được sống tốt tươi mà cũng vướng vào rất nhiều những chuyện trần đời. Ông cho rằng sống và chết đi vẫn còn giữ được danh tiếng vì vậy ông đã về ở ẩn, bài ca côn sơn là bài thơ tiêu biểu của ông khi về ở ẩn, và những hình ảnh thiên nhiên đã làm nổi bật lên những tâm sự thời thế của ông, dù về ở ẩn nhưng những tâm sự đó vẫn được thể hiện rõ trong thơ ca của ông những lo lắng cho vận mệnh của đất nước, những tâm sự về cuộc đời của mình, tất cả đều được thể hiện sâu sắc trong bài thơ của ông. Khung cảnh thiên nhiên nhẹ nhàng với những tiếng suối vang trong không gian rộng lớn đã làm cho ông có một tâm hồn nhẹ nhàng hòa nhập với tiếng suối những không gian thiên nhiên đã nổi bật trong thơ ca của ông, ông cũng muốn nói về cuộc đời và những tâm sự về cuộc đời và những điều đáng quý trong con người của ông. Bài thơ Côn Sơn Ca có khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ nó thể hiện một không gian thiên nhiên đẹp và yên tĩnh nó phù hợp với không gian mà tác giả về ở ẩn, dù có không gian rộng lớn yên tĩnh nhưng tác giả vẫn không ngừng nghĩ về thời thế của đất nước và những vận mệnh trong cuộc đời của mình. Một người luôn vì nhân dân, suốt đời gắn bó với nhân dân đã để lại cho đời nhiều tiếng thơm, cả cuộc đời ông phục vụ cho dân cho nước, khi về ở ẩn thì tâm trạng vẫn đầy thời thế nó mang một ý nghĩa rất đặc biệt đối với đất nước và đối với dân chúng, mỗi người đều có cái nhìn rất sâu sắc và tràn đầy thiện cảm đối với Nguyễn Trãi, trong bài Côn Sơn ca ông đã nêu ra một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ với những khung cảnh thơ mộng và những âm thanh vang rộn nó mang một âm hưởng nhẹ nhàng và tình tứ, ngoài ra dựa vào thiên nhiên ông cũng diễn tả tâm sự về thời thế và cuộc đời của mình. Mỗi một giai đoạn ông lại có những suy nghĩ riêng và nó đều liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh và thời thế của đất nước. Nguyễn Tuyến tổng hợp Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Văn mẫu lớp 7Đánh giá bài viết Từ khóa tìm kiếmcam nghi cua em ve chuyen di con sonphat bieu cam cam nghi cua em ve bai tho bai tho con son cua nguyen traiphát biểu suy nghĩ va tinh cam về bài ca côn sơn rằm tháng riêngTâm hôn Nguyễn Trãi qua bài thơ Côn Sơn Ca có điểm rất giống tâm hôn chủ tịch Hồ chí Minh ở bài thơ Cảnh Khuya Điểm giống nhau đó là gì ? Em hãy viết bài văn nêu cảm nghĩ của mình về vẻ đẹp tâm hồn của 2 tác giảtìm ý và lap dàn ý bài van cam nghi ve bai ca con son lop 7 Có thể bạn quan tâm?Chứng minh rằng “Bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta” – Văn mẫu lớp 7Giải thích và chứng minh rằng nhân dân Việt Nam từ xưa đến nay luôn sống theo đạo lý: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây và Uống nước nhớ nguồnBình luận câu tục ngữ “Ăn cây nào, rào cây nấy” – Văn mẫu lớp 7Phát biểu cảm nghĩ về bài Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư) – Văn mẫu lớp 7Cảm xúc về một con vật nuôi – Văn mẫu lớp 7Cảm nghĩ của em về người cha thân yêu – Văn mẫu lớp 7Phát biểu cảm nghĩ về bài văn Cổng trường mở ra – Văn mẫu lớp 7Giải thích và chứng minh luận điểm “Lòng khiêm tốn có thể coi là …” – Văn mẫu lớp 7
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Bài số 1
Là một anh hùng dân tộc, Nguyễn Trãi có công lớn cùng Lê Lợi dấy lên khởi nghĩa Lam Sơn, đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh, giành lại độc lập cho nước ta.
Sau chiến thắng, không được tin dùng, ông lui về quê ngoại làm lều cỏ trên núi Côn Sơn ở ẩn. Bài ca Côn Sơn, bài thơ ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên và bày tỏ tâm sự của mình có lẽ đã được Nguyễn Trãi sáng tác trong thời khoảng này. Tuy phải xa lánh triều đình nhưng ông luôn canh cánh bên lòng hoài bão được mang tài trí ra giúp dân, giúp nước.
Phần trích giảng in trong sách giáo khoa là đoạn mở đầu bài thơ chữ Hán vừa nói đã được dịch ra thơ lục bát. Đoạn này chủ yếu ca ngợi cảnh đẹp trên núi Côn Sơn.
Bằng lối đặc tả, tám câu thơ đã làm nên một bức tranh thủy mặc đầy sảng khoái, biểu hiện sự quan sát đầy tinh tế, sự cảm nhận đầy sâu lắng của thi nhân, của tâm hồn một trang hiền sĩ tưởng như không vướng bận bụi trần. Nổi lên trên những đường nét chấm phá hữu tình là suối, là đá, là cây. Suối hiện ra bằng âm thanh róc rách của tiếng đàn trời:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Đá hiện ra với những trận mưa dội lên đá và những tưởng lớp rêu xanh biếc êm ái phủ lên bề mặt, khiến tác giả ngồi lên như ngồi trên thảm chiếu hoa.
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Cây hiện lên trong một bức tranh mênh mông trải rộng ra tít tắp những trúc, những thông:
Trong ghềnh thông mọc như nêm
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm
Trong rừng có bóng trúc râm
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
Người đọc tha hồ mà tưởng tượng theo sự gợi mở của tác giả. Cây thông đứng reo giữa trời chịu rét là hình ảnh bất khuất của bậc anh hùng. Trúc “tiết trực tâm hư” dầu ở đâu, lúc nào cũng tươi tốt, là dáng dấp từ ngàn xưa của người quân tử. Cây cao tán rợp gợi dáng lọng che. Tiếng đàn suối nhắc nhở nhã nhạc. Thảm êm, lối trúc nhắc nhở triều đình. Phải chăng theo Nguyễn Trãi, thà làm thảo mộc vô tri còn hơn làm trang tài trí mà phải mang thân cúi luồn quản gian nịnh?
Thấp thoáng trong từng câu chữ của đoạn thơ là bóng dáng đầy tìm cách an hưởng thú nhàn của tác giả. Thực ra đó chỉ là bề ngoài. Bên trong tâm hồn Nguyễn Trãi lúc nào cũng "đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng" lo dân, thương nước. Chính vì vậy, khi Lê Thái Tông thấu hiểu lòng ông, mời ông trở lại triều đình, ông lại hăng hái về triều kề vai gánh vác việc dân việc nước.
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Bài số 2
Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) là một bài thơ chữ Hán nổi tiếng. Có lẽ Nguyễn Trãi viết bài thơ này trong thời kì ông cáo quan về ở ẩn ở Côn Sơn để giữ cho tâm hồn được thanh cao, trong sạch.
Đối với Nguyễn Trãi, Côn Sơn là một miền đất có sức hút kì lạ. Chẳng thế mà hai lần cáo quan về ở ẩn, ông đều tìm về với Côn Sơn. Và núi rừng Côn Sơn thanh vắng đã trở thành một thế giới riêng đầy thân thương gắn bó với thi nhân. Tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi đượcsống với chính mình. Dường như thiên nhiên đã trở thành cứu cánh cho tâm hồn ông- một tâm hồn đớn đau vì nhân tình thế thái. Tại Côn Sơn, mọi vật đối với ông trở nên có tình, có nghĩa, như bầu bạn, như tri âm:
Núi láng giềng, chim bầu bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh tam
(Thuật hứng – Bài 19)
Cảnh trí Côn Sơn thanh tĩnh, rộng mở, để cho tâm hồn Nguyễn Trãi hoá thân tìm về, ùa vào đó mà quên đi mọi nỗi ưu phiền:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Trích Côn Sơn ca).
Đoạn mở đầu bài Côn Sơn ca đem đến cho người đọc bao cảm nhận mới mẻ về tâm hồn thi sĩ của Ức Trai. Trong cảm xúc của ông, cảnh trí Côn Sơn hiện ra thật thơ mộng và lãng mạn: có tiếng suối chảy rì rầm, có đá rêu phơi êm ái, có rừng thông mọc rậm, dày, có rừng trúc xanh mát…, vừa có cái hoang dã của thiên nhiên, vừa có hơi ấm của cuộc sống đầy ắp tình người. Hơn nữa, trong con mắt thi nhân, thiên nhiên không chỉ là cảnh, mà đã trở thành nhà. Ngôi nhà thiên nhiên ấy thật đặc biệt: suối là đàn, rêu là chiếu, bóng thông làm giường, bóng tre trúc là nơi ngâm vịnh thơ ca. Thật là tuyệt thú! Và trong ngôi nhà thiên nhiên ấy, ông để tâm hồn mình giao hoà với cảnh và vẽ lại nó bằng một ngọn bút tài hoa.
Bức tranh thiên nhiên được chấm phá bằng âm thanh rì rầm của tiếng suối được cảm nhận như tiếng đàn:
Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Một hình ảnh so sánh thật độc đáo và gợi cảm. Suối đang chảy hay thi nhân đã thả hồn mình vào tiếng suối, làm rung lên cung đàn diễn tả nỗi khát khao yêu cuộc sống?
Năm trăm năm sau, thi sĩ Hồ Chí Minh cũng có chung cảm nhận ấy:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Phải chăng những tâm hồn nghệ sĩ đã tìm về với nhau?
Sau những giây phút thả hồn mình cùng tiếng suối, thi nhân lặng đến ngồi bên những phiến đá mà thời gian đã rêu phong bao phủ. Ông ngồi chơi ngắm cảnh, hay ngồi đánh cờ một mình? Có lẽ là cả hai. Trên nhân gian này, không ít người đã từng ngồi trên đá, nhưng làm sao họ cảm nhận được như thi nhân?
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Một hình ảnh so sánh liên tưởng đầy thú vị khiến ta không khỏi ngỡ ngàng. Nguyễn Trãi trở về Côn Sơn không phải là để ẩn dật theo đúng nghĩa của cách sống ẩn dật, mà ông trở về Côn Sơn với nỗi hân hoan đầy tự do của một con người trở về nhà mình (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Và trong ngôi nhà ấy, ông không những được tha hồ nghe nhạc rừng, ngồi trên đá đánh cờ, mà còn được nằm dưới bóng thông râm mát, được ngâm thơ nhàn dưới bóng trúc xanh. Một cuộc sống mà người và cảnh gắn bó với nhau, hoà nhập vào nhau. Lòng Ức Trai thanh thản đến lạ kì.
Chưa bao giờ mà tâm hồn thi sĩ của Ức Trai lại được bộc lộ đầy đủ, sâu sắc và đầm thắm đến thế!
Cũng tại Côn Sơn này, hồn thơ Ức Trai còn tiếp tục rộng mở để đón nhận thiên nhiên, chở thiên nhiên về chất đầy kho:
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yến hà nặng vay then
(Thuật hứng – Bài 24)
Tình yêu thiên nhiên sâu nặng đến mức thi nhân sợ bóng hoa tan mà không dám quét nhà:
Hé cửa, đêm chờ hương quế lọt,
Quét hiên, ngày đợi bóng hoa tan
(Quốc Âm thi tập – Bài 160)
Nhân cách thanh cao và tâm hồn thi sĩ của nguyễn Trãi thực sự là tấm gương sáng để ta soi vào.
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Bài số 3
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu là Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc xã Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Gia đình đến lập nghiệp ở làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây và Nguyễn Trãi được sinh ra tại đây. Năm 1400, ông đậu thái học sinh và ra làm quan trong triều nhà Hồ. Sau đó tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, với vai trò quân sư bên cạnh chủ tướng Lê Lợi. Nguyễn Trãi là nhà tư tưởng, nhà quân sự thiên tài, nhà ngoại giao xuất chúng, nhà văn hóa, nhà thơ nỗi lạc. Ông đã để lại cho đòi một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập…
Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian hòa bình, ông dã cáo quan về sống ở Côn Sơn. Côn Sơn không chỉ là quê hương mà còn là mảnh đất nuôi dưỡng tâm hồn Nguyễn Trãi.
Côn Sơn ca vừa là bài ca thiên nhiên vừa là bài ca tâm trạng. Hai ý này hòa quyện thống nhất trong cảm xúc của thi nhân. Đoạn trích miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên nhưng vẫn thấm nhuần ý vị trữ tình của tâm trạng.
Trong nguyên văn chữ Hán, Bài ca Côn Sơn được viết theo thể thơ khác nhưng bản dịch đã chuyển thành thể lục bát:
Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn có đa rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong rừng thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm,
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn…
Sự giao hòa tuyệt đối giữa con người với cảnh vật được thể hiện khá rõ trong đoạn thơ, qua đó phản ánh nhân cách thanh cao và tâm hồn phóng khoáng của Nguyễn Trãi.
Trước hết, ta hãy thưởng thức giọng thơ sảng khoái, hứng khởi, bộc lộ qua các câu thơ tự do trong nguyên văn chữ Hán:
Côn Sơn hữu tuyền,
Kì thanh linh linh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đạm tịch.
Nham trung hữu tùng,
Vạn lí thúy đồng đồng.
Ngô ư thị hồ,
Yến tức kì trung.
Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục
Ngô ư ngâm tiếu kì khắc.
Nhịp thơ rộn rã như nhịp đàn, nhịp phách. Tinh thần sảng khoái trong tâm hồn thi sĩ đã tạo nên chất phóng khoáng của lời thơ.
Gần trọn cuộc đời lo cho dân, cho nước, nhưng những năm cuối đời, Nguyễn Trãi phải sống trong sự đố kị, ghen ghét của đám nịnh thần. Vì vậy, khi trở về Côn Sơn, Nguyễn Trãi như con chim bằng sổ lồng tung cánh, cảm thấy mình thật sự tự do giữa trời cao đất rộng. Lúc này, ông mới được sống thật với chính mình, mới được là mình. Thi sĩ lúc dạo chơi, khi nằm nghỉ, khi chuyện trò tâm sự với những người nông dân áo vải, lúc cao hứng ngâm nga, vui say giữa rừng núi quê nhà. Phong thái nhà thơ thật giản dị, ung dung mà cũng thật cởi mở, chan hòa.
Trong Bài ca Côn Sơn, cảnh vật thiên nhiên hiện lên với dòng suối trong chảy róc rách, rì rầm như tiếng đàn lúc khoan, lúc nhặt. Phiến đá phẳng phủ rêu xanh mướt, mịn như chiếu êm. Thông, tùng mọc như nêm; rừng trúc bạt ngàn màu xanh tươi mát. Qua nét vẽ tài hoa của ngòi bút Nguyễn Trãi, khung cảnh Côn Sơn hiện liên với những đặc điểm riêng biệt, không lẫn với bất cứ bức tranh sơn thủy nào.
Trong bài thơ, đại từ ta xuất hiện năm lần. Ta ở đây chính là Nguyễn Trãi. Ta nghe tiếng suối mà như nghe tiếng đàn. Ta ngồi trên đá lại tưởng ngồi chiếu êm. Ta nằm hóng mát, ta ngâm thơ nhàn… Giữa khung cảnh mơ mộng, hình ảnh của thi sĩ giống như một nhà hiền triết hoặc một ông Tiên ông đang đắm mình vào thiên nhiên tuyệt mĩ.
Nguyễn Trãi vừa là thi sĩ rung cảm trước cái đẹp, vừa là họa sĩ vẽ nên phong cảnh hữu tình của Côn Sơn. Ông đã vẽ bức tranh Côn Sơn với cây, với suối, với nhân vật trữ tình là chính mình. Đồng thời, ông còn là một nhạc sĩ tài hoa, bằng những nốt nhạc bổng trầm, dệt nên Bài ca Côn Sơn du dương cuốn hút lòng người.
Thiên nhiên Côn Sơn khoáng đạt và thanh tĩnh. Bao trùm lên tất cả là sắc lá xanh ngời. Ở đây có suối chảy rì rầm, có bàn đá rêu phơi, có rừng tùng, rừng trúc che ánh nắng mặt trời, tạo ra khung cảnh tao nhã cho thi nhân ngồi ngâm thơ nhàn một cách thú vị… Hình ảnh cây trúc, cây tùng trong văn chương tượng trưng cho khí phách cứng cỏi của người quân tử : Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất.
Nhà thơ hòa mình vào thiên nhiên hoang sơ đầy quyến rũ. Từ tiếng suối chảy róc rách, những tấm thảm rêu biếc, những tán thông kiêu hãnh, rừng trúc xanh tươi đều toát lên vẻ yên ả, đem lại sự thanh nhàn, bình yên cho tâm hồn. Bao lo lắng, phiền muộn của cuộc đời dường như được trút sạch, con người và thiên nhiên hòa làm một.
Bức tranh Côn Sơn được Nguyễn Trãi cảm nhận không chỉ bằng thị giác, thính giác mà còn được cảm nhận bằng cả trái tim. Người đọc nhận ra cái "tâm" trong sáng và cái tài độc đáo của thi nhân qua bài thơ này.
Bóng dáng nhà thơ hiện lên mờ ảo, thấp thoáng. Dường như ông hòa lẫn vào suối, vào rêu, vào đá, vào thông, vào trúc. Cái bóng dáng ẩn hiện và tiếng ngâm thơ trầm bổng, ngân nga trong không gian ấy gần như đã thể hiện đúng hoàn cảnh và tâm trạng của Nguyễn Trãi lúc bấy giờ.
Nếu như ở bốn câu đầu, cảnh thiên nhiên Côn Sơn được miêu tả khách quan thì ở các câu thơ sau, tác giả lại kín đáo lồng vào trong đó lời khuyên xuất thế. Khi Nguyễn Trãi cáo quan về quê, mọi người đều tưởng ông bất mãn, chán đời, lui vào ẩn dật để quên mình, quên đời… nhưng không phải vậy. Lê Thánh Tông hiểu lòng ông, vời ông ra làm việc, ông lại hăng hái về triều, gánh vác việc dân, việc nước. Trong biểu tạ ơn vua, Nguyễn Trãi đã tự ví: Thần như con ngựa già còn ham rong ruổi…
Nếu so sánh câu thơ: Côn Sơn có suối rì rầm, Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai của Nguyễn Trãi với câu thơ: Tiếng suối trong như tiếng hát xa của Hồ Chí Minh trong bài Cảnh khuya, chúng ta sẽ thấy cả hai đều là cảm xúc của tâm hồn thi sĩ tinh tế, cùng tưởng tượng tiếng suối giống như tiếng nhạc, tiếng hát tuyệt vời.
Hai người cùng chung đề tài, chung biện pháp nghệ thuật so sánh nhưng khác nhau ở vị thế lúc làm thơ.
