16/01/2018, 13:17

Phân tích truyện ngắn Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) – Văn mẫu lớp 12

Phân tích truyện ngắn Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) – Văn mẫu lớp 12 Phân tích truyện ngắn Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) – Bài số 1 Nguyễn Khải tên đầy đủ là Nguyễn Mạnh Khải, sinh năm 1930 tại Hà Nội, quê gốc ở Nam Định nhưng sinh sống ở nhiều nơi. Năm 1947, ông tham gia tự vệ ...

Phân tích truyện ngắn Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) – Văn mẫu lớp 12

Phân tích truyện ngắn Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) – Bài số 1

Nguyễn Khải tên đầy đủ là Nguyễn Mạnh Khải, sinh năm 1930 tại Hà Nội, quê gốc ở Nam Định nhưng sinh sống ở nhiều nơi. Năm 1947, ông tham gia tự vệ chiến đấu ở thị xã Hưng Yên, sau đó vào bộ đội, làm y tá. Nguyễn Khải bắt đầu nghề báo, nghề văn từ năm 1950. Trong giai đoạn đầu của sự nghiệp sáng tác, các tác phẩm của ông phản ánh hiện thực ở nông thôn theo xu hướng dị lên trong quá trình xây dựng cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa.

Từ sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Nguyễn Khải đặc biệt quan tâm đến những chuyển biến mạnh mẽ của cuộc sống, của tư tưởng, tình cảm con người trước những biến động phức tạp của xã hội hiện đại. Nhà văn nhìn nhận và đánh giá con người trong mối quan hệ đa chiểu phức tạp : để thông qua đó khẳng định và ca ngợi những giá trị cao đẹp của con người và cuộc sống. Năm 2000, nhà văn Nguyễn Khải được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật, ông mất năm 2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Truyện Một người Hà Nội sáng tác năm 1990, in trong tập truyện Hà Nội trong mắt tôi, Nhà xuất bản Hà Nội năm 1995. Qua truyện, nhà văn đã thể hiện cảm nhận của mình về lối sống, về bản lĩnh văn hóa của một người Hà Nội. Từ đó làm nổi bật bản chất tốt đẹp của những con người bình thường mà cuộc đời họ gắn liền với những thăng trầm của lịch sử và quá trình phát triển của đất nước. Cái nhìn mới về con người và cuộc sống của tác giả thể hiện qua những phát hiện bất ngờ; những suy ngẫm thú vị và sâu sắc về “chất kinh kì " của một người Hà Nội cụ thể là cô Hiền. Nhân vật chính trong tác phẩm có vẻ đẹp rất đặc trưng của người Hà Nội xưa, vừa khôn ngoan, sắc sảo, vừa đôn hậu, linh hoạt trong cách hiểu người, hiểu đời.

Tóm tắt nội dung tác phẩm như sau: Năm 1955, tác giả từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, có đến thăm cô Hiền – một người họ hàng xa. Kháng chiến chống Pháp, cô Hiền cùng gia đình ở lại Hà Nội. Hòa bình lập lại, đất nước tạm chia làm hai miền, cô Hiền không di cư vào Nam mà vẫn ở lại Hà Nội với tài sản là hai căn nhà, một để ở, một cho thuê.

Trong thời kì đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cô Hiền khôn ngoan tìm cách thích ứng dần với chế độ mới, lối sống mới. Năm 1965, khi đế quốc Mĩ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, cô Hiền vẫn là một “nội tướng” đảm đang việc quản lí gia đình, giáo dục con cái. Dũng, anh con trai cả của cô lên đường nhập ngũ vào Nam chiến đấu. Ba năm sau, anh con trai thứ hai cũng đăng kí nghĩa vụ quân sự nhưng được giữ lại học Đại học vì thi đậu điểm cao.

Năm 1975, miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, anh Dũng trở về Hà Nội. Trong bữa tiệc cuối năm mừng ngày gia đình đoàn tụ, Dũng kể lại câu chuyện cảm động về Tuất, người bạn cùng trung đoàn đã hi sinh ở cửa ngõ Sài Gòn trước ngày chiến thắng và về người mẹ của Tuất đã nén nỗi đau mất con để tiếp tục sống và làm việc.

Ở giai đoạn đầu thời kì đổi mới, Hà Nội còn bộn bề khó khăn, thiếu thốn. Một lần tác giả ra Hà Nội công tác, ghé thăm cô Hiền, thấy cô vẫn là một người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Cô Hiền kể cho tác giả nghe về sức sống kì lạ của cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bị xô ngã sau cơn bão lớn và bày tỏ niềm tin của cô vào cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

Mở đầu tác phẩm, với vai trò là người cháu họ, tác giả đã giới thiệu cô Hiền bằng tình cảm quý mến của mình : Chúng tôi gọi là cô, cô Hiền, là chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi. Lối mở đầu giản dị, tự nhiên như vậy làm tăng tính chân thực và sức thuyết phục của truyện.

Tác giả không miêu tả ngoại hình mà chỉ kể về tời nối, cách sống, cách ứng xử của cô Hiền trong mối quan hệ với người thân trong gia đình, với bạn bè, với thời cuộc… Người kể chuyện không chỉ quan sát mà đôi lúc còn trực tiếp tham gia vào câu chuyện, vì thế mà lời kể, lời bình có vẻ khách quan. Chín năm kháng chiến chống Pháp, cô Hiền ở lại Hà Nội cùng chồng con. Hòa bình lập lại, đất nước tạm thời chia làm hai miền, cô không di cư vào Nam vì cô nghĩ rằng chồng cô làm nghề dạy học nên chế độ nào cũng cắn. Nhưng nguyên nhân chính là cô không thể rời xa Hà Nội. Trong sâu thẳm tâm hồn cô, Hà Nội đã trở thành không gian sống quá quen thuộc nên không thể thiếu: Hà Nội đối với cô Hiền Đồng nghĩa với một tình yêu lớn lao, sâu sắc.

Lúc đầu, trong suy nghĩ của người cháu (tác giả), những người Hà Nội gốc như cô Hiền thật khó gần, bởi căn nhà của cô là một tòa nhà tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung của đền Ngọc Sơn… Trong khi cán bộ và gia đình họ phải ở chen chúc trong những khu nhà tập thể, có khi phải ở ngay dưới gầm cầu thang của nhà bạn bè. Theo cách đánh giá, nhận xét chung, hồi đó thì: với người vô sản, ở quá rộng là một cái tội. Trang phục của vợ chồng cô Hiền cũng sang trọng quá : Mùa đông ông mặc áo ba-đờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo măng-tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt cườm. Cách ăn uống của gia đình cô Hiền và gia đình tác giả cũng thật khác biệt: Lại cái ăn nữa cũng không giống với số đông. Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản và từng người ngồi đúng chỗ đã quy định. Gia đình tôi thì ăn uống bình dân hơn, vợ chồng con cái ngồi xúm xít quanh cái mâm nhôm, thức ăn có khi múc ra đĩa, có khi cứ để nguyên trong nồi, nồi lớn đặt giữa mâm, nồi nhỏ đặt cạnh mâm, cứ việc sục muôi vào, sục đũa vào, vừa ăn vừa quát con mắng cái, nhồm nhoàm, hả hê, không cần phải khuôn bó theo một quy tắc nào cả. Ăn cốt để sống, để làm việc, hay hớm gì cái thứ lễ nghi rườm rà của… giai cấp tư sản.

