Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) – Văn mẫu lớp 12
Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) – Văn mẫu lớp 12 Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) – Bài số 1 Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế. Quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng ...
Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) – Văn mẫu lớp 12
Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) – Bài số 1
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế. Quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, song gần như suốt cuộc đời, ông gắn bó với xứ Huế yêu thương. Tâm hồn nhà văn thấm đẫm đặc trưng của văn hóa Huế. Năm 1960, ông tốt nghiệp ban Việt – Hán Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, tốt nghiệp khoa Triết – Văn Đại học Huế. Sau đó, ông về dạy tại trường Quốc học Huế. Năm 1966, Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát li lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ bằng hoạt động văn nghệ, ông đã giữ các chức vụ: Tổng thư kí Hội Văn học nghệ thuật Trị Thiên – Huế. Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên.
Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt. Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn có sở trường về bút kí. