28/05/2017, 15:16

Phân tích truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

Phân tích truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân – Bài làm 1 Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc Tiểu học rồi phải đi làm. Yêu thích văn chương, ông bắt đầu ...

Phân tích truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân – Bài làm 1 Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc Tiểu học rồi phải đi làm. Yêu thích văn chương, ông bắt đầu sáng tác từ năm 1941. Một số truyện ngắn của ông lấy đề tài ở cuộc sống lam lũ của người nông dân hoặc các sinh hoạt văn hóa truyền thống ở ...

– Bài làm 1

Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc Tiểu học rồi phải đi làm. Yêu thích văn chương, ông bắt đầu sáng tác từ năm 1941. Một số truyện ngắn của ông lấy đề tài ở cuộc sống lam lũ của người nông dân hoặc các sinh hoạt văn hóa truyền thống ở thôn quê.

Sau Cách mạng tháng Tám, ông chuyên viết truyện ngắn về làng quê, mảng hiện thực mà ông hiểu biết sâu sắc. Theo Nguyên Hồng thì Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với những gì thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn. Tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962). Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 bùng nổ nhưng đến sau hòa bình lập lại 1954 mới cho ra mắt bạn đọc trong tập Con chó xấu xí.

Tóm tắt nội dung như sau : Anh Tràng nghèo khổ, xấu xí, chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà nhặt được cô vợ đang sống dỡ chết dở vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn diễn ra âm thầm trong bóng tối lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới chỉ có rau chuối, cháo loãng và muối Mẹ chồng đãi nàng dâu và con trai món chè nấu bằng cám. Câu chuyện của ba mẹ con xoay sang việc Việt Minh tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo. Trong óc Tràng hiện lên hình ảnh của đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…

Nhan đề Vợ nhặt đã thu hút sự chú ý của người đọc ngay từ đầu. Vợ nhặt là vợ theo không, chẳng cưới xin gì. Tựa đề khá lạ của truyện đã nói lên đầy đủ về cảnh ngộ, số phận của nhân vật. Chuyện anh Tràng bỗng dưng nhặt được vợ phản ánh tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp xảy ra vào mùa xuân năm 1945.

Thành công trước tiên của truyện Vợ nhặt là ở chỗ tác giả đã tạo ra một tình huống độc đáo: Một anh chàng ngụ cư xấu xí, nghèo khổ, ế vợ, vậy mà đã nhặt được vợ chỉ bằng vài bát bánh đúc. Giá trị của con người rẻ rúng đến thế là cùng ! Tác giả diễn tả tình huống đặc biệt này qua thái độ ngạc nhiên của dân xóm ngụ cư khi thấy Tràng dẫn về nhà một người đàn bà lạ. Họ ngạc nhiên bởi thời buổi đói khát này, đến nuôi thân còn chẳng nổi vậy mà Tràng còn dám lấy vợ. Bà mẹ của Tràng cũng sửng sốt vì không ngờ con trai mình đã có vợ. Thậm chí chính Tràng cũng chẳng hiểu tại sao mình lại có vợ dễ dàng đến thế.

Nguyên nhân sâu xa là do nạn đói khủng khiếp đang xô đẩy còn người vào chỗ chết nên người đàn bà kia mới phải chấp nhận làm vợ Tràng. Ý nghĩa tố cáo của tác phẩm tuy kín đáo nhưng sâu sắc. Tác giả không trực tiếp nói đến tội ác của bọn đế quốc, phong kiến, vậy mà tội ác của chúng cứ phơi bày ra một cách đáng ghê tởm và tình cảnh cớ cực, đói khát của dân nghèo quả là thê thảm.

Tình huống lạ lùng nói trên là đầu mối cho sự phát triển của nội dung truyện, tác động đến diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật. Bối cảnh lớn của truyện là nạn đói năm 1945, bối cảnh nhỏ là cái xóm ngụ cư tồi tàn ven chợ. Mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ nên bức tranh hiện thực với màu sắc ảm đạm và hình ảnh thê lương.

Cách đây không lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về, đám trẻ con lại bu theo anh, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi… Cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một lúc. Nhưng bây giờ thì niềm vui nhỏ nhoi ấy không còn nữa: trẻ con không đứa nào buồn ra đón Tràng… Chúng nó ngồi ủ rũ dưới những xó đường, không buồn nhúc nhích… Nụ cười dễ dãi mọi ngày của Tràng cũng tắt: Trong bóng chiều nhá nhem, Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước. Hình như những lo lắng chật vật trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn… Đâu đâu cũng thấy cảnh : Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.

Quả là một cảnh tượng khủng khiếp! Thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói chưa từng thấy từ trước đến nay, khiến hàng triệu người chết đói. Khắp nơi, đâu đâu cũng bao phủ bởi một màu địa ngục.

Tràng, nhân vật chính của câu chuyện là một thanh niên ngụ cư nghèo khổ, xấu xí, sống hiu quạnh với mẹ già trong túp lều tồi tàn ở mé sông. Ngày xưa, kiếp ngụ cư tủi nhục trăm bề. Họ bị dân làng khinh rẻ và phải làm những công việc bị coi là hèn hạ như đầy tớ, thằng mõ… Dân địa phương dù nghèo đến mấy cũng không chịu gả con gái cho đám ngụ cư vì cho rằng như thế là vô phúc. Đã thế Tràng lại còn xấu xí: …hai con mắt nhỏ tí… quai hàm bạnh ra… bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lí thú vừa dữ tợn… cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước… cái lưng to rộng như lưng gấu… Vì thế nên anh đã đứng tuổi mà vẫn không sao lấy được vợ.

Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào những dịp chở thóc lên tỉnh. Lần thứ nhất, hai bên chỉ đùa bỡn dông dài vài câu rồi thôi. Lần sau gặp tại, Tràng không nhận ra vì chị ta thay đổi nhiều quá. Chị ta nhắc mãi anh mới nhớ ra và toét miệng cười xin lỗi rồi mời ăn trầu. Chị ta sỗ sàng gợi ý : Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Anh vui vẻ đãi chị một bữa bánh đúc (thứ quà của người nghèo) no nê. Thấy chị cắm cúi ăn như chưa bao giờ được ăn, Tràng động lòng thương, liền bảo: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.

Câu nói của Tràng nửa đùa nửa thật. Đùa ở chỗ bỡn cợt cho vui, nhưng thật ở chỗ trong thâm tâm, Tràng cũng đang muốn có vợ. Khốn nỗi vì anh nghèo quá nên không ai chịu lấy. Thời ấy, đứng tuổi như Tràng mà chưa có vợ là không bình thường, là bất hạnh. Câu nói của anh vừa tếu táo vừa đượm vẻ chua chát: Làm đếch gì có vợ…

Đã từ lâu, anh ao ước có được một người vợ, nhưng chí ít cũng phải là người bình thường, khỏe mạnh chứ đâu phải là loại chết đói chết khát, dở người dở ma kia?

Tràng nói đùa không ngờ chị ta theo về thật khiến anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Nghĩ rồi lo, nhưng anh tặc lưỡi: Chậc, kệ! Có lẽ anh cho rằng mình đang mạnh chân khỏe tay, lại có công ăn việc làm, nên dẫu đèo bòng thì cũng chưa đến nỗi chết đói ngay đâu mà sợ. Vả lại, anh nỡ lòng nào bỏ người đàn bà kia chết đói cho đành?!

Chẳng còn là chuyện đùa bỡn nữa. Không chỉ đơn giản là cứu người mà còn may mắn tự nhiên có được vợ nên Tràng phải nghiêm túc và có trách nhiệm. Anh đưa chị ta vào chợ tỉnh, đãi thêm một bữa thật no, sắm cho cái thúng đựng mấy thứ lặt vặt rồi dẫn về nhà. Trong lòng Tràng giờ đây không chỉ có tình thương mà còn có niềm vui sướng, háo hức.

Mấy lần Tràng định nói với thị một vài câu cho tình tứ mà chẳng biết nói thế nào. Cái phút ban đầu bao giờ chả thế. Đùa thì tự nhiên. Nửa đùa nửa thật đã khó. Nay đã là thật rồi, khó biết mấy! Mà mọi chuyện có bình thường, êm đẹp cả đâu? Tràng lúng túng là phải.

Tuy vậy, từ trong sâu thẳm lòng anh, niềm vui bất ngờ cứ dâng lên mãi : Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa… Trong lòng hắn bấy giờ chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy… Đúng là thế. Đó là niềm vui to lớn nhất đời: anh đã có vợ. Tình cảm của anh đối với người đàn bà xa lạ kia không chỉ là thương hại, cưu mang mà còn là lòng biết ơn bởi chị ta đã chịu làm vợ anh mà không đòi hỏi một điều kiện nào. Nhờ thế anh mới có được vợ và cuộc đời anh mới đổi khác. Từ nay, anh không còn phải sống thui thủi một mình một bóng nữa.

Tràng dẫn người đàn bà về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Họ đi vào cái ngã tư xóm chợ… xác xơ, heo bút., Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết…

Bức tranh ngập tràn tử khí. Ảm đạm cảnh, ảm đạm người, nhà cửa, xác xơ, heo hút, úp súp, tối om… chẳng khác chi những nấm mồ hoang lạnh. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Cái chết đã đến, đang đến. Lại thêm tiếng quạ cứ gào lên từng hồi bởi chúng đã đánh hơi thấy mùi xác chết. Tất cả cảnh vật đểu đang lâm vào thế lụi tàn, tan rữa. Giọng văn của Kim Lân ở đoạn này rất tỉnh táo, khách quan nhưng dồn nén cảm xúc đau thương nên gây ấn tượng mạnh.

Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Tràng dẫn người đàn bà này về làm vợ, để xây dựng gia đình, sinh con đẻ cái tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Giọng kể của tác giả chợt trở nên hóm hỉnh: Mặt hắn có một vẻ gì phởn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Tràng vui sướng trước sự kiện to lớn bất ngờ của đời mình: anh đã kiếm được vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan, mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại tự nhiên có vợ. Chuyện lạ lùng mà thú vị!

Lạ lùng với Tràng và lạ lùng cả với cái xóm ngụ cư tồi tàn, nhỏ bé này. Cái cảnh Tràng đi trước, người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng rón rén, e thẹn, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt… làm cho mọi người tò mò đổ ra xem. Lũ trẻ con thấy lạ trước. Cải lạ lùng đã thắng cái đói, trả lại tính vui đùa hồn nhiên vốn có của chúng. Một đứa đột ngột gào lên: Anh Tràng ơi ! Chông vợ hài! khiến Tràng phải bật cười chửi yêu: Bố ranh! mà trong bụng thì khoái lắm. Tiếp theo trẻ là bà con xóm chợ ai cũng thấy lạ. Họ bàn tán… Họ hiểu đôi phần, khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rõ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một niềm vui.

Họ thú vị nghĩ tới chuyện Tràng có vợ. Họ muốn chia vui cùng anh. Cái xóm ngụ cư đang hấp hối này bỗng bừng lên một thoáng sống.

Vui đấy nhưng lo ngay đấy. Người ta lo thay cho Tràng: ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không ? Ấy là họ lo cho cái sự sống đang phải đối mặt từng ngày với cái chết và cứ hi vọng vượt lên cái chết.

Hai người về đến nhà Tràng. Cái tổ ấm của họ ra sao trong đêm tân hôn ?! Sự sống được tiếp nối như thế nào?

Cái gọi là nhà đúng ra chỉ là túp lều vắng teo… rúm rớ. Trong lều, niêu bát, xống áo… bừa bộn trên giường, dưới đất… Khung cảnh hoang tàn, vắng lạnh. Tràng chợt có cảm giác sờ sợ người đàn bà ngồi bất động ở đầu giường như một bóng ma… Có cái gì đó kì dị như trong truyện ma quỷ thời xưa.

Đến đêm, cảnh tượng lại càng lạ lùng hơn nữa. Tràng chỉ dám thắp đèn có một lúc. Hai vợ chồng nằm bên nhau, đành giấu những gì yên và vui vào bóng tối. Nhưng bóng tối cũng không yên mà hãi hùng, đáng sợ bởi đầy tiếng hờ khóc tỉ tê… vẳng ra từ những nhà có người chết đói.

Lấy vợ lấy chồng là việc lớn một đời, là hạnh phúc trăm năm. Ấy thế mà ở đây, chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của hai người lại bị bủa vây bởi cái đói và cái chết. Buổi chiều là tiếng quạ kêu, là bóng người dật dờ như bóng ma, ban đêm là tiếng hờ khóc người chết… Nhưng sự sống là bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống vẫn sinh sôi nảy nở. Bi thương cùng cực thành dữ dội. Có cái gì đó giống như một cảnh trong bi kịch của sếch-xpia hay trong tiểu thuyết Đô-xtôi-ép-xki: dữ dội, kinh khủng nhưng thật sâu sắc, lớn lao..Sự sống cứ tồn tại, bất chấp cái chết. Rõ ràng, ý chí con người và quy luật cuộc đời mạnh mẽ biết là chừng nào!

Sau một đêm, Tràng thấy mình hoàn toàn đổi khác: Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải… Mình đã có vợ thật rồi sao ? Ai vậy ? Cưới bao giờ nhỉ ? Không lẽ mong ước bao lâu mà nay đã thành sự thật một cách dễ dàng, chóng vánh đến thế ư? Chuyện xảy ra cứ như trong mơ, thật khó tin, nhưng cái cảm giác êm ái lửng lơ lạ lùng chưa từng thấy vẫn đang tồn tại trong người và rõ ràng trước mắt, người đàn bà bằng xương bằng thịt kia là vợ anh.

Vậy là chuyện anh Tràng tự dưng nhặt được cô vợ (không nghiêm túc về mặt hình thức) giờ đã trở thành chuyện hoàn toàn nghiêm túc theo đúng đạo nghĩa vợ chồng. Cái bên ngoài không đẹp ấy lại chứa đựng một nội đung thật đẹp, thật cảm động.

Nhu cầu được yêu thương và khao khát xây dựng cho mình một tổ ấm gia đình là bản năng của con người. Buổi sáng sau đêm đầu tiên Tràng có vợ, không khí gia đình anh trở nên khác hẳn. Nhờ sự có mặt của người đàn bà mà cái nhà của anh mới thật sự là một tổ ấm. Trước kia, mẹ con Tràng chỉ sống tạm bợ cho qua ngày. Nay ai cũng có trách nhiệm hơn với nhà cửa, vườn tược của mình. Nhìn vợ và mẹ đang dọn dẹp, Tràng bỗng thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ẩm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Tâm trạng này diễn ra ở một người như Tràng mới thật cảm động. Người ta lấy vợ lấy chồng, điều ấy có gì đặc biệt lắm đâu ; nhưng với Tràng thì đó là cả một ước mơ lớn tưởng chừng không bao giờ thực hiện được. Giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm chính là ở chỗ tác giả đã phát hiện, đồng cảm và chia sẻ niềm vui sướng rất con người này ở những thân phận nghèo khổ trong xã hội cũ. Niềm khao khát hạnh phúc gia đình và niềm tin le lói của người dân lao động vào tương lai là rất đáng trân trọng.

Bên cạnh Tràng, người vợ nhặt cũng là một nhân vật trung tâm của truyện. Người đàn bà ấy không có đến một cái tên để gọi. Không tên, không tuổi, cả đến đặc điểm nhận dạng công không nốt. Chẳng ai biết gốc tích của chị ở đâu? Cha mẹ là ai? Nhà cửa, anh em thế nào? Tất cả đều không. Chỉ biết là ngày ngày, chị ngồi lẫn trong đám con gái trước cửa kho thóc để nhặt nhạnh hạt rơi hạt vãi hay chờ ai có việc gì thuê mướn thì làm.

Hình thức của chị ta cũng giống như bao kẻ đói khát khác: Áo quần tả tơi như tổ đỉa… trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt… Chị ta là một trong hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực, lang thang vất vưởng kiếm ăn và sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ bất cứ lúc nào.

Việc chị ta trở thành vợ Tràng giống như một trò đùa, là chuyện tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng.
Xưa nay, hôn nhân là đại sự. Con gái lấy chồng, giàu nghèo gì cũng phải cố cưới xin tử tế. Giàu thì làm lớn, mời họ mời làng. Nghèo đến mấy cũng phải có mâm cơm trình tổ tiên, ông bà rồi mới nhận vợ, nhận chồng.

Vợ thì cung năm bảy loại. Có loại quý hóa như cô tiểu thư con quan trong Lí ngựa ô, đem lại danh giá, sang trọng cho chồng. Có loại vợ phải tốn bao công sức, tiền của mới cưới được… Tủi nhục thay cho những ai mang tiếng là vợ theo (theo không, chẳng cưới hỏi gì). Xã hội, gia đình không chấp nhận những cuộc hôn nhân như vậy. Tủi hơn nữa, người đàn bà trong truyện lại là vợ nhặt – Tràng tình cờ nhặt được chị như nhặt được một vật gì đó rơi trên đường.

Lần đầu, chị quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời trêu ghẹo của bạn bè. Chị lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, đùa bỡn với anh và liếc mắt, cười tít. Chuyện đùa giỡn chì có vậy nên người đàn bà này không để lại dấu ấn gì trong trí nhớ của Tràng. Vì thế, gặp lần thứ hai, anh không nhận ra chị ta bởi: Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi… gầy sọp hẳn đi…

Chị ta đói. Đói lắm ! Cái đói cào cấu ruột gan. Chị ta sỗ sàng gợi ý để Tràng mời ăn và ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc. Cắm đầu mà ăn, chẳng chuyện trò gì mải mê như chưa từng được ăn bao giờ. Quên cả giữ kẽ, quên cả thẹn thùng. Quả là cái đói đã đẩy lùi sĩ diện, đẩy lùi nhân cách.
Ăn như thế là đói lâu rồi, nay chỉ cần có chút gì cho vào bụng để sống. Cảnh ấy khiến Tràng động lòng thương. Anh buột miệng nói: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Tràng chỉ đùa, ai ngờ chị ta theo về thật.

Người đàn bà ấy đi theo Tràng trước hết chì vì miếng ăn chứ chẳng có tình cảm gì. Nghĩ cũng xấu hổ nên trên đường về nhà “chồng", chị ta chả biết nói gì và tỏ ra ngượng ngùng khi thấy mọi người trong xóm ngụ cư nhìn mình bằng ánh mắt tò mò.

Chị ta chấp nhận theo không một gã đàn ông xa lạ, xấu xí chỉ là để có một nơi nương tựa cho khỏi chết đói. Lâm vào tình cành éo le ấy, chị ta vừa ngượng ngùng vừa tủi phận. Lúc gặp bà cụ Tứ, chị e sợ, khép nép, chẳng biết nói năng, chào hòi thế nào cho phải.

Một người đàn ông mới quen đôi lần, nay hào phóng cho ăn một bữa no, ngoài ra không biết tính tình ra sao, gia cảnh thế nào, chỉ nghe nói là chưa có vợ (biết là thật hay giả), vậy mà đi theo một cách dễ dàng, không đắn đo, sợ hãi. Có liều lĩnh chăng? Nhẹ dạ chăng? Mặc kệ ! Theo anh ta để được ăn, được sống cái đã, vợ chồng là chuyện lâu dài, biết đâu mà tính trước. Khỏi đói, Khỏi chết lúc này là quan trọng nhất. Mọi cái khác thứ yếu tất. Thế mới biết cái đói ghê gớm, kinh khủng biết chừng nào!

Vào nhà Tràng, chị cứ ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần. Anh Tràng mời chị ngồi cơ mà ? Sao chị không dám ngồi cho ngay ngắn, đàng hoàng ? Mẹ anh chưa về, có ai đâu mà giữ lễ ? Hóa ra cái dáng ngồi rụt rè, chông chênh ấy kì thực cũng là cái thế của lòng chị, đời chị. Liệu chỗ ngồi này có phải là chỗ của chị không? Mái nhà này có phải là nơi để chị dung thân không? Chị bần thần vì ngỡ như mọi chuyện vừa xảy ra không phải là thực. Làm vợ, làm dâu mà đến thế này ư? Lấy chồng, cái hạnh phúc lớn nhất của đời con gái ấy, chị có được hưởng chút nào đâu ? Buồn lắm! Tủi lắm ! Trăm mối ngổn ngang. Chị không nói được nên lời, bởi cất tiếng, chắc chị sẽ khóc. Nỗi đau không trào ra theo nước mắt mà lặn vào trong nên càng đau, càng tủi.

Ấy thế nhưng chỉ sau một đêm làm vợ Tràng, chị hóa ra khác hẳn : Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chạo chát như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh… Hoàn cảnh sống nghiệt ngã biến chị ta có lúc thành kẻ trâng tráo, nhưng bản chất thì không phải như vậy. Nếu hôm qua, cái đói làm mất đi những gì tốt đẹp ở chị thì hôm nay, chị bắt đầu có ý thức vun vén cho tổ ấm của mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang… Có bàn tay săn sóc của chị, túp lều rách nát, tăm tối của mẹ con Tràng bỗng trở nên sáng sủa, gọn ghẽ hẳn ra. Sự sống đã trở về với người, với cảnh. Cho đến lúc này, chị mới có cảm giác chuyện làm vợ của mình là thật. Cái hạnh phúc đơn sơ mà đầm ấm ấy đã đem đến một sự đổi thay thật sự trong hình dáng và tính cách của người đàn bà, khiến cho Tràng phải ngạc nhiên, bỡ ngỡ.

Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng là nhân vật gây được nhiều thiện cảm đối với người đọc. Tấm lòng nhân hậu của bà mới đáng quý làm sao! Lúc đầu, thấy người con gái xa lạ ngồi ở giường con trai mình, bà ngạc nhiên lắm. Được chào bằng u, bà càng chẳng hiểu gì và cố nhìn cho kĩ mà vẫn không nhận ra chị ta là ai. Bà phân vân, đoán định… Mãi đến lúc Tràng bảo: Kìa nhà tôi nó chào u… thì bà mới vỡ lẽ. Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình… Ra thế ! Thằng con mình nó đã kiếm được vợ, nhưng…

Bà tủi thân tủi phận là cha mẹ mà không làm tròn bổn phận đối với con cái. Trăm sự cũng tại cái nghèo mà ra : Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Bà lọ lắng thực sự : Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không. Nhưng rồi ngẫm đến thân phận nghèo khó của hai mẹ con, bà lại tự an ủi : Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Nghĩ thế nên bà vui lòng chấp nhận nàng dâu mới. Bà cư xử vói chị dịu dàng, âu yếm gọi chị là con, xưng u và bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi…

Với tâm lí của một người mẹ, bà ao ước có được dăm ba mâm trước cúng tổ tiên ông bà, sau mời làng mời xóm. Nhưng ao ước ấy không thể thực hiện được vì bà nghèo quá. Bà rất biết trước biết sau, song cái khó bó cái khôn, bà đành chịu. Bà chỉ biết nói với các con những lời khuyên nhủ chân tình cốt làm sao cho chúng mày hòa thuận là u mừng rồi… Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá.

Con trai tự dưng có được vợ, bà lão mừng lắm: Bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa… Bà không vui sao được khi con trai bà đã thành gia thất?! Bà cũng vơi đi một mối lo âu bấy lâu nay cứ canh cánh bên lòng. Trong bữa ăn đầu tiên của ba mẹ con, dẫu chỉ có cháo loãng với muối hột nhưng bà toàn nói chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này :

– Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…

Ở người đàn bà già nua, nghèo khổ này chứa đựng những nét đạo lí cổ truyền của dân tộc. Bà cố gắng xua đi cái ám ảnh đen tối đáng sợ của thực tại, nhen nhúm niềm tin, niềm vui sống cho các con. Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ vì đói khát ấy vẫn nung nấu một ý chí mãnh liệt: Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mọt cơm, cầm cái muôi vừa khuấy khuấy vừa cười:

– Chè đây… Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.

Rồi bà múc trao cho con dâu, con trai, miệng vẫn tươi cười, đon đả: – Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy…

Bà lão “đãi” nàng dâu mới món ăn đặc biệt mà bà gọi là chè, nấu bằng cám. Bà khen ngon đáo để và so sánh : Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy. (Vậy có cám mà ăn như thế này là còn may lắm!) Chao ôi là khổ ! Phải đói đến mức nào thì mới ăn cám thấy ngon? Cuộc sống khắc nghiệt đày đọa con người, bắt họ phải sống cuộc sống của loài vật, song nó không dập tắt được phần người, rất người trong lòng bà mẹ khốn khổ kia. Bà cố đổi buồn thành vui. Bà cố tươi cười, đon đả cho bữa cơm đỡ phần thê thảm, còn tác giả và chúng ta thì khóc. Khóc vì thương, vì quý tấm chân tình của bà.

Sống giữa cái chết ngày càng che phủ bóng đen gớm ghiếc của nó vào mọi gia đình, vậy mà những người nghèo khổ như mẹ con Tràng vẫn tin vào cuộc sống, vào tương lai : Ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Bà cụ Tứ cứ tin vu vơ như thế. Vì miếng cơm manh áo, họ buộc phải vượt lên mọi gian nan, khổ ải để sống nên mới có được niềm tin dai dẳng và kì diệu ấy.

Ba mẹ con Tràng đã tìm thấy niềm vui trong sự nương tựa, cưu mang lẫn nhau mà sống. Tình vợ chồng, mẹ con sẽ là động lực giúp họ tăng sức mạnh vượt qua giai đoạn ngặt nghèo trước mắt. Tình cảm ấy rất cần nhưng chưa đủ để đảm bảo cho ba người một tương lai tốt đẹp hơn. Hiện tại, cuộc sống vẫn một màu xám xịt, đầy đe dọa và chết chóc: Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen…

Cái tài của tác giả là cứ nhẹ nhàng như không mà luồn lách ngòi bút động đến tận nơi sâu thẳm của tâm hồn, bắt người ta phải cười, phải khóc, phải sống với nhân vật của mình.

Trong suốt truyện, tác giả không một lần trực tiếp nhắc đến thực dân Pháp, phát xít Nhật và bè lũ phong kiến tay sai nhưng tội ác của chúng vẫn hiển hiện, phơi bày trên từng trang viết và được gói gọn trong câu nói đầy phẫn uất của bà mẹ già : Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ… Người con dâu nhắc chuyện trên mạn ngược, Việt Minh phát động dân chúng không đóng thuế, lại còn tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo… Điều ấy gợi cho Tràng nhớ tới cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đô Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ… và tâm trí anh bị cuốn hút mãi bởi hình ảnh ấy.