Những khác biệt cơ bản ấy xét đến cùng đều xuất phát từ cách nhìn và cách sống của các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Sự nghi ngại của người cháu không phải là không có cơ sở: Cô Hiền đích thị là tư sản rồi. Đã là tư sản thì không thể tin cậy được. Việc mình mình biết, việc cô mặc cô, dính líu nhiều có ngày lại rắc rối… Điều đáng nói là cô Hiền vừa tìm cách thích ứng với cuộc sống mới, vừa biết giữ gìn nếp sống và cách nghĩ riêng của mình. Để làm nổi bật tính cách cô Hiền, nhà văn đã đặt nhân vật này trước những biến cố lớn của đất nước. Những biến động của lịch sử, xã hội thường tác động đến nhận thức và cuộc sống của con người, làm thay đổi tính cách, nhưng nhân vật cô Hiền không phải là sản phẩm của hoàn cảnh. Từ góc nhìn văn hóa, tác giả khám phá và thể hiện tính cách rất đáng trân trọng của nhân vật này.

Cô Hiền là người sắc sảo và tế nhị. Sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, cán bộ và chiến sĩ ta từ chiến khu Việt Bắc về tiếp quản Thủ đô đều sống trong tâm trạng vui sướng, hồ hởi : Chín năm xa phố phường, xa ánh điện, không được vào rạp xem chiếu bóng hoặc cải lương, không được vào một cái chợ đông người giữa ban ngày, bây giờ mỗi ngày đều ở Hà Nội, mỗi đêm ở Hà Nội, mãi mãi còn ở Hà Nội. Nhưng tác giả băn khoăn vì sao những người như cô Hiền lại có thái độ khác : Chúng tôi thì vui thế, tại sao những người vốn sống ở Hà Nội chưa thật vui nhỉ? Rồi tự lí giải : Họ đang tìm cách thích ứng với chế độ mới, cách sống, cách làm việc, cả cách nói năng nữa. Để khẳng định những suy nghĩ, phán đoán của mình là đúng, tác giả kể một số câu chuyện nhỏ trong gia đình cô Hiền mà minh đã chứng kiến.

Một lần, tác giả đến chơi, khi nghe đứa con kêu ầm lên: Mẹ ơi! Đồng chí Khải đến thì cô Hiền cau mặt gắt : Phải gọi là anh Khải, hiểu chưa ? Thấy chồng nắm tay đứa cháu, hồn nhiên hỏi: Tại sao chủ nhật trước đồng chí không ra chơi, cả nhà chờ cơm mãi, thì cô thở dài, quay người đi. Bởi cái từ đồng chí hồi ấy là từ của những người cùng lí tưởng, chí hướng dùng để gọi nhau. Cô Hiền thấy chồng mình gọi đứa cháu bằng đồng chí nghe không thuận tai nên đã có phản ứng như vậy.

Khi cháu hỏi thăm về dân tình, thời thế thì cô Hiền thành thực trả lời : Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ ? Theo cô, chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống ra sao, trai gái phải yêu nhau như thế nào, thậm chí cả tiền công sá cho kẻ ăn người ở. Cô Hiền mạnh dạn, thẳng thắn bày tỏ suy nghĩ, nhận xét của mình trước những hiện tượng chưa hợp lí của cuộc sống mới.

Đối với những người giúp việc trong gia đình, cô Hiền coi họ như người nhà. Trước đây, nhà cô Hiền cũng thuê một anh bếp và một chị vú. Chị vú trông con cho cô từ năm 19 tuổi đến năm 45 tuổi. Trong suốt 26 năm trời, cô Hiền coi anh bếp, chị vú tình nghĩa như người trong họ, đối xử rất tử tế, nên sau này khi đã về quê, vợ chồng họ vẫn qua lại thân tình, ngày giỗ ông chủ và ngày Tết đều đem gạo, đậu xanh, miến và rượu, toàn của nhà làm cả, lên biếu cô và các em.

Với thời cuộc, cô Hiền cũng bộc lộ rõ ràng thái độ của mình. Lúc người cháu (tức tác giả) thân mật và tò mò hỏi cô về thành phần giai cấp, về chuyện tại sao cô không phải học tập cải tạo… thì cô cười rất tươi : Tao chưa đủ tiêu chuẩn rồi thản nhiên nói: Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được.

Đó là sự thật hiển nhiên. Cô Hiền có cửa hàng làm và bán hoa giấy, cái nghề không giàu nhưng đủ ăn. Các loại hoa giấy, lẵng hoa bằng tre, bằng mây rất đẹp do tự tay cô làm ra, bán rất đắt nhưng chịu thuế rất nhẹ. Vì thế nên cô không bị gán cho là thành phần tư sản giữa cái thời cải tạo và đấu tranh giai cấp rất quyết liệt. Mấy bà bạn của cô Hiền thắc mắc: Trông bà như tư sản mà không bị học tập cũng lạ nhĩ? thì cô nhẹ nhàng, hỏm hỉnh trà lời: Các bà không biết nhưng Nhà nước lại rất biết.

Trong chuyện làm ăn, cô Hiền cũng tỏ ra khôn hơn các bà bạn và thức thời hơn ông chồng. Trước giải phóng, chồng cô dạy học, nhờ viết sách, in sách mà kiếm được tiền, tậu hai căn nhà, một để ở và một cho thuê. Khi có chính sách cải tạo tư sản năm 1956, cô Hiền đã kịp bán ngôi nhà ở Hàng Bún cho một người bạn mới ở chiến khu về. Một năm sau, có cán bộ tới hỏi về nhà cửa, nhắc tới ngôi nhà ở Hàng Bún, cô Hiền trả lời rất lịch thiệp : Xin mời anh tới ngôi nhà anh vừa nói, hỏi thẳng chủ nhà xem họ trả lời ra sao. Nếu còn thắc mắc xin mời anh trở lại.

Trong chế độ mới, chồng cô Hiền không được phép mở trường tư thục nên định mua một máy in nhỏ để kinh doanh. Cô liền hỏi: ông có đứng máy được không? ông có sắp chữ được không ?… ông muốn làm một ông chủ dưới chế độ này à ? Chồng cô tính vốn nhát nên rút lui ngay trước những câu hỏi dồn dập nhưng rất thức thời của vợ. Những nhận xét của cô Hiền về cuộc sống mới sau hòa bình qua cuộc trò chuyện với người cháu là chân thành và táo bạo : Chế độ này không thích cả nhân làm giàu, chỉ cần họ đủ ăn, thiếu ăn một chút càng hay, thiếu ăn là vinh chứ không là nhục, nên tao cũng chỉ cần đủ ăn. Làm hoa giấy không thể làm giàu được nhưng rất đủ ăn, lại nhàn, lại không phải lo sợ gì. Tôi hỏi lại : “Còn chú, còn các em ?". “Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dầu họ có đủ tài để không phải sống ăn bám”. Cô Hiền khôn ngoan, nhanh chóng thích ứng với cuộc sống mới mà vẫn không đánh mất mình. Là người có đầu óc thực tế, mọi việc cô Hiền đều tính toán trước và cô luôn luôn đúng. Suy nghĩ của cô Hiền linh hoạt và quyết đoán : Đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ. Cô Hiền tuyên bố thẳng thừng với đứa cháu : Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cà chế độ. Những sự kiện lớn trong cuộc đời cổ đã chứng mình rằng điều đó là đúng.

Trước tiên là việc hôn nhân, vốn là một cô gái Hà Nội có nhan sắc, lại con nhà giàu nhưng gần ba chục tuổi cô Hiền mới lấy chồng. Cô không lấy quan mà công chẳng hứa hẹn gì với đám văn nhân tài tử lãng mạn viển vông mà chọn một anh giáo Tiểu học đứng đắn hiền lành để kết bạn trăm năm. Điều ấy khiến cả Hà Nội kinh ngạc vì con gái thường ham sang, ham giàu, còn cô Hiền lại vượt qua thói thường ấy. Sự chọn lựa này cho thấy cô Hiền có thái độ nghiêm túc đối với hôn nhân, đặt trách nhiệm làm vợ, làm mẹ lên trên hết.

Ở cái thời dân ta sống khổ cực nhưng nhà nào cũng thích có nhiều con thì quyết định chấm dứt sinh đẻ vào tuổi bốn mươi của cô Hiền là hết sức đúng đắn. Cô nói với chồng: Từ nay là chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi rồi, nếu ông và tôi sống đến sáu chục tuổi thì con út đã hai mươi, có thể tự lập được, khỏi phải sống bám vào các anh chị.

Cô Hiền không tin vào câu Trời sinh voi trời sinh cỏ, mà cô cho rằng con cái phải được cha mẹ nuôi dạy chu đáo để sau này có thể sống tự lập. Như vậy, trách nhiệm quan trọng của bậc làm cha mẹ là tạo dựng nhân cách và chuẩn bị cho con cái một tương lai tốt đẹp. Tình yêu thương con của cô Hiền là tình yêu sáng suốt của một người mẹ có tầm nhìn xa trông rộng.
Cô Hiền đặc biệt coi trọng vai trò người phụ nữ trong việc quản lí gia đình.

Theo cô thì người vợ không chỉ là nội trợ mà còn là nội tưởng. Cô phê bình người cháu: Mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng. Người đàn bà không là nội tưởng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao. Quan niệm về bình đẳng nam nữ của cô xuất phát từ thiên chức của phụ nữ và cô hiểu rõ vai trò quan trọng của người vợ, người mẹ trong gia đình.

Cô Hiền quan tâm dạy dỗ con cái từ khi còn nhỏ, từ những chuyện nhỏ. Khi ngồi vào bàn ăn, cô thường chú ý sửa chữa cách ngồi, cách cầm bát đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn. Cô không coi những chuyện ấy là vặt vãnh mà là văn hóa sống, văn hóa con người; hơn thế, đấy là văn hóa của người Hà Nội. Cô khuyên con cháu: Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng.

Cách thu xếp việc nhà và dạy bảo con cái của cô Hiền thật khéo léo và chu đáo. Cô quan tâm dạy bảo các con phải biết tự trọng, biết xấu hổ, nghĩa là biết giữ gìn nhân cách. Đây là nền tảng cơ bản để sau này trưởng thành cỏ khả năng tự lập, có đủ ý chí, nghị lực vượt mọi khó khăn, sống có ích cho gia đình, xã hội. 

Năm 1965, Hà Nội phát động phong trào tuyển quân vào Nam chiến đấu. Đợt đầu được 660 người, đều là những chàng trai ưu tú của Hà Nội. Dũng, con trai cả của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học liền tình nguyện xin đi đánh Mĩ. Cô Hiền đã chấp nhận cho con ra mặt trận với một tâm trạng giống như bao bà mẹ khác. Khi người cháu hỏi: Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ? Cô đã trả lời : Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng. Sao lại không đau đớn khi mà cô hiểu trong chiến tranh, bom đạn không chừa một ai. Nhưng bằng lòng nghĩa là cô chấp nhận sự hi sinh. Việc nước là quan trọng hàng đầu. Lòng yêu nước của cô Hiền cũng giống như lòng yêu nước của người Hà Nội, sâu sắc và kiêu hãnh biết bao !

Suốt ba năm trời, gia đình không hể nhận được tin tức gì của Dũng đang chiến đấu ở chiến trường miền Nam ác liệt. Tuy vậy, khi đứa con trai thứ hai cũng làm đơn xin đi đánh Mĩ thì cô Hiền vẫn hết sức bình tĩnh. Cô giãi bày với người cháu những lời lẽ rất chân thành và cảm động: Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó… Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì.

Những lời nói xuất phát từ đáy lòng của cô Hiền thể hiện một thái độ sống thật đáng trân trọng. Cái tinh tế trong đời sống tình cảm của cô Hiền chính là thái độ biết chia sẻ trước đau thương, mất mát của bao người mẹ khác. Tác giả phản ánh chân thực và tinh tế những giằng xé âm thầm giữa tình yêu con với tình yêu nước, giữa nỗi lo âu với ý thức về danh dự đã diễn ra trong tâm trạng cô Hiền. Không bà mẹ nào muốn con mình gặp gian khổ, hiểm nguy, nhưng cũng không bà mẹ nào muốn thấy con phải sống đớn hèn, nhục nhã. Cô Hiền hiểu con, tôn trọng danh dự của con nên chấp nhận để con vào Nam chiến đấu.

Qua chi tiết này, tác giả muốn khẳng định cá tính và bàn lĩnh của cô Hiền là không cố tạo uy tín, danh dự bằng những lời nói không thành thực, luôn sống đúng với bản chất của mình, đã sống là phải sống cho tử tế. Ngẫm ra trong đời, để làm một người tử tế là chuyện cực khó. Người ta chỉ giữ được sự tử tế khi có lòng tự trọng, biết phân biệt phải trái và biết hi sinh. Qua đó, ta thấy cái chuẩn trong suy nghĩ của cô Hiền là lòng tự trọng. Lòng tự trọng không cho phép con người sống hèn nhát, ích kỉ, trốn tránh trách nhiệm công dân.

Những phẩm chất mà cô Hiền có được là do tiếp thu từ truyền thống gia đình, từ năng lực tự ý thức, từ kinh nghiệm sống đúc rút trong cuộc sống đời thường của một người vợ, người mẹ. Tình yêu Hà Nội của cô Hiền không hời hợt hay cảm tính mà sâu sắc vì nó gắn với một niềm tin: Hà Nội là chuẩn mực về văn hóa của người Việt Nam. Mỗi công dân Hà Nội phải có ý thức giữ gìn và phát huy chuẩn mực đó.

Cô Hiền đã may mắn hơn bà mẹ của Tuất, may mắn hơn hàng ngàn, hàng vạn bà mẹ khác. Tháng 12 năm 1975, cả dân tộc đang say sưa tận hưởng vinh quang chiến thắng thì Dũng, con trai lớn của cô Hiển trở về. Anh đeo ba lô bước vào đến giữa nhà, cô Hiền hỏi: Anh muốn mua gì? Người con trai gầy ốm, đen đủi, chẳng còn dấu vết gì của một chàng thư sinh Hà Nội, nên người mẹ không sao nhận ra được.

Cô Hiền tổ chức liên hoan mừng con trai chiến thắng trở về. Khách mời là bạn bè thân thiết của vợ chồng cô, gồm các công dân Hà Nội, những tên tuổi đã thành danh ở đất kinh kì Vì thế nên bữa tiệc sang trọng và kiểu cách. Ngày thường, cô Hiền và các bà bạn ăn mặc bình dân: áo bông ngắn, quần thâm, đi dép, đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc quanh cổ hay bịt đầu, nhưng hôm nay, các vị khách ăn mặc thật đẹp. Mấy ông thì khoác áo ba-đờ-xuy, thắt cà vạt. Mấy bà tuy tóc đã bạc, hoặc nửa xanh nửa bạc, nhưng khoác áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển. Còn cô Hiền thì xuất hiện như diễn viên sân khấu, lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh…

Cô Hiền tâm sự với người cháu về cách sống của mình: Khi sống giữa những người bình dân, tất cả đều có quyền ăn nói thô tục, nhưng sống với những người quý phái mình phải xử sự ra sao ? Xã hội nào cũng có giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị… Cái chuẩn đó là tinh túy của lối sống, của văn hóa, đạo đức, của văn minh tiến bộ. Cô Hiền đã cố gắng gìn giữ lối sống đó, dù là trong hoàn cảnh khó khăn.