Bài ca Côn Sơn được sáng tác khi Nguyễn Trãi bất đắc dĩ phải sống ẩn dật ở Chí Linh. Còn Cảnh khuya được nhà cách mạng Hồ Chí Minh viết trong lúc giữ cương vị tổng chỉ huy củ cuộc kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc. Hai cảnh ngộ, hai tâm trạng khác nhau, tuy đều lấy tiếng suối làm mạch nguồn cảm xúc nhưng sự cảm nhận và liên tưởng của mỗi người lại thể hiện nét riêng mang đậm dấu ấn cá nhân và tinh thần thời đại.
Hai nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, hai thi nhân tầm vóc thời đại tuy sống cách nhau năm thế kỉ nhưng giống nhau ở cảm hứng mãnh liệt trước thiên nhiên tươi đẹp. Chỉ khác là nghe tiếng suối, Nguyễn Trãi liên tưởng đến tiếng đàn huyền diệu, còn Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nghĩ tới âm hưởng hùng tráng của bài ca chiến thắng trong tương lai.
Đọc những bài thơ của Nguyễn Trãi viết về cảnh vật thôn quê, chúng ta hiểu thêm về tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng của ông. Bài ca Côn Sơn khiến lòng ta xao xuyến, bồi hồi và càng thêm gắn bó với từng mảnh vườn, góc phố quê hương.
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Bài số 4
Muôn đời nay, thiên nhiên vẫn là người bạn thân thiết, là nguồn cảm hứng vô tận đối với các thi nhân Đông, Tây, kim, cổ. Qua những bài thơ Bài ca Côn Sơn, Cảnh khuya, Rằm tháng giêng, Xa ngắm thác núi Lư, ta có thể cảm nhận được tình cảm yêu mến của các nhà thơ dành cho thiên nhiên tươi đẹp.
Có ai không ngỡ ngàng, sung sướng bởi sự phong phú, tươi đẹp, sinh động của thiên nhiên quanh mình? Chỉ qua một số bài thơ, ta bắt gặp đây núi Côn Sơn – nơi có “suối chảy rì rầm”, có “đá rêu phơi”, có “rừng thông mọc như nêm”; đây thác núi Lư – “nước bay thẳng xuống ba nghìn thước”; rồi đây nữa, cảnh những đêm khuya với “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”, “sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”… Quả thực, thiên nhiên muôn hình vạn trạng bao đời nay vẫn khiến con người ngẩn ngơ. Không phải tới nơi núi hùng vĩ, không cần phải đến nơi bờ biển sóng vỗ dạt dào… sống yên bình trên mảnh đất quê hương, ngắm nhìn nơi chôn rau cắt rốn, ta vẫn thấy lòng dạt dào bởi vẻ đẹp của thiên nhiên xứ sở. Mỗi sớm mai trong trẻo, ánh mặt trời rực rỡ đánh thức nhân gian, mời gọi mọi người đón chào ngày mới. Khẽ vươn vai trở dậy, nhìn ra vườn lại nghe thấy tiếng chim lích rích chuyền cành, lòng người thấy rạo rực làm sao! Trong giây phút xôn xao ấy, có ai không hào hứng với công việc của một ngày mới? Bước nhẹ ra đường, bầu trời xanh cao lồng lộng, gió nhẹ nghịch ngợm mơn man đôi bím tóc, và bên đường, cánh đồng lúa chín rộ một sắc vàng như mật rót… Chiều về, mặt trời không còn chiếu nhựng tia nắng chói chang mà khoác lên mình chiếc áo tà dương với ráng hồng huyền diệu. Rồi đêm tối theo làn gió nhè nhẹ hạ xuống, mặt trời đi để gọi trăng về. Khắp không gian mênh mang thứ ánh sáng dịu dàng, mềm mại. Khi ấy, có ai ngồi bên dòng sông quê hương hẳn sẽ giật mình vì ngõ con sông được đất trời dát bạc… Đấy! Chỉ bấy nhiêu thôi đã đủ làm ta sung sướng bằng lòng với sự giàu có của thiên nhiên quanh mình. Chỉ bấy nhiêu thôi đã khiến hồn ta xao xuyến, thấy say mê với sự sống bình dị chốn làng quê…