Tràng chưa được giác ngộ cách mạng nên lúc chứng kiến cảnh đó anh thấy sợ. Giờ hiểu ra, anh lại ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu… Bước đầu, anh thấy rằng cần phải làm như thế vì không có cách nào khác. Tin rằng lần sau, trong đoàn người phá kho thóc của Nhật, thế nào cũng có mặt vợ chồng Tràng. Hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới đem đến cho Tràng bao hi vọng vào sự đổi đời. Đó là ý nghĩa dự báo cách mạng của tác phẩm này.

Truyện Vợ nhặt tiêu biểu cho phong cách viết độc đáo của nhà văn Kim Lân. Cốt truyện đơn giản nhưng chặt chẽ. Trong truyện, người và cảnh đan xen, tương phản với nhau. Bản chất đẹp đẽ bên trong tương phản với vẻ xấu xí bên ngoài, sự sống tương phản với cái chết… Tất cả đều nhằm mục đích làm nổi bật chủ đề của truyện. Tác giả không miêu tả kĩ hiện thực tàn khốc lúc bấy giờ mà chú trọng đến việc thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái bề ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Viết truyện này, tác giả bày tỏ thiện cảm sâu sắc đối với họ. Ông khẳng định sự đói khát, không tiêu diệt được bản tính tốt đẹp của con người, hiện thực tăm tối không giết chết nổi niềm tin vào cuộc sống. Trong hoàn cảnh cơ cực, đọa đày, họ vẫn nhen nhóm niềm tin, vẫn hi vọng vào sự đổi đời và một tương lai tốt đẹp. Truyện gây ấn tượng mạnh với người đọc bởi tính chất nhân văn cao cả, bởi ngôn ngữ mộc mạc, sinh động và giàu sức gợi tả. Tấm lòng của tác giả gửi gắm trong truyện đáng quý biết chừng nào!

– Bài làm 2

Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, ”người chết như nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợi, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vấn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm.

Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút làm nên cuộc đời của từng nhân vật.

Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mùng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Khung cảnh buồn thiu, đầy ám ảnh bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái ao nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.

Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh người nông dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực.

Tác giả đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi cuộc đời của một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ không phải lấy được. Người đọc nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng và đầy éo léo của con người trong xã hội bấy giờ.

Hình anh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám ảnh “ thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén,e thẹn”. Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.

Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu hiu, ảm đảm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Không còn gì thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như vậy. Mọi thứ dường như bị cái đói, cài nghèo đè nén đếm chìm nghỉm. Bằng ngòi bút tả thực sinh động, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc nhiều chua xót, đắng cay cho những phận nghèo long đong.

Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người đàn bà đi bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có lẽ là vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt không còn chua ngoa, đanh đá nữa mà trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm vợ.

Làm vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy hai con người đến với nhau, không phải tình yêu nhưng là tình thương. Hẳn người đọc sẽ cảm thông và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.

Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự chuyển đổi trong tâm tinh thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thaayscos một người đàn bà ở trong…” Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiển lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.

Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu dầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn nói những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con.

Đây là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân khiến người đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của cuối truyện ngắn đã mang đến chút niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn.

Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lý nhân vật sắc sảo,độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương giữa người với người luôn bất diệt.

– Bài làm 3

“Vợ nhặt” là tác phẩm ưu tú của nhà văn Kim Lân, viết về cuộc sống nghèo đói, khổ cực và khát vọng về hạnh phúc tương lai tươi sáng của người nông dân Việt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Qua đây tác giả cũng bày tỏ sự cảm thông với những số phận bất hạnh của những con người đói khổ trong thời chiến và yêu thương, quý trọng đối với những ao ước giản dị của họ, từ đó tạo nên sự đồng cảm và suy nghĩ trong lòng người đọc.

Ngay từ nhan đề “Vợ nhặt”, tác phẩm đã gợi lên sự tò mò và từ đó dẫn dắt người đọc khám phá về cuộc sống của những con người đói khổ, bần hàn nhất. Chuyện dựng vợ gả chồng vốn là một chuyện hệ trọng của cả một đời người, chính vì thế việc này cần được xem xét kĩ lưỡng vậy mà ở đây lại là “vợ nhặt”. Cưới vợ mà lại gọi là nhặt vợ được sao? Một con người được “nhặt” về rồi trở thành vợ gợi cho người ta liên tưởng đến việc nhặt một món đồ, như thể một thứ gì đó được lượm lặt một cách vô tình và ngẫu nhiên từ ngoài đường. Chỉ riêng nhan đề tác phẩm mà tác giả cũng đã để lại sự ám ảnh đối với người đọc. Điều gì đã khiến cho con người ta trở nên rẻ rúm như vậy? Kim Lân chính là đã mượn chuyện nhặt vợ để nói lên một vấn đề khác. Đó chính là cái đói, cái nghèo của người nông dân trước Cách mạng. Khi đó, chính cái đói nghèo đã khiến cho con người lâm vào tình cảnh đáng thương đến như vậy.

Nhan đề cũng đã một phần hé lộ tình huống truyện độc đáo. “Vợ nhặt” chứ không phải cưới xin đình đám gì. Hẳn là một con người mà chẳng khác nào một món đồ vứt chỏng chơ ngoài đường và vô tình có người “nhặt” về. Mà đúng thế thật. Anh cu Tràng chỉ với vài câu “tầm phơ tầm phào” mà có người phụ nũ theo về làm vợ. Khốn nỗi anh ta có bảnh bao, hấp dẫn gì: vừa xấu trai, vừa dở hơi, lại vừa là dân ngụ cư nghèo kiết xơ kiết xác. Vậy mà Tràng lại có vợ. Tràng cưới vợ, đúng hơn là nhặt được vợ giữa cái cảnh đói khát khốn cùng này. Tình huống truyện thật đầy bất ngờ mà cười ra nước mắt. Qua tình huống này, các nhân vật đều bộc lộ những tâm trạng, tính cách nổi bật, giúp người đọc hiểu rõ hơn về nhân vật, về hoàn cảnh cũng như số phận của con người.

Nhà văn Kim Lân đã thật tài tình khi đi sâu phân tích tâm lý đan xen, phức tạp của từng nhân vật trước tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Người trong xóm “xì xào bàn tán”, người thì “cười lên rung rúc”, người lại lo giùm cho anh ta: “Ôi chao! Giời đất này còn lôi cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau qua cái thì này không?”.

Mẹ Tràng, bà cụ Tứ, là người hiểu rõ tình cảnh của nhà mình, con mình nhất cho nên càng khó tin Tràng có vợ. Thấy người đàn bà lạ đứng ở đầu giường con mình, bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi: “Quái sao có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?” Cái ngạc nhiên, nghi vấn của bà cụ cũng dễ hiểu bởi lẽ, nghèo như con trai bà thì ai thèm lấy. Vả lại trong cơn đói khát thế này, nuôi thân còn chả nổi, lấy gì nuôi vợ nuôi con?

Khi đã hiểu đã ra vấn đề thì “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Trong lòng người mẹ nghèo hiểu ra biết bao nhiêu là cơ sự. Bà mừng vì con trai bà dù sao cũng đã có vợ, nhưng buồn tủi vì “người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình cũng mới có vợ được..”.

Đối với Tràng, bản thân anh cũng rất lấy làm lạ. Nhìn vợ ngồi ngay giữa nhà, anh “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế”. Lòng người mẹ lo nghĩ bao nhiêu thì anh cu Tràng lại vô tư bấy nhiêu. Mới đầu cũng “chợn” nghĩ nhưng rồi anh chặc lưỡi “mặc kệ”. Trên đường đưa vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó, “hắn lại lầy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình’. Việc có vợ đối với Tràng đột ngột và hạnh phúc tới mức đến sáng hôm sau anh vẫn còn thấy “trong người êm ái lơ lửng như người ở trong giấc mơ đi ra”.

Trái ngược với tâm trạng hân hoan của Tràng, lo lắng của bà mẹ thì có lẽ người phụ nữ làm vợ Tràng lại cảm thấy buồn tủi nhất. Lấy chồng là chuyện thiêng liêng, là trao gửi cả cuộc đời của mình cho một người đàn ông mà mình tin tưởng. Vậy mà ở đây thị nào có biết Tràng tốt xấu ra sao. Chỉ một câu hò bâng quơ và bốn bát bánh đúc là “đủ tin tưởng” để theo về nhà người ta. Cái đói đã đẩy con người ta đến chỗ chẳng còn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự trọng, nhận ra mình không hơn gì rơm rác cọng cỏ mà người ta có thể lượm nhặt vu vơ nơi đầu đường xó chợ. Thế nhưng buổi sáng hôm sau, khi Tràng nhìn thấy thì chị ta đã trở thành một người vợ hiền, một cô dâu thảo, khác hẳn với cái vẻ chao chát hôm đầu tiên Tràng gặp.

Đi sâu vào tâm lý của từng nhân vật, Kim Lân đã cho người đọc thấy một bức tranh hiện thực sống động trong nạn đói 1945. Ở đó, con người ta chỉ toàn là nghèo khổ, tối tăm nhưng lại ngời sáng lên phẩm chất tốt đẹp. Hành động cưu mang người phụ nữ nghèo đói hơn mình đã cho thấy Tràng là một người hào phóng và nhân hậu. Mẹ Tràng cũng vừa mừng vừa tủi chấp nhận nàng dâu mới, không những thế bà còn góp thêm câu chuyện bằng những niềm hy vọng về tương lai tươi sáng để xua đi nỗi tăm tối của đói nghèo đang vây bủa.

“Vợ nhặt” đã làm sáng lên trên cái nền đen tối ảm đạm ấy sức sống, khát vọng về mái ấm gia đình và sự nương tựa, che chở cho nhau của những người lao động nghèo khổ, sáng lên niềm hy vọng của họ về một tương lai tốt đẹp hơn.

Tràng đã nhận thấy mình gắn bó với căn nhà, thấy mình “có bổn phận phải lo cho vợ con sau này” và nghĩ đến một tương lai “cùng vợ sinh con đẻ cái” rồi ăn nên làm ra. Bà cụ Tứ cũng “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà còn tính “khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. […] ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho xem”. Ánh sáng của hơi ấm hạnh phúc gia đình giữa lúc nạn đói hoành hành, giữa nồi cháo cám đắng chát nhưng nó vẫn làm cho thị cảm thấy vui vẻ và hiền dịu hơn. Từ đây, thị sẽ cùng chồng chăm lo, vun vén cho gia đình những mong một ngày số phận sẽ mỉm cười rộng lượng hơn.

Viết về nạn đói năm 1945, khắc họa thực tế cảnh người chết đói như ngả rạ, thế nhưng Kim Lân không đi vào những cảnh thương tâm như thế mà qua sự việc anh cu Tràng nhặt được vợ để làm nổi bật tinh thần nhân đạo, nhân văn cao cả. Vượt lên trên tất cả những lo lắng, tủi hờn là niềm hạnh phúc và tình yêu thương của con người bừng sáng. Với truyện ngắn này, Kim Lân đã bày tỏ sự yêu quý sâu sắc đối với những người nghèo khổ nhưng giàu lòng nhân ái. Tác phẩm đã khẳng định rằng: cái đói khát, chết chóc không thể giết chết được niềm tin vào cuộc sống. Ở nơi tối tăm nhất, nghèo đói nhất thì con người ta vẫn biết cách nương tựa vào nhau mà vượt qua để hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn.

– Bài làm 4

Với những gì Kim Lân mang lại cho nền văn học Việt Nam,ông xứng đáng để mọi thế hệ biết đến với các tác phẩm để đời, mà cho tới nay giá trị của nó vẫn còn được nhiều độc giả khai thác. Nét đặc trưng của bút pháp của ông chính là viết về những hình ảnh những câu chuyện đời thương giản dị nhưng ẩn chứa nhiều triết lí nhân văn. Tình huống truyện trong các tác phẩm của Kim Lân đem đến cho độc giả những cái nhìn chân thực về cuộc sống đặc biệt là thời kì nhân dân ra rơi vào bế tắc cùng cực..

Vợ Nhặt ra đời trong hoàn cảnh đất nước rơi vào nạn đói kinh hoàng thời kì 1945, khi mà nhân dân ta chịu cảnh chết đói như ngả rạ,người người nhà nhà rơi vào cảnh khó xử. Không khí của những làng quê được miêu tả là ”người chết như nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợi, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vấn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm”. Xóm nghèo ấy cũng là xóm ngụ cư,mọi người tứ phương đổ về ai cũng mong muốn tìm được cái ăn để đỡ đói qua ngày.

Nhan đề của tác phẩm cũng đặt ra một dấu chấm hỏi và thắc mắc cho người đọc, tại sao lại là vợ nhặt,vì vốn dĩ giữa lúc khó khăn khốn cùng này còn ai nghĩ tới chuyện vợ con gì nữa, hai là nếu lấy vợ thì phải là hai bên qua lại chứ sao lại nhặt được. ấy chính cái nhan đề ấy đã dẫn tới tình huống truyện đặc sắc thu hút người đọc.

Truyện ngắn mở đầu bằng hình ảnh anh cu tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…”  những chi tiết này khiến độc giả hình dung ra một người đàn ông xấu xí thô kệch, và đặc biệt trong cảnh nghèo đói này anh chàng cũng không khác gì những người dân ở xóm ngụ cư này. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Xung quanh xóm ngụ cư được phủ lên 1 khung cảnh buồn thiu, đầy ám ảnh bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.

Những chi tiết nhỏ nhặt cùng với lối miêu tả hết sức chân thực, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh người nông dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực.Tác giả Kim Lân đã  khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi cuộc đời của một con người. Đấy là tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ không phải lấy được. Để từ đây độc giả có thể nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng và đầy éo léo của con người trong xã hội bấy giờ. Hình ảnh và tình cảnh thật thê lương.

Vợ Nhân vật Tràng hiện ra với hình ảnh “ thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén,e thẹn”. Đó là một người mà chỉ quen gọi là Thị chứ không có một cái tên nào cả. Hình ảnh đó gợi cho ta về một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.

Xóm ngụ cư hiện ra với khung cảnh đìu hiu, ảm đảm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”.Hình ảnh đấy chẳng khác nào tô thêm tình cảnh thê lương của vợ chồng Tràng khi tràng đưa vợ về nhà. Với  ngòi bút tả thực sinh động, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc nhiều chua xót, đắng cay cho những phận nghèo long đong.

Hơn thế đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm của Tràng  hỏi thăm Tràng về người đàn bà đi bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có lẽ là vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”.giữa cảnh đói nghèo tan tác như thế này, thân mình lo chưa nổi nữa là đèo bòng, nhưng khi hai con người ấy quyết định về với nhau chính là bằng tình thương.

Sự tinh tế trong miêu tả tâm lí nhân vật được thể hiện rõ nhất khi tác giả miêu tả về bà cu Tứ. Để từ đó người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một người mẹ, một người phụ nữ bao dung và hiền hậu. Ta có thể thấy chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…” Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiện lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót, nghẹn ngào của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết và hơn hết bà vừa vui vừa lo cho cả 2 đứa con.

Bà cụ tứ đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống đấy khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu dầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực .Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn nói những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con. Tất cả những gì được miêu tả dưới con mắt của môt tác giả có tấm lòng đồng cảm sâu sắc với chính nhân vật của mình những chi tiết hiện lên chân thực sống động hơn bao giờ hết.

Với ngòi bút tả thực đầy sinh động tác phẩm đã lấy đi nhiều tình cảm và nước mắt của độc giả.  Bút pháp miêu tả tâm lí nhân bật đã góp phần khắc họa tâm lý nhân vật sắc sảo,độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua tác phẩm ta cũng cảm nhận được ngụ ý sâu xa mà tác giả gửi gắm, giữa cái đói nghèo tình thương chính là thứ có giá trị nhất khiến con người vượt qua khó khăn.

Từ khóa từ Google

0