Anh Dũng đã sống đúng với lời mạ dạy về cách sống của người Hà Nội. Nồm 1965, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác Hệt, vừa tốt nghiệp trung học, Dũng tình nguyện xin vào Nam đánh Mĩ. Anh đã chiến đấu suốt mười năm và may mắn trở về nguyên vẹn. Biết bao đồng dội của anh không có mặt trong ngày toàn thắng. Dũng xúc động kể rằng 660 thanh niên ưu tú của Hà Nội lên đường cùng anh ngày ấy, bây giờ còn lại khoảng chừng trên dưới bốn chục. Hơn 600 người đã hiến dâng tuổi thanh xuân và sinh mạng của mình cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Nhớ về những đồng đội đã hi sinh, Dũng xót xa thương Tuất, người bạn cùng trung đoàn. Ngày vào Nam, lúc tàu qua ga Hàng cỏ, Tuất nghe rõ tiếng mẹ mình phát trên loa của phòng phát thanh nhà ga nhưng anh không thể xuống để từ biệt mẹ. Đấy cũng là những lời cuối cùng của mẹ mà Tuất nghe thấy. Anh đã hi sinh ở trận đánh vào Xuân Lộc, trước ngày toàn thắng có mấy ngày. Có biết bao bà mẹ Hà Nội vô cùng thương con và đầy nghị lực như mẹ của anh, họ đã nén chịu nỗi đau mất con, tiếp tục sống, tiếp tục dựng xây cuộc sống hòa bình. Gặp lại Dũng, bạn chiến đẩu của con, người bà run bần bật nhưng không khóc. Có thể nói những người mẹ Hà Nội đã góp phần tô đậm cốt cách tinh thần người Hà Nội nói riêng và phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam nói chung.

Tác giả đã tìm hiểu và khai thác một góc khuất của chiến tranh mà trước đó văn học mới chỉ đề cập đến cái hùng tráng mà chưa nói đến bi kịch của từng gia đình, từng số phận con người sau chiến tranh. Vinh quang chiến thắng được tính bằng máu nên không thể vì niềm vui hội ngộ trong cuộc sống hòa bình mà mọi người được phép quên đi.

Cô Hiền quan niệm rằng đã mang danh là người Hà Nội thì phải biết hướng tới cái đẹp. Đó là cái đẹp tỏa chiếu từ chiều sâu văn hóa của đất Thăng Long. Không phải ngẫu nhiên mà mỗi tháng, cô Hiền lại tổ chức mời cơm bạn bè một lần. Trong những dịp ấy, cô và bạn bè được sống lại không khí của một thời vàng son thuở trước. Tuy đã lùi vào dĩ vãng nhưng nó chưa hề mất đi bởi đây là nét đặc trưng của người Hà Nội, là dấu hiệu để phân biệt nếp sống kinh kì với nếp sống tỉnh lẻ.

Ở cuối truyện, tác giả kể về lần từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội công tác có đến thăm cô Hiền. Nhiều năm trôi qua, gia đình cô Hiền đã thay đổi rất nhiều. Chồng cô đã mất, các con đã lập gia đình riêng. Cô Hiền ngoài bảy mươi tuổi, tuy đã già yếu nhưng vẫn là người của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Phòng khách của gia đình cô Hiền được tác giả miêu tả khá tỉ mỉ: bộ sa lông cổ bằng gỗ gụ, cái sập gụ chân quỳ chạm trổ rất đẹp cùng nhiều đồ gia bảo khác. Nhìn bà lão tóc bạc đang chăm chú lau cái bát thủy tiên men đỏ trong khung cảnh ngoài trời mưa rốt, tác giả cảm thấy Tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái Tết Hà Nội. Cô Hiền đã nâng niu trân trọng những gì tốt đẹp của truyền thống văn hóa Thăng Long. Tính cách của cô Hiền khiến cho tác giả nghĩ về tâm lí sống ồ ạt, xô bồ của đám đông vừa thoát khỏi cái chết, cái khổ. Họ dễ gì có được sự bình tĩnh đế thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của một dò hoa thủy tiên.

Cô Hiên than thở về tuổi già hay nghĩ ngợi lan man mọi chuyện y hệt một bà già nhà quê. Cô kể cho người cháu nghe chuyện gió bão làm cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bật gốc đổ nghiêng, tán đè lên hậu cung… Lúc đầu, cô nghĩ đó là sự dời đổi, điềm xấu, là sự ra đi của một thời. Nhưng cây si không chết mà được cứu sống, sau một tháng nó lại trổ ra lá non. Từ chuyện ấy, cô Hiền suy ngẫm : Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được.

Sự khác biệt giữa lối sống của người Hà Nội xưa với người Hà Nội thời hiện đại gợi lên nhiều suy nghĩ khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Có người cho là thời thế đổi thay, đương nhiên con người cũng đổi thay. Có người thất vọng trước thực tại và hoài vọng quá khứ. Tác giả cũng không khỏi lo âu khi thấy Hà Nội đang giàu lên, náo nhiệt hơn trước nhiều nhưng đó chỉ là phần xác. Ông không tin rằng lớp trẻ đang hăm hở làm giàu còn có ý thức biết giữ gìn, yêu cái đẹp, còn giữ nét thanh lịch, hào hoa của người Hà Nội. Ông tức và đau vì gặp một số người thiếu văn hóa đến mức đáng giận và đáng thương như người mà ông hỏi đường, anh chàng đi xe đạp, cô con gái …

Nhưng cô Hiền không bình luận một lời nào về những nhận xét có phần bực bội của người cháu mà cô lại kể cho người cháu nghe chuyện cây si sống lại nhờ nỗ lực của thành phố. Đấy là bằng chứng cho thấy người Hà Nội hôm nay không phải chỉ coi trọng vật chất mà vẫn còn quan tâm đến đời sống văn hóa, tinh thần. Chuyện cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bị bão đánh bật rễ rổi lại hồi sinh gợi nhiều suy nghĩ về lẽ đời, về quy luật bất diệt của sự sống. Sức sống, vẻ đẹp truyền thống văn hóa của người Hà Nội cũng mạnh mẽ, trường tồn như vậy.

Truyện Một người Hà Nội chân thực và sinh động một phần là do tác giả đóng vai người kể chuyện để kể về những nét đặc trưng trong tính cách của người Hà Nội. Chất Hà Nội ẩn chứa trong chiều sâu tâm hồn và tính cách của nhân vật cô Hiền. Từ lời ăn tiếng nói đến nền nếp gia đình, từ cách giáo dục con cháu đến cách thức tổ chức cuộc sống và cách làm cho sang trọng bản thân… Tất cả đều được cô Hiền thu xếp đâu vào đấy. Cô Hiền luôn cổ ý thức rằng mình là người Hà Nội, từ trong cách ăn mặc cho đến những thú chơi thanh cao đòi hỏi sự kiên trì, tì mẩn như gọt củ thủy tiên sao cho hoa nở đúng giao thừa. Cô Hiền không chỉ là biểu tượng của một thời vàng son đã qua mà còn là hiện thân của truyền thống văn hóa Tràng An vững vàng qua bao biến thiên của lịch sử.

Đặt tên truyện là Một người Hà Nội, có lẽ tác giả muốn tô đậm bản lĩnh, cốt cách của người Hà Nội. Họ luôn có ý thức và tự hào mình là người Hà Nội, đại diện cho cả nước. Ca dao có câu: Chẳng thơm cũng thể hoa nhài – Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An. Chất Hà Nội ở nhân vật cô Hiền biểu lộ qua tính cách lịch lãm, qua thái độ ung dung tự tại, bình tĩnh trước những biến động của thời thế, qua sự khôn ngoan, sâu sắc của trí tuệ và chân thành, nồng hậu của tình cảm. Cô Hiền luôn tin tưởng rằng người Hà Nội thời nào cũng đẹp đẽ và thanh lịch.

Từ nhân vật cô Hiền, người đọc có thể nhận ra nhiều nét đẹp trong lối sống. Nối lối sống là hổi đến quan niệm, nguyên tắc làm cơ sở cho những ứng xử có ý thức của con người. Qua suy nghĩ và hành động của cô Hiền, ta thấy nổi bật lên bản lĩnh một con người luôn luôn dám là mình: là mình khi đề cao lòng tự trọng, là mình trong quan hệ với cộng đồng, đất nước, là mình trong chiêm nghiệm lẽ đời.

Lời bình luận của tác giả ở cuối truyện đã thể hiện tình cảm mến yêu và ngưỡng mộ đối với cô Hiền : Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng. Giọng kể của tác giả vừa có niềm lo âu, tiếc nuối lại vừa chan chứa cảm giác tin tưởng, tự hào. Hà Nội đang phát triển, giàu sang và hiện đại, liệu những vẻ đẹp xưa có được bảo tồn ? Qua cách kể chuyện, Nguyễn Khải thường đặt một sự việc dưới nhiều góc nhìn để cho bạn đọc tự rút ra kết luận chứ không áp đặt phải theo cách đánh giá của mình; vì thế mà vừa tạo được quan hệ bình đẳng vừa thể hiện được ý kiến của cá nhân. Giọng kể thay đổi linh hoạt, có đối thoại, có bình luận… Ngôn ngữ giản dị đời thường nhưng giàu ngụ ý và đậm chất trữ tình, triết lí… thể hiện sự quan sát sắc sảo, những suy ngẫm, chiêm nghiệm sâu sắc của một người từng trải nên khá hấp dẫn.

Truyện ngắn Một người Hà Nội và nhân vật cô Hiền để lại nhiều thiện cảm, giúp người đọc hiểu sâu hơn về con người và Thủ đô Hà Nội. Bức chân dung nghệ thuật về một người Hà Nội đã được Nguyễn Khải miêu tả rất thành công bằng vốn sống dày dặn và ngòi bút tinh tế. Phải chăng đây cũng là tình cảm của biết bao con người luôn hướng về Thủ đô – trái tim của đất nước. Ở tác phẩm này, Nguyễn Khải còn gián tiếp đặt ra vấn đề: Nhà văn phải có thái độ tỉnh táo, sáng suốt khi đi sâu tìm hiểu và soi chiếu vào những ngóc ngách của đời thường để tìm ra vẻ đẹp của con người và cuộc sống.

Phân tích truyện ngắn Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) – Bài số 2

Nói đến thế hệ nhà văn viết về nông thôn thì Nguyễn Khải là một trong số đó. Các tác phẩm viết về nông thôn của ông chủ yếu là trong quá trình xây dựng cuộc sống mới. Truyện ngắn "Một người Hà Nội" được viết với chủ đề như thế. Truyện ngắn đã phát hiện được vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn, tính cách con người Việt Nam qua bao biến động, thăng trầm của đất nước.

Truyện được viết dưới nhãn quan của nhân vật "tôi" và nhân vật trung tâm là cô Hiền. Truyện kể về những biến chuyển của Hà Nội những năm đầu vừa giải phóng. Hà Nội chuyển biến từ cảnh vật cho đến cách sống, cách sinh hoạt.  Và cách sống ấy là của nhà cô Hiền, "gia đình nàu rất khó gắn bó với chế độ mới, và chế độ mới cũng không thể tin cậy được ở họ. Là vì họ ở rộng quá, một tòa nhà tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung của đền Ngọc Sơn". "Cái mặc họ cũng sang trọng quá. Mùa đông ông mặc áo ba – đờ – xuy, đi giày da, bà mặc áo măng – tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt cườm. Lại cái ăn nữa cũng không giống số đông. Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản và từng người ngồi đúng chỗ đã quy định". "Họ đang tìm cách thích ứng với chế độ mới, cách sống, cách làm việc, và cả cách nói năng nữa". Truyện tập trung chủ yếu nói về lễ nghi của người Hà Nội mà cô Hiền là hiện thân của nó. Cô vẫn thường răn: "Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng".

Cô Hiền bị chê là tư sản nhưng rất khôn khéo trong việc nhà việc nước. Những nét đẹp của người Hà Nội cô đều có cả. Miêu tả cách sống của người Hà Nội song khi cách sống ấy đã bị mai một, tác giả đã thể hiện thái độ của mình. Cách sống ở Hà Nội bây giờ đã thay đổi. "Cách sống, cái tâm lý sống ồ ạt, xô bồ, vụ lợi của đám người vừa thoát khỏi cái chết cái khổ". Họ không còn giữ được cái bình tĩnh. Phần hồn Hà Nội không còn nữa. "Đã lâu không đến nên quên đường lát lát phải hỏi thăm. Có người trả lời, là nói sõng hoặc hất hàm, có người cứ giương mắt nhìn mình như nhìn con thú lạ".

Trong tác phẩm, Nguyễn Khải còn thể hiện vẻ đẹp của Dũng, những thanh niên Hà Nội. Họ tình nguyện đăng kí đi đánh Mỹ với lòng sắt son, tình yêu nước nồng nàn. Trước cái chết của đồng đội, họ không những thấy tiếc thương mà còn hổ thẹn. Tuất là bạn của Dũng nhưng Tuất đã hi sinh ở trận đánh vào Xuân Lộc, trước ngày toàn thắng có mấy ngày. Anh về đến Hà Nội "là muốn nhào ngay lại nhà ga, đến phòng phát thanh, gặp mẹ Tuất, nói với bà một lời, vì bọn cháu vẫn ở cạnh nhau suốt mười năm. Vậy mà phải mấy ngày sau, cháu mới dám đến. Cháu biết nói thế nào với một bà mẹ có con hi sinh, mà bạn của con mình lại vẫn còn sống đến tận bây giờ, đến hôm nay". Thêm một nét đẹp nữa về con người Hà Nội. Họ biết đồng cảm với những người bất hạnh hơn mình. Phần cuối tác phẩm, cô Hiền đã già, Hà Nội đã đổi khác nhưng nét Hà Nội trong cô vẫn còn đó, không bị pha trộn. Chính bởi đó mà tác giả thể hiện sự tiếc nuối nếu nét ấy không còn. "Một người Hà Nội như cô chết đi thật là tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào đất cổ".

Kết thúc tác phẩm, Nguyễn Khải đã cho người đọc nhiều suy ngẫm nhất là đối với những ai sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Tác phẩm như một bài ca nhẹ nhàng về lối sống, con người Hà Nội. Giọng điệu trần thuật tự nhiên và nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình của Nguyễn Khải đã giúp cho tác phẩm tiến gần với bạn đọc hơn.

Phân tích truyện ngắn Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) – Bài số 3

Nguyễn Khải là nhà văn giỏi quan sát chuyện đời, chuyện người, say mê giảng giải, triết lí về mọi sự bằng một tư duy phân tích sắc sảo. Nét độc đáo ở những trang viết của ông là mối quan hệ giữa "chuyên người" với "chuyện mình", giữa "chuyện đời" với "cái tôi" trải nghiệm chặt chẽ đến mức luôn có xu hướng làm thành một kết cấu trần thuật kép : vừa "phản ánh" vừa "biểu hiện", vừa nhằm "tác động" vừa "tự nhận thức", vừa xác định chân lí theo kinh nghiệm cá nhân vừa muốn bàn bạc, đối thoại với những kinh nghiệm khác. Chính cái tôi tác giá, một cái tôi có khá năng in đậm dấu ấn lên câu chuyện (rất thông minh khi phát hiện và lật xới vấn để, dễ dàng nắm bắt được trạng thái tinh thần thời đại phía sau những ứng xử thường ngày, kể chuyện mà cứ như đang suy nghĩ – luận bàn về câu chuyện với rất nhiều đúc kết khôn ngoan) đã giúp Nguyễn Khải khẳng định vị trí chắc chắn trong tâm trí những bạn đọc yêu thích thứ văn chương giàu chất trí tuệ mà vẫn tựa vững trên tấm lòng trìu mến, thân thiện đối với con người. Khi tự chia hành trình sáng tác của mình thành hai giai đoạn (trước năm 1978 và từ 1978 trở đi), nhà văn không chỉ muốn nói đến mối quan hệ giữa "con người" và "thời thế", đến những sự điều chỉnh cần thiết và tất yếu trong thế giới quan của ông ở giai đoạn thứ hai, mà còn gián tiếp triết lí về cái hữu hạn của nghệ thuật trước cái vô hạn của đời sống. Từ đây ông sẽ lấy triết lí này làm nguyên tắc sáng tạo : khước từ cung cách độc thoại của kiểu nhà văn đứng cao hơn bạn đọc để làm một người đề xuất vấn đề, gợi mở đối thoại, chia sẻ cảm xúc và chiêm nghiệm riêng trên tinh thần tôn trọng bạn đọc, trao cho họ quyền phán xét chân lí. Nếu trước năm 1978, Nguyền Khải chủ yếu theo đuổi cảm hứng chính luận và tập trung vào các vấn đề chính trị – xã hội thì từ năm 1978 về sau, ông dành mối quan tâm chủ yếu cho con người, trước hết là con người cá nhân, có thân phận, danh phận, bổn phận cụ thể đang đan dệt nên cái dòng cháy sôi sục, ồn ào, đầy biến động của cõi nhân gian. Một người Hà Nội, được hoàn thành ngày 19 – 1 – 1990 (theo ghi chú cuối truyện) là một truyện ngắn nghiêm túc, một cuộc đối thoại cởi mở về con người : Phải chăng bản lĩnh cá nhàn, lòng tự trọng của mỗi cá nhân là cốt lõi của nhân cách ? Phải chăng sự sâu sắc, thâm trầm, lối sống sang trọng, lịch lãm, có vãn hoá làm nên vẻ đẹp của người Hà Nội?

Được viết trong bối cảnh xã hội Việt Nam trên con đường đổi mới đang biến chuyên mau lẹ, nhiều cuộc "đụng độ" gay gắt giữa hai hệ giá trị cũ – mới xảy ra khi cơ chế kinh tế thị trường phát huy ảnh hướng rộng khắp và quan hộ giao lưu đa chiều đem đến nhiều kinh nghiệm mới mẻ, làm mất giá nhiều kinh nghiệm cũ, Một người Hà Nội là nơi tác giả gửi gắm những điểu mình chiêm ngẫm và trăn trư vé khả năng bảo tồn những giá trị mà ông tin là tinh tuý nhất của người Việt : văn hoá Thăng Long, Tràng An. Liệu mảnh đất ngàn năm văn hiến ấy trước cơn lốc kinh tế thị trường có đánh mất gương mặt tinh thần sang trọng, hào hoa được hun đúc suốt trường kì lịch sử ? Ma Văn Kháng khi viết Mùa lá rụng trong vườn (1985) cũng đã ít nhiều chạm đến câu hỏi này. Cùng thời điểm đó, đạo diễn Trần Văn Thuỷ làm bộ phim tài liệu nghệ thuật Hà Nội trong mắt ai đã không giấu cái nhìn phê phán có tính cảnh báo đối với những biểu hiện phi ván hoá cúa thủ đô đang hàng ngày bày ra ngay trước mắt du khách (bộ phim đem lại những tiếp nhận đa chiều). Một người Hà Nội có thể xem như một tiếng nói đối thoại sắc sảo Nguyễn Khải góp vào mối quan tâm chung của những ai nặng lòng với vẻ đẹp kinh kì (ý hướng đối thoại rất rõ vì nhà văn đã đưa truyện này vào một tập truyện có tên Hà Nội trong mắt tôi, in năm 1995). Người đọc dễ dàng nhận ra Nguyễn Khải dành cho Hà Nội một tình yêu và niềm tự hào sâu sắc đến thế nào và ông cũng coi trọng truyện ngắn Một người Hà Nội thế nào. Với ông, Hà Nội là "đất kinh kì"(tên một truyện khác trong tập), là nơi hội tụ tinh hoa cả nước : "cái nước sông Hồng, cái gió sông Hổng nó lạ lắm, nó làm ra văn chương Bắc Hà, văn chương Hà Nội". Mà đâu chỉ văn chương ! Chọn một người phụ nữ như nhân vật bà Hiền làm một "lát cắt" nhỏ về Hà Nội, ông muốn kí thác tình yêu bền chặt và sự kì vọng đối với truyền thống văn hoá dân tộc vào những con người luôn luôn biết cách nuôi dưỡng "nếp nhà". Chính nhờ họ mà nét đẹp riêng của kinh kì qua bao nhiêu thãng trầm lịch sử vẫn nguyên cốt cách, không gì có thể làm phiêu tán, phôi pha. Tính thời sự của tác phẩm do vậy lại gắn với nhu cầu đối thoại về văn hoá Hà Nội. Người như bà Hiền có phải là hiện thân của cái văn hoá ấy không?

Bà Hiền – điểm tựa chính cho chủ đề tác phẩm, được khắc hoạ nổi bật ở cả hai mặt : tính cách và tư tưởng. Qua điểm nhìn của người kể chuyên xưng "tôi", tính cách bà Hiền hé lộ dần, một tính cách "động" mà hoá ra ổn định từ đầu đến cuối. Tư duy nghiên cứu đã đảm bảo cho câu chuyên liên tục là những khám phá bất ngờ, "níu chân" bạn đọc. Từng bước hoàn thiện chân dung bà Hiền theo dòng chảy thời gian với bao đổi thay thời cuộc, mỗi lần gặp gỡ nhân vật là thêm một lần người kê chuyện ngỡ ngàng. Tác phẩm xâu chuỗi bốn tình huống nhận thức, cố ý tạo nên mạch truyện tưởng lan man, ngẫu hứng mà kì thực đan xen uyển chuyển, chặt chẽ, kết dính thành một hành trình nhận thức từ thấp đến cao (tình huống bà Hiền chọn chồng, tình huống bà bị "ngờ" là tư sản, tình huống các con bà tình nguyện đi chiến đấu và tình huống bà phải bày tỏ thái độ trước lối sống thủ đô thời kinh tế thị trường). Cảm quan lịch sử ở đây rất đậm nét. Mỗi tình huống tương ứng với một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, những phát hiện của người kể chuyện về bà Hiền là mạch phát triển tuần tự : từ hoài nghi đến nể phục, từ e ngại đến tin cậy, từ tò mò đến cảm động, trân trọng. Tình huống nhận thức trong Một người Hà Nội khác với trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu ở chỗ : không gay cấn, éo le, người kể chuyện không "bừng ngộ" mà "tiệm ngộ" dần dần cùng độ dài thời gian suy tư, chứng nghiệm, giống như một mạch ngầm văn bản. Có thể xem bà Hiền như chứng nhân cho những biến thiên lịch sử kéo dài từ trước Cách mạng tháng Tám đến thời kì đất nước tưng bừng công cuộc đổi mới. Qua bao biến động dữ dội, Bà Hiền vẫn vững vàng một bản lĩnh sống, đầy trách nhiệm công dãn mà không khi nào đánh mất mình "một đời không để bị ai cám dỗ". Bà luôn lấy lòng tự trọng làm nguyên tắc xử thế, lấy văn hoá làm thước đo giá trị sống : "là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống luỳ tiện, buông tuồng". Bà là một "thể phách" và một "tinh anh" của Hà Nội, vượt lên mọi biến suy của thời gian, mọi nông nổi của thói thời thượng để người đọc được nhẹ nhõm mãi niềm tin "Chẳng thơm cũng thể hoa nhài – Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An" (ca dao). 