Thiên nhiên muôn đời là người bạn thân thiết của con người. Thiên nhiên chẳng những hiện hữu trong thơ ca, nhạc họa, mà còn sông trong lòng ta như những kỉ niệm đẹp đẽ; sẻ chia với ta bao buồn vui của cuộc sống. Xưa, Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn, rừng núi Côn Sơn từng giúp thi nhân xoa dịu nỗi ưu phiền. Lí Bạch mượn hình ảnh thác núi Lư để nói lên chính mình. Nay, Bác Hồ cũng mượn cảnh đêm khuya, rằm tháng giêng để gợi tấm lòng dành cho quê hương, đất nước,… Giờ đây, thiên nhiên vẫn chia sẻ với chúng ta những nụ cười, những giây phút bâng khuâng và cả những giọt nước mắt âm thầm. Có nụ cười nào chợt hiện trên môi cô học trò khi cô đang nhìn bầu trời xanh thẳm. Phải chăng bạn ấy mơ thành cánh chim bay vút trời xanh? Có ai từng mơ màng nhìn về phía hoàng hôn tím ngát, trong lòng dìu dịu một nỗi buồn không tên? Và những cánh bằng lăng tím, những bông phượng rực tỡ tươi màu có gợi cho bạn nỗi buồn chia xa khi mùa hè tới?… Sống giữa thiên nhiên, chúng ta được thiên nhiên sẻ chia bao điều quý giá.
Được sống giữa thiên nhiên là niềm hạnh phúc với mỗi người. Thiên nhiên làm tâm hồn ta phong phú, đẹp đẽ. Và đến lượt mình, sống gần gũi, thân thiện và biết góp phần bảo vệ thiên nhiên là việc cần làm của mỗi chúng ta.
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bài ca Côn Sơn – Bài số 5
Nguyễn Trãi là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam, ông là một trong những nhà văn có công rất lớn trong sự nghiệp chiến đấu để bảo vệ đất nước, là một người có tài năng ông đã dùng tài năng đó để thể hiện trong thơ ca của mình để nói về tấm lòng trong sạch yêu nước thương dân tiêu biểu là bài Côn Sơn Ca.
Bài thơ côn sơn ca là bài thơ nói về khung cảnh thiên nhiên ở côn sơn khi tác giả về đây ở ẩn, khung cảnh thiên nhiên đã làm cho tác giả có cảm xúc để sáng tác lên bài thơ này, hình ảnh bức tranh thiên nhiên đã thể hiện rất rõ trong tác phẩm này, tiếng suối chảy ở côn sơn làm cho tác giả có những cảm giác nghe vui tai, những đá rêu phong bên dòng suối, hàng loạt những hình ảnh khác như những viên đá ghềnh, những tiếng suối chảy tác giả đã miêu tả và so sánh nó giống như tiếng đàn, hình ảnh tiếng suối được so sánh với tiếng đàn chứng tỏ nó rất hay và để lại cho tác giả những cảm giác gần gũi và tác giả đang có những cảm giác mong nhớ về hình ảnh thiên nhiên nơi đây, hình ảnh đó đã tác động đến tâm hồn của tác giả:
Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm.
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
Tác giả đang ngồi trên không gian rộng lớn của Côn Sơn, tác giả quan sát và hàng loạt những hình ảnh thiên nhiên đã hiện lên và nó thể hiện được một điều rằng tác giả có tấm lòng yêu thiên nhiên rất sâu sắc. Những hình ảnh thiên nhiên hiện lên rất hùng vĩ và phong phú trong đoạn thơ đầu, những hình ảnh thiên nhiên nhẹ nhàng làm cho tâm hồn của tác giả cảm thấy rất thanh thản, ngồi trên đá rêu phong mà tựa như ngồi trên ghế đệm êm, trong dòng suối có những thác ghềnh thì tưởng như đang ngồi như nêm, đứng trong bóng mát, trong bóng trúc râm để ngâm thơ, đây là những giây phút thanh nhàn trong cuộc đời của tác giả, tác giả đã cáo quan về ở ẩn và khi về tới Côn Sơn tâm hồn của tác giả như đang hòa cùng với thiên nhiên, nó thể hiện một tâm hồn đồng điệu của tác giả với không gian rộng lớn.
Những hình ảnh đó gần gũi và nó gắn bó với tâm hồn của tác giả, tác giả đang thể hiện những nỗi lòng của mình trong đó, những hình ảnh mà tác giả tưởng tượng nó có ảnh hưởng rất lớn đến tâm hồn và khoảng thời gian tác giả ở lại nơi đây. Khi cáo quan về ở ẩn tác giả đã hòa cùng với thiên nhiên để sống một cuộc đời an nhàn không vướng bận việc đời, là một người rất yêu nước nhưng vì để giữ lấy tấm lòng trong sạch của mình nên Nguyễn Trãi đã về ở ẩn tại Côn Sơn và không gian nơi đây đã tạo điều kiện cho tác giả sáng tác ra những vần thơ hay và nó thể hiện được tấm lòng trong sáng của tác giả:
Về đi sao chẳng sớm toan,
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?
Muôn chung chín vạc làm gì,
Cơm rau nước lã nên tuỳ phận thôi.
Đổng, Nguyên để tiếng trên đời,
Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan.
Lại kia trên núi Thú San,
Di, Tề nhịn đói chẳng màng thóc Chu.
Hai đàng khó sánh hiền ngu,
Đều làm cho thỏa được như ý mình.
Trăm năm trong cuộc nhân sinh,
Người như cây cỏ thân hình nát tan.
Nửa cuộc đời của tác giả đã gắn bó và cống hiến cho sự nghiệp của đất nước nhưng chỉ vì muốn giữ lại tấm lòng trong sạch của mình nên ông đã ở ẩn, một cuộc sống hồng trần vướng bận nhiều việc nên ông đã không có thời gian cho chính bản thân mình, nhưng nay ông quyết định về ở ẩn nhưng trong lòng vẫn muôn phần lo cho đất nước, về cùng với những bữa cơm rau muống, nhưng vì danh tiếng muôn đời nên ông đã quyết định về ở ẩn và sống giữa khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, tâm hồn hòa nhập với thiên nhiên để nghĩ về nhiều điều trong cuộc sống này, ông đã nghĩ lại những quãng thời gian khi còn sống ở trong triều đình, sống một cuộc sống bon tren, và cả đời của ông vẫn mong muốn phục vục cho dân cho nước, đó là những tình cảm rất đáng quý trong con người của tác giả.
Tác giả đã sử dụng hàng loạt những hình ảnh thể hiện một cuộc đời vướng bận và lo toan của mình, nửa đời đã vướng hồng trần đến cuối đời ông muốn thanh tĩnh và sống cùng với thiên nhiên, trăm năm trong cõi nhân sinh sống cùng với nhân dân phục vụ cho nhân dân, người được miêu tả như cây cỏ đã nát tan giữa những chốn xa hoa của triều đình tác giả đã quyết định sống một cuộc sống an nhàn và yên tĩnh, hết những lo toan trong triều chính, nhưng bên trong con người của tác giả dù đã về ở ẩn những ông thực chất không nguôi nhớ và nghĩ cho vận mệnh của đất nước, một người có tấm lòng rất cao quý và muôn đời muốn giữ lại tiếng thơm của mình của muôn đời.
Ông là một biểu tượng cho những con người cao quý ông đã gắn bó và cả đời phục vụ cho nhân dân cho đất nước, bài côn sơn ca là bài thơ ông viết khi ông về ở ẩn ở côn sơn khi ông s