Phân tích văn bản Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải – Văn mẫu lớp 8
Phân tích văn bản Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải – Văn mẫu lớp 8 4.8 (96%) 380 votes Phân tích văn bản Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Đồng Nai Trần Tuấn Khải thường mượn những chuyện lịch sử để giãi bày tấm lòng yêu nước, nỗi đau ...
Phân tích văn bản Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải – Văn mẫu lớp 8 4.8 (96%) 380 votes Phân tích văn bản Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Đồng Nai Trần Tuấn Khải thường mượn những chuyện lịch sử để giãi bày tấm lòng yêu nước, nỗi đau mất nước, qua đó mà thức tỉnh tinh thần của đồng bào. Ở những năm ...
Phân tích văn bản Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Đồng Nai
Trần Tuấn Khải thường mượn những chuyện lịch sử để giãi bày tấm lòng yêu nước, nỗi đau mất nước, qua đó mà thức tỉnh tinh thần của đồng bào. Ở những năm đầu thế kỉ XX, ông là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu với giọng điệu bi tráng, thống thiết. Hai chữ nước nhà là tác phẩm tiêu biểu của ông. Dưới hình thức song thất lục bát, bài thơ Hai chữ nước nhà để lại một ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc trong lòng người đọc. "Tâm trạng xã hội khoảng 1926 uất ức, bi tráng, điệu lục bát du dương êm hòa không đủ, mà đòi hỏi một điệu thơ song thất lục bát để toát, để thoát, xé nỗi niềm u uất đè nặng tâm hồn" (Xuân Diệu).
Cuộc chia tay cảm động giữa hai cha con Phi Khanh và Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước mất nhà tan trong bài thơ là những khoảnh khắc đặc biệt, có sức lay động lớn đã được Trần Tuấn Khải sử dụng để kí thác tâm trạng, cảm xúc hiện tại, thực của mình. Lời trăng trối của người cha đối với con khi vĩnh biệt trĩu nặng ân tình, nhuốm đậm những đau thương. Tiếng lòng sầu thảm, ai oán kia khi thì trùng điệp dồn nén, khi thì da diết xót xa. Tác giả quả là đã không uổng công chút nào khi lựa chọn âm điệu phong phú của thể thơ song thất lục bát để dồn tả những tiếng lòng ấy.
Có thể hình dung bố cục của văn bản trích Hai chữ nước nhà thành ba phần. Phần 1 (8 câu thơ đầu): diễn tả tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ éo le, đau lòng; phần 2 (20 câu tiếp): phác họa tình cảnh đau thương tang tóc của đất nước; phần 3 (8 câu thơ còn lại): xót phận mình bất lực, người cha trao gửi cho con tâm nguyện cứu nước. Đi vào tìm hiểu từng phần ta sẽ cảm nhận được mạch xúc cảm thống thiết, chân thành của bài thơ.
Ở 8 câu thơ đầu, tác giả gợi ra bối cảnh không gian biên ải ảm đạm, hun hút và tâm trạng của nhân vật trữ tình. Bốn câu đầu là không gian chia li:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Trong cuộc ra đi không có ngày trở lại thì biên ải này chính là điểm mà Nguyễn Phi Khanh vĩnh biệt tổ quốc, quê hương, vĩnh biệt người con thân yêu của mình. Tâm trạng của kẻ sắp ra đi vĩnh viễn phủ lên khung cảnh vốn đã heo hút, ảm đạm một màu tang tóc, thê lương. Tâm sầu, cảnh sầu cũ khơi gợi lẫn nhau thành một mối sầu thảm tái tê, u hoài dằng dặc. Đoạn thơ này tạo ra không khí chung cho toàn bài, không khí thời cuộc năm xưa (thời Phi Khanh – Nguyễn Trãi) và cũng là không khí của xã hội Việt Nam những năm 20 thế kỉ XX. Bốn câu tiếp đầm đìa máu lệ:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tài lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Giờ phút này đây, cha sẽ ra đi mà chẳng bao giờ về nữa. Đất nước lầm than, cha con li biệt, tình đất nước lớn lao hòa trong tình phụ tử sâu nặng Nguyễn Phi Khanh bị giải sang Tàu. Để làm tròn đạo hiếu với cha già, Nguyễn Trãi muốn đi theo để phụng dưỡng. Nhưng Phi Khanh gạt tình riêng, dằn lòng khuyên con trở lại để trả thù nhà, đền nợ nước. Người sắp ra đi vĩnh viễn thường nói những lời gan ruột, những lời mà người còn sống phải khắc cốt ghi xương.
Tấm lòng đối với đất nước của người cha thật cảm động. Ở những câu thơ tiếp theo trong phần 2 tác giả đã hóa thân vào người trong cuộc li tan để phác ra tình cảnh đau thương của đất nước lầm than nô lệ. Trong đó tác giả sử dụng cả tự sự và miêu tả xen lẫn những lời cảm thán để làm nổi bật nỗi đau mất nước nhà tan, tất cả đang chìm ngập trong thảm họa "xương rừng máu sông"; uất hận sầu đau đang ngùn ngụt ngút trời:
Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông cơ đổ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Nỗi đau ở đây là một nỗi đau lớn, vượt lên nỗi đau riêng để thành nỗi đau cao cả, thiêng liêng của cả đất nước, giống nòi. Sự lớn lao ấy được diễn tả bằng hàng loạt các hình ảnh mang tầm vóc vĩ mô: vong quốc, cơ đồ, đất khóc, giời than, nòi giống. Dòng xúc cảm mãnh liệt thống thiết biểu hiện qua những từ ngữ diễn tả tình cảm ở cung bậc mạnh, bi thiết: kể sao kể xiết, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc than, thương tâm. Mỗi dòng thơ là một tiếng kêu than đứt ruột, đầy những hờn căm, bi phẫn. Chẳng đủ nước mắt để khóc than cho những đớn đau đang tràn ngập giang sơn, đắng cay đành nuốt sâu trong dạ, người cha nhắn nhủ tâm huyết lại cho con:
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…
Nói phận mình bất lực để ủy thác tất cả cho con, cha "tuổi già sức yếu", lại gặp cơn nguy nan, đành uất hận, tủi hờn mà bó tay. Khơi gợi lại truyền thống kiên cường bất khuất của tổ tiên, người cha muốn thắp lên trong người con tin yêu của mình ngọn lửa căm thù xâm lăng, ngọn lửa ý chí quyết tâm khôi phục cơ đồ nước nhà và là cả niềm hi vọng lớn vào con trước khi đi mãi. Lời trao gửi nặng tựa Thái sơn. Nước mất thì nhà cũng tan, thù nhà chỉ có thể trả được khi thù nước đã rửa sạch. Nguyễn Phi Khanh muốn con mình biến nỗi đau mất cha thành nỗi hận mất nước.
Mượn xưa để nói nay, mượn người để nói ta vốn là thủ pháp có từ lâu đời trong truyền thống văn học. Trần Tuấn Khải đã rất thành công khi lựa chọn chuyện chia li giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi để gửi gắm tâm sự, nỗi đau mất nước nhằm khơi gợi tinh thần yêu nước thương nòi khi non sông đang bị giày xéo bởi gót giày thực dân. Bằng tình cảm sâu đậm, mãnh liệt, với một giọng điệu thống thiết, thán ca, tác giả của Hai chữ nước nhà đã thực hiện bổn phận, sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ yêu nước. Thơ ông thôi thúc lòng người, khích lệ mọi người tranh đấu cho giang sơn độc lập, tự do.
Phân tích văn bản Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải – Bài làm 2
Tuy sinh sau Tản Đà sáu năm, nhưng Trần Tuấn Khải vẫn được coi là nhà thơ lãng mạn cùng thời với Tản Đà. Nếu Tản Đà có những ước mơ thoát tục vươn lên chốn bồng lai, thì thi sĩ họ Trần có bút danh Á Nam lại thường trốn tránh thực tại, thả hồn về với quá khứ, nhất là những trang lịch sử quá khứ hào hùng của dân tộc. Qua những câu chuyện, những nhân vật lịch sử, Trần Tuấn Khải gửi gắm lòng yêu nước, thương dân một cách thiết tha mà kín đáo. Nhà thơ Xuân Diộu nhận xét : "Các đề tài của lịch sử nước nhà giúp cho Á Nam cái cớ và cái chất để phóng túng ngòi bút, mở rộng tâm tình và cũng kích động đồng bào, bởi người Việt Nam ta rất yêu nước, động đến lịch sử là rung động dây đàn yêu nước, thương nòi của mọi lòng người". Tác phẩm Hai chữ nước nhà là tiếng nói yêu nước của nhà thơ, cũng là những lời "kích động" tấm lòng yêu nước thương nòi của nhân dân ta lúc bấy giờ. Mượn đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta, hoá thân vào nhân vật Phi Khanh ("Nghĩ lời ông Phi Khanh dặn Nguyễn Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu"), nhà thơ yêu nước Trần Tuấn Khải muốn thức tỉnh nhân dân, trước hết là thế hệ trẻ Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX hãy đứng lên đánh đuổi ngoại xâm, cứu Tổ quốc. Nghĩa trực tiếp của bài thơ – nhất là của đoạn đầu 36 dòng thơ song thất lục bát – là lời cha dặn con, nhưng ý nghĩa chính, cảm hứng bao trùm là tiếng hịch của non sông đất nước truyền ra, thức tỉnh lòng yêu nước, ý chí quật cường, cứu nước của tuổi trẻ Việt Nam. Tiếng hịch ấy vang lên từ hơn tám mươi năm trước mà ngày nay đọc lại, chúng ta vẫn xúc động.
Tám câu thơ mở đầu vẽ lại khung cảnh hai cha con Phi Khanh – Nguyễn Trãi trò chuyện và nỗi lòng sầu tủi của mỗi người :
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tàn lần hước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Cuộc chia li diễn ra nơi biên cương thật heo hút, ảm đạm. Trông lên Bắc, phía Trung Quốc, chi thấy mây sầu. Nhìn về Nam, quê hương đất Việt chỉ nghe tiếng gió dìu hiu. Xung quanh bốn bề rừng núi là tiếng hổ thét, chim kêu,… Đây là điểm giáp ranh hai nước Việt – Trung. Đối với cuộc ra đi không có ngày trở lại của Phi Khanh, thì đây là điểm cuối cùng để rồi vĩnh biệt Tổ quốc, quê hương. Tâm trạng ấy đã phủ lên cảnh vật một màu tang tóc thê lương và cánh vạt ấy lại càng như giục cơn sầu trong lòng người. Ngôn ngữ và giọng điệu thơ thấm một nỗi buồn và rất gợi cảm. Nhà thơ đã hoá thân vào tâm trạng Phi Khanh, miêu tả ngoại cảnh thời kì Phi Khanh – Nguyền Trãi sống, nhưng vẫn gợi cho người đọc không khí thời đại những năm hai mươi đầu thế kỉ XX u ám, sầu thương. Ngôn ngữ thơ tuy có chút cũ kĩ, ước lệ vẫn tạo được không khí cho toàn bài, nhất là nó có ý nghĩa tạo nền cho tâm trạng hai cha con trong cuộc biệt li. Bốn câu tiếp ngay sau đó rớm máu và đẫm lệ. Cha thì uất nghẹn, hòn máu nóng thấm quanh hồn nước ; con thì sụt sùi, tầm tã châu rơi. Hoàn cảnh ấy thật éo le. Cha bị bắt sang Tàu, không ngày trở lại. Con muốn đi theo, phụng dưỡng cha già cho tròn đạo hiếu. Cha rất hiểu lòng con. Nhưng chữ trung lớn hơn chữ hiếu nên cha dằn lòng khuyên con trở lại để lo việc nước. Câu chuyện lịch sử kì diệu, thiêng liêng dó, người dân Việt Nam ai cũng biết và cũng đã từng được nhiều văn nghệ sĩ kể lại, nay được Trần Tuấn Khái nhấn mạnh thêm. Cho nên dù trong ngôn từ có "máu" hoà với "châu rơi", lời cha dặn vẫn rất chân thành và thiêng liêng, không chút sáo mòn, ước lệ. Nói khác đi, đây là lời trăng trối, lòi huyết lệ của tình cha con, cũng lạ lời non sông đất nước. Câu cuối của đoạn thơ : "Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên" rất mộc mạc mà nghe nhói tận trong tim. Nó truyền cám, lay mạnh trái tim người đọc chúng ta. Nhưng có lẽ của cuộc đời và lòng người như thế được thể hiện bằng thể thơ song thất lục bát – một thể thơ vừa gân guốc, trang trọng, vừa mềm dịu, thiết tha – thường dùng làm những khúc ngâm, những trường ca trữ tình. Trong văn học trung đại Việt Nam, chúng ta đã được đọc Chinh phụ ngâm khúc nổi tiếng theo bản dịch chữ Nôm của Đoàn Thị Điểm. Giờ đây, đọc khúc ngâm mở đầu Hai chữ nước nhà này của Trần Tuấn Khái, ta như gặp lại những âm điệu của Chinh phụ ngâm khúc vừa tự sự, vừa miêu tả trữ tình, biểu ý và biểu cảm khá hài hoà.
Xuống đoạn hai – 20 dòng thơ tiếp theo – Nguyễn Phi Khanh nhắc nhở con trai (cũng là lời Á Nam), nhắn gửi người đời về tình cảnh đất nước dưới gót giày quân xâm lược. Sau mấy lời tóm tắt truyền thống anh hùng của dân tộc "Giời Nam riêng một cõi này – Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì", là bức tranh thê thám của non sông đất nước:
Bốn phương khối lửa hừng bừng,
Xiết hao thảm hoạ xương rừng máu sông !
Nơi đô thi thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn,
Lạ gì khác giong dễ còn thương đâu !…
Về nghĩa gốc, doạn thơ miêu tả "vận nước" ta khi bị "quân Minh thừa hội xâm lãng". Nhưng người đọc cảm nhận rõ đây chính là hình ảnh quê hương, Tổ quốc Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và sự suy dồi bạc nhược của triều Nguyễn lúc bấy giờ. Những hình ảnh đặc tả khói lửa hững hừng, thành tung quách vỡ kết hợp với những hình ảnh ẩn dụ xương rừng, máu sông và những chi tiết khái quát bỏ vợ lìa con, xiêu tán hao mòn,… nối tiếp nhau hiện lên. Tác giả dã nhập vai nhủn vật Phi Khanh – một nạn nhân vong quốc đang đi vào cõi chết – vừa miêu tả hiện tình đất nước vừa lên án tội ác kẻ thù. Cho nên, lời thơ vừa tả thực vừa trĩu nặng những cám xúc chân thành, xót thương và căm. giận. Chắc rằng, người đọc những năm hai mươi của thế kỉ XX cũng là những nạn nhân vong quốc đã dỗ dàng dồng cảm với nhà thơ khi đối chiếu ngôn ngữ hình ảnh thơ với thực tế cuộc sống, đất nước ta lúc bấy giờ. Hơn nữa, sau những dòng thơ cực tả như thế, tác giả trực tiếp bày tỏ cảm xúc bàng những lời cảm thán, những tiếng nói từ gan ruột mà thốt lên :
Thâm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông cơ đồ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này !
Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất,
Sóng Hồng Giang nhường vật cơn sầu,
Con ơi ! Càng nói càng đau,
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà ?…
Trừ hai tiếng "con ơi" là lời của Phi Khanh gọi Nguyễn Trãi, còn lại, tất cả chính là lời của nhà thơ, hơn nữa, đây là lời của non nước nhắn gửi quốc dân đồng bào. Vì thế, tác giả đã sử dụng nhiều hình ảnh lớn lao, kì vĩ: đất khóc, giời than, Khói Nùng Lĩnh xây khối uất, Sóng Hồng Giang nhường vật cơn sầu,… Nỗi đau mất nước, mất tự do như lên đến tột đỉnh, kết lại thành những cơn đau xé tâm can, những khối đau cuồn cuộn mịt mờ như sương khói phủ tối núi non, những dòng đau cuồn cuộn, vật vã như sóng nước sông Hồng. Nhà thơ đã sử dụng nhiều từ ngữ khoa trương, nhiều ẩn dụ đặc sắc rất sát hợp những cung bậc cảm xúc vừa đau đớn xót xa vừa căm hờn cháy bỏng. Chẳng rõ, khi viết những dòng thơ này, Á Nam có nghe tiếng đồng vọng của những lời trong Hịch tướng sĩ, nhất là những câu trong Bình Ngô đại cáo ngày xưa :
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bào thần nhân chịu được ?
Dù thế nào thì đây vẫn là những tiếng hịch truyền, những lời bố cáo của một tủm hồn yêu nước thiết tha mong muốn thức tỉnh nhân dân, đồng bào nhận rõ hiện tình đất nước để có những suy nghĩ, những hành động đúng đắn, kịp thời đứng lên cứu nước.
Lời kêu gọi cứu nước tập trung ở tám dòng thơ cuối :
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…
Trở lại với câu chuyện Phi Khanh – Nguyễn Trãi, chúng ta thấu hiểu cảnh ngộ và nỗi lòng của người cha đau đớn. Có lẽ, đau cho thân phận của riêng mình thì ít, mà đau cho vận nước đang cơn bĩ cực thì nhiều, nên Phi Khanh đành "bó tay", chấp nhận "thân lươn bao quản lấm đầu" để gửi gắm tất cả khát vọng và niềm tin vào con trai, vào thế hệ trẻ bấy giờ :
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao,
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây…
Lời Phi Khanh dạy con, hay chính là những tâm sự của Trần Tuấn Khải muốn gửi tới các bạn đọc đương thời ? Nghe giọng điệu bên ngoài thì rõ ràng đây là lời cha dạy con. Các từ ngữ cậy con, con nên nhớ… vang lên trang trọng, tha thiết. Song suy ngẫm vào nội dung bên trong của "lời dạy", ta hiểu rằng đây cũng là lời tâm sự sâu kín của chàng thi sĩ trẻ Trần Tuấn Khải. Bởi vì, tác phẩm Hai chữ nước nhà này được viết năm 1926, lúc nhà thơ 31 tuổi, hẳn chưa dám lên tiếng dạy ai, kêu gọi ai. Nói khác đi, chàng thi sĩ lãng mạn đã hoá thân vào nhún vật lịch sử để giãi bày tâm sự, khát vọng của chính mình. Thấm thìa cảnh ngộ của Phi Khanh và chắc cũng đồng cảm với nỗi niềm Nguyễn Trãi ngày xưa, nhà thơ đã suy ngẫm về lịch sử dân tộc rồi giãi bày khát vọng của chính mình bằng những lời tâm huyết nhất : "Con nên nhớ tổ tông khi trước…". Người thanh niên yêu nước Á Nam "Nghĩ lời ông Phi Khanh…" hay đang mượn lời lịch sử tự dặn mình, để chia sẻ với thế hệ của mình ?
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…
Hình ảnh "ngọn cờ độc lập" in "máu đào" của cha ông được khẳng định rằng "còn dây" mang nhiều nghĩa. Nó vừa nhắc thế hệ con cháu ngày nay niềm tự hào vể truyền thống anh hùng dân tộc, vừa giục giã, khích lệ hành động. Đối chiếu với mấy lời Phi Khanh mở đầu cuộc chia tay "Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên", ta nhận rõ hơn ý nghĩa đoạn thơ cuối này. Đó vùa là lời của cha ông dặn lại con cháu, cũng là lời hịch của lịch sử, của đất nước vọng về, là lời tâm sự của nhà thơ muốn chia sẻ những khát vọng và niềm tin tới thế hệ trẻ, tới nhân dân lúc bấy giờ. Ngày nay, đọc lại những dòng thơ này, chúng ta làm sao không đồng cảm với nhà thơ những khát vọng, niềm tin cao đẹp ấy ? Hình ảnh "ngọn cờ độc lập" tuy kết thúc đoạn trích nhưng lại nhắc ta nhớ tới mấy dòng thơ phần đầu khá ấn tượng :
Giời Nam riêng một cỗi này,
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì !
"Người Việt Nam ta rất yêu nước, động đến lịch sử là rung động dây đàn yêu nước thương nòi của mọi lòng người…". Nhà thơ Xuân Diệu từng nêu lên một nét truyền thống tốt đẹp như thế trong tâm hồn Việt Nam chúng ta. Từ những dòng đầu nối kết với mấy dòng cuối, khúc ca Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải đã rung dộng "dây đàn yêu nước" trong lòng bạn đọc một thời và truyền tới chúng ta ngày nay như thế đó.
Có thể nói, Hai chữ nước nhà là bài thơ nổi tiếng của Trần Tuấn Khải. Nhà thơ mượn một câu chuyện lịch sử đặc biệt, có sức gợi cảm lớn là cuộc chia tay giữa hai cha con Phi Khanh – Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước mất nhà tan để bộc lộ cảm xúc của mình và khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước của đồng bào. Đoạn đầu 36 dòng thơ tiêu biểu cho nội dung và nét đặc sắc nghệ thuật của cả tác phẩm. Đó là lời cha dặn con, hay cũng chính là tiếng hịch truyền cứu nước chân thành thống thiết. Tinh cảm sâu đậm, mãnh liệt đối với nước nhà, sự lựa chọn thể tho thích hợp và giọng điệu trữ tình của tác giá đã tạo nên những giá trị ấy của bài thơ…
Phân tích văn bản Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải – Bài làm 3
Trong rất nhiều những sáng tác văn chương được lưu hành công khai trên văn đàn hợp pháp ba mươi năm đầu thế kỉ XX, bài thơ: Hai chữ nước nhà nhận được sự đón chào nồng nhiệt của công chúng độc giả. Bởi lẽ sáng tác đó đã nói hộ tấm lòng và trái tim yêu nước của người dân Việt Nam lúc bấy giờ.
Là người có trái tim yêu nước sôi nổi, thiết tha, Trần Tuấn Khải xót xa tận đáy lòng trước hiện tình đau thương của đất nước. Để giãi bày tâm sự của mình, ông hóa thân vào các nhân vật lịch sử. Tâm trạng phẫn uất, đau thương của các nhân vật lịch sử trước cảnh nước mất nhà tan cũng chính là tâm trạng của ông. Tình cảm ấy đã trở thành nguồn cảm hứng chân thành và xúc động cho mạch thơ yêu nước của Trần Tuấn Khải tuôn chảy vào lòng người.
Bài thơ Hai chữ nước nhà nằm trong tập Bút quan hoài, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1924. Lấy đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược, Trần Tuấn Khải đã chọn một khoảnh khắc lịch sử đặc biệt để câu chuyện thêm phần xúc động. Đó là giờ phút chia li vĩnh biệt của hai nạn nhân vong quốc: cha con ông Nguyễn Phi Khanh. Cảnh tình ấy khiến lời dặn dò của người cha hóa thành lời trăng trối thấm đầy máu và nước mắt.
Tâm trạng phẫn uất đau thương cùng với lời trăng trối thấm máu và lệ dược nhà thơ diễn tả bằng một lời thơ lâm li, thống thiết của thể song thất lục bát nên có sức rung động và truyền cảm mạnh mẽ.
Cuộc chia li của hai cha con diễn ra ở chốn ải Bắc, nơi tận cùng của đất nước. Người cha li biệt gia đình, quê hương xứ sở để lê tấm thân tàn tới chốn lưu đày biệt xứ. Người con quay trở lại quê hương đất nước mình nhưng tình cảnh cũng chua xót không kém cha: cũng chỉ là một nạn nhân vong quốc! Trong tâm trạng u uất của hai cha con, cảnh vật nhuốm một màu thê lương, tang tóc:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thổi đìu hiu,
Bốn bề hổ thét chim kêu
Và cảnh vật thê lương tang tóc càng làm tăng thêm nỗi sầu muộn, buồn đau trong lòng người:
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Bốn câu song thất lục bát với những từ ngữ, hình ảnh cũ mòn, ước lệ mà lại có sức gợi cảm, tạo được không khí đau thương của cả thời xưa và nay!
Trong không khí tang tóc đau thương của đất nước, tình cảnh của hai cha con càng éo le, chua xót: người con những muốn đi theo cha để làm tròn đạo hiếu, người cha phải dằn lòng khuyên con quay trở lại để lo tính việc trả thù nhà, đền nự nước. Tình cha con tuy thật da diết, nhưng nghĩa nước còn sâu đậm hơn nhiều! Tình nhà nghĩa nước giằng xé, khiến cả hai cha con đều tột cùng đau đớn, xót xa:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tàn lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên
Trong bối cảnh không gian và tâm trạng như thế, lời trăng trối của người cha thật thiêng liêng, xúc động và có sức truyền cảm mạnh mẽ, khiến người con phải khắc cốt ghi xương.
Để lời trăng trôi của mình tăng thêm sức mạnh, người cha chỉ ra cho người con tội ác tày trời của quân giặc và hiện tình bi thảm của đất nước:
Than vận nước gặp khi biến đổi,
Để quân Minh thừa hội xâm lăng,
Bốn phương khối lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn,
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Lời thơ tràn đầy sự phẫn uất và xót đau da diết, làm xúc động tận tâm can người đọc. Người đọc những năm 20 của thế kỉ XX cũng là những nạn nhân vong quốc, dễ dàng cảm nhận nỗi đau của cha con ông Nguyễn Phi Khanh như chính nỗi đau của mình.
Sau khi miêu tả hiện tình đất nước và tội ác của quân giặc, người cha trực tiếp bày tỏ nỗi lòng của mình:
Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trồng cơ đồ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này Ị
Khối Nùng Lĩnh như xây khối uất,
Sông Hồng Giang nhường uất cơn sầu,
Con ơi! Càng nói càng đau
Lấy ai té độ đàn sau đó mà?
Tám câu song thất lục bát cũng là tám câu cảm thán với những từ ngữ, hình ảnh đầy cảm xúc: kể sao kể xiết, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc, than, thương tâm… đã có tác dụng diễn tả sâu sắc, mạnh mẽ nỗi đau đớn, xót xa trong tâm trạng người cha.
Dường như người cha đã quên đi nỗi đau và số phận của bản thân mình, ông chỉ nghĩ đến nỗi đau thương và số phận của cả đất nước, dân tộc. Một tấm lòng như thế, thật xiết bao cảm phục! Từ trong đau thương, nhân vật trữ tình vụt lớn lên. Và lòng nhiệt tình yêu nước của ông còn làm rung động cả ngàn đời sau.
Nhiệt tình ấy được kí thác vào lời trao gửi cho con, cho cả thế hệ sau:
Con ơi! Con nhớ lấy lời cha khuyên.
Câu chuyện của người cha xưa hay chính nỗi lòng của nhà thơ luôn trăn trở về đất nước? Sự trăn trở ấy đã làm nên một giọng thơ tâm huyết đầy bi phẫn có tác dụng rung vào dây đàn yêu nước thương nòi của mọi lòng người, (Xuân Diệu).