Vẻ đẹp "người Hà Nội" trong bà Hiền thể hiện trước hết ở việc gìn giữ "nếp nhà". Gốc gác Hà Nội cho bà một căn cốt vững vàng từ nền giáo dục gia đình. Cha mẹ bà đã là bằng chứng cho việc người ta có thể giàu có mà vẫn lương thiện, giàu có mà không "trọc phú". Cô Hiền thuở trẻ được cha mẹ cho mở phòng tiếp khách văn chương (gọi là xa lông văn học). Với ai đó thì đây là cơ hội để lấy được tấm chồng danh giá hoặc chỉ đơn giản, có dịp phô diễn sự thức thời (kiểu bà Phó Đoan xây sân quần trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng chẳng hạn), nhưng với cô Hiền và gia đình cô, đấy là nhu cầu giao tiếp để mở mang tầm mắt, để hấp thụ thêm cái tao nhã cứa văn chương nghệ thuật. Thế nên việc cô Hiền chọn chồng đã khiến tất cả người quen biết bất ngờ. Họ bất ngờ vì họ tư duy theo thói thường. Cô Hiền đứng ngoài cái thói thường ấy. Có lẽ cô nhắm tới một cuộc hôn nhân đảm bảo duy trì truyền thống "giàu có lương thiện" của gia đình và cô phải đóng vai người "nội tướng" để giữ vững "nếp nhà". Đấy là sự lựa chọn của bản lĩnh cá nhân và của tình yêu Hà Nội sâu xa trong máu thịt. Những năm Hà Nội bị tạm chiếm, gia đình cô không tản cư (điều này gây ra sự ngờ vực ở không ít người về lập trường yêu nước của cô) nhưng thực chất cô không tản cư chỉ vì "không thể rời xa Hà Nội, không thể sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất nào khác". Một tình yêu kiên định bắt nguồn từ một niềm tin vững chắc vào sự ngay thẳng (nhưng có lẽ cũng vì vậy mà cực đoan nghĩ rằng chỉ ở Hà Nội mới duy trì được lối sống đẹp ?)

Khi Hà Nội được giải phóng, khi "văn hoá thời chiến", "văn hoá bình dân" lên ngôi, bà Hiền càng có ý thức nuôi dưỡng dưới mái nhà mình nét thanh lịch vốn có, từ cách ăn, cách mặc đến cách xưng hô. Theo bà, đấy cũng là văn hoá, bà muốn các con bà nhận ra "văn – hoá – người" ngay từ những chuyện nhỏ nhặt, thường tình nhất : "Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ, còn sau này muốn sống ra sao là tuỳ". Bà không uốn mình theo lối ứng xử dễ dãi của số đông. Cái sâu sắc ở người phụ nữ, người mẹ, người Hà Nội ấy không phải ai cũng nhận ra. Nhân vật "tôi" lúc đầu đã nghĩ bà "đích thị là tư sản" nên bảo vợ con "tránh xa" để khỏi liên luỵ, rồi sau đó lại cho bà là kẻ thủ cựu, cố chấp, không hợp thời. Có lẽ mãi sau này, khi gặp những kẻ không còn khả năng "biết xấu hổ", không còn lòng tự trọng mà chỉ còn sự trăng tráo thô bỉ, "tôi" mới thật hiểu trí lự của bà Hiền. Có một người mẹ như thế, tất sẽ có những người con "không sống bám vào sự hi sinh của bạn bè", tình nguyện đăng kí xin đi đánh Mĩ. Trong bữa tiệc gia đinh mừng ngày Dũng trở về từ chiến trường miền Nam, người – con – trai – bà – Hiền đã nói rất ít về những chuyện vui, những chiến công :

"Anh nói rằng trong nửa năm nay, anh không ngớt nghĩ về những người từ Hà Nội ra đi cách đây đúng mười năm. Sáu trăm sáu mươi người. Bây giờ còn lại khoảng trên dưới bốn chục" (Hà Nội của anh đã không tiếc máu xương cho Tổ quốc hoà bình, thống nhất). Rồi anh kể về tình yêu mẹ của người đồng đội tên là Tuất, về sự can đảm phi thường của mẹ Tuất lúc anh đến báo tin Tuất đã hi sinh. Niềm vui được sống trở về không làm chàng trai còn rất trẻ ấy quên chia sẻ nỗi đau của người khác. "Chất Hà Nội" từ thế hệ người mẹ như bà Hiền, như mẹ Tuất đang được chuyển giao thật tự nhiên sang thế hệ những người con như Dũng, Tuất. (Đối diện với họ, nhân vật tôi phải giật mình bởi những nhận xét ồn ào, vội vã : "tôi đã nói điều gì thất thố ?")

Để có thể gìn giữ nghiêm cẩn nề nếp gia phong, người phụ nữ đương nhiên phải đóng vai trò "nội tướng" (tục ngữ có câu "Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm"). Bà Hiền thực hiện tư tưởng nam nữ bình quyền theo cách riêng : dứt khoát mà vẫn thừa tinh tế. Bà chủ động chấm dứt sinh đẻ với nhận thức thật đúng đắn : sinh con nghĩa là phải nuôi dạy con nên người, phải chuẩn bị chu đáo cho mỗi đứa con có khả năng sống tự lập "khỏi phải sống bám vào anh chị" (lại vẫn lấy nguyên tắc tự trọng làm chuẩn). Bà chê trách người cháu : "Mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng". Bà điều hành gia đình bằng những phép tính khôn ngoan, nhìn xa trông rộng "và luôn tính đúng vì khòng có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng chen vô. Không có sự lãng mạn hay mơ mộng vớ vẩn. Đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ". Như vậy chồng và con bà không nể trọng sao được ? Có một chi tiết nhỏ tưởng bình thường mà thật đắt giá : thấy cậu con trai xưng hô không hợp với quan hệ gia đình (gọi anh là đồng chí), bà "cau mặt gắt" nhưng khi ông chồng cũng phạm chính lỗi đó, bà chí "thở dài, quay người đi". Một người vợ biết tôn trọng chồng là biết nhượng bộ, nhường nhịn đúng lúc. Nghiêm khắc, kĩ lưỡng uốn nắn con cái từng li từng tí, nhưng bà bao giờ cũng hiểu con và luôn biết dành cho chúng quyền tự quyết định. Bà đảm dang, tháo vát mà không ích ki lạnh lùng. Tình nghĩa thuỷ chung của vợ chồng chị vú em đối với gia đình bà nói lên điều đó.

Nhưng một người "nội tướng" mẫu mực chúng ta có thể gặp ở nhiều nơi. Cái làm nên tính cách riêng của bà Hiền, khiến bà – một phụ nữ bình thường trong hàng triệu phụ nữ Việt Nam – trở nên cá biệt, phi thường chính là bản lĩnh cá nhân, sự lịch lãm và lối sống sang trọng. Dù có lúc bị ngờ vực, bị soi xét bằng cái nhìn định kiến, bao giờ bà Hiền cũng vẫn là mình – một cái tôi khôn ngoan, giàu tự trọng, biết neười biết ta. Thuở trẻ trung, nhan sắc hơn người, bố mẹ lại giàu có, cô Hiền đã không buông mình cho thói hợm hĩnh, đua đòi ăn chơi hưởng lạc như vô số kẻ tầm thường khác. Sau này người phụ nữ ấy sẽ tạo lập tổ ấm của mình bằng chính bàn tay tài hoa, chăm chỉ và cái đầu giỏi tính toán, cho nên gia đình bà lúc nào cũng giữ được phong cách sống đàng hoàng, ấm áp. Bà "có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả" (giữa những cái nhìn kì thị với sự giàu sang cực đoan đến mức cháu cũng nghi ngại cô, thì phải có bản lĩnh lớn lắm mới có thể ung dung mà sống như bà Hiền). Không bao giờ xu thời, nhưng cũng không quay lưng với thời cuộc, bà tự giác điều chỉnh công việc làm ăn mỗi khi cơ chế thay đổi. Tỉnh táo và công bằng, bà phê phán sự lạc quan tự mãn thái quá của nhiều người trong những ngày đất nước mới độc lập: "Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ!" (có phải lại thêm một cái giật mình tự phản tính của tác giả ?). Bà không tán thành quan điểm "không khuyến khích cá nhân làm giàu" của chế độ mới nhưng không phản kháng mà cố gắng thu xếp sao cho gia đinh mình vừa không vi phạm luật pháp vừa không đánh mất truyền thống riêng. Một câu nói nhẹ nhàng giải thích việc bà không bị "học tập cải tạo" cho thấy bà rất công tâm: "các bà không biết nhưng Nhà nước lại rất biết". Con người ấy luôn độc lập trong nhìn nhân đánh giá và rất ít vướng vào định kiến.

Thông minh, thức thời, tháo vát,… đó là tính cách của bà Hiền trong cuộc sống đời thường. Tính cách ấy rất đáng để nể phục. Nhưng bản lĩnh ứng xử trước thời cuộc (luôn "là mình" mà không thiếu trách nhiệm với cộng đồng, tính toán khôn ngoan mà vẫn đằm thắm một tấm lòng đôn hậu) mới thực sự là những giá trị làm nên nhân cách của bà, làm nên văn hoá sống, làm nên cái đẹp. Khi hàng trăm thanh niên ưu tú của Hà Nội lên đường đánh đế quốc Mĩ, người con trai cả của bà Hiền tình nguyện nhập ngũ, bà không ngăn cản con, cũng không nhân đó mà khoe lòng yêu nước. Bà trả lời thẳng thắn "tao đau đớn mà bằng lòng". Trong văn học thời chiến tranh của ta hình như chưa một bà mẹ nào phát biểu thế cả. Nguyễn Khải đã rất sâu sắc để cho nhân vật công khai đối thoại với những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa ái quốc. Người đọc nào yêu chuộng sự trung thực sẽ rất cảm động vì tin vào cuộc đấu tranh nội tâm – dù chỉ được hé mở qua một câu nói – chắc chắn nhiều giằng xé mà người mẹ – người công dân như bà Hiền phải trải qua. Bà mẹ nào có thể vui khi đứa con phải đi vào nơi hiểm nguy, nhưng bà hiểu con "nó dám đi cũng là biết tự trọng". Bà không che giấu niềm kiêu hãnh : "tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè". Với việc ra đi của đứa con thứ hai, bà vẫn ứng xử trên nguyên tắc tự trọng và niềm kiêu hãnh như vậy vì theo bà, ngãn cản con là "bảo nó tìm đường sống để các bạn phải chết", "đấy cũng là cách giết nó". Bà đặt danh dự cao hơn sự sống, mất danh dự tức là chết về tinh thần, nhân phẩm.

Mang đậm cốt cách Hà Nội, trong sâu thẳm con người bà Hiền là cái tâm linh của Hà Nội. Tâm linh ấy được bồi đắp trên truyền thống của mảnh đất nghìn năm văn hiến. Khi con người tin rằng mình đang giữ gìn một giá trị, thì tự khắc nó tìm được khả năng đề kháng trước mọi biến suy và cám dỗ. Bà Hiền ý thức mình là người Hà Nội nên cái mà bà tha thiết bảo vệ và phát huy là cái chất Hà Nội. Bà không chỉ dạy dỗ con cái sống có văn hoá mà còn nỗ lực tạo dựng một môi trường văn hoá trong gia đình (mỗi tháng đều tổ chức một bữa ăn bạn bè làm sống dậy những nét sinh hoạt và giao tiếp sang trọng, đẹp đẽ như truyền thống kinh kì). Giữ nếp nhà là cách để giữ nếp người. Sau bao nhiêu biến thiên của lịch sử, giữa thời buổi kinh tế thị trường đầy tâm lí thực dụng mà phòng khách nhà bà Hiền – thế giới riêng của bà – vẫn giữ nguyên phong cách lịch lãm, quý phái của hơn nửa thế kỉ trước với tấm bình phong bằng gỗ chạm, bộ sa lông gụ, sập gụ, tủ chùa, lọ men Thuý hồng, lư hương đời Hán, liễn hấp sâm Giang Tây,… Những thứ đồ trưng bày đều là cổ vật quý giá, mang trong mình tính trang nghiêm, cổ kính của nhiều tầng văn hoá, biểu hiện cốt cách văn hoá của chủ nhân. Căn phòng khách có thể coi là biểu tượng cho con người có thế giới tâm hổn thanh sạch, luôn bình tâm trước mọi đổi thay. Và con người – chủ nhân của không gian ấy – cũng là một "cổ vật" hay một giá trị không phai nhoà của một thời vàng son. Hình ảnh bà Hiền đang lau đánh chiếc bát thuỷ tiên tưởng như đơn giản mà chứa đựng tất cả cái không khí Tết Hà Nội đặc trưng, đó sẽ là hình ảnh chắc chắn trong tương lai con người hiện đại phải nặng lòng hoài nhớ khi cái nhịp sống công nghiệp và xu hướng đô thị hoá ào ạt có nguy cơ tước đoạt hết những khoảng không gian yên tĩnh để di dưỡng tinh thần. Nhà văn đã dự cảm trước nguy cơ đó khi nêu câu hỏi : “Dân Hà Nội nhảy tàu lên Lạng Sơn buôn bán đủ thứ mà lại không buôn được vài ngàn củ thuỷ tiên", "ví thử có thuỷ tiên liệu còn có người biết gọt tỉa thuỷ tiên ?". Và còn đáng buồn hơn nếu cách sống ồ ạt xô bồ đã khiến con người không còn biết bình tĩnh mà thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của một giò thuỷ tiên. Phòng khách nhà bà Hiển là thế giới thực nhưng cũng đầy tính tượng trưng. Bà vẫn tỉnh táo, thức thời, có đ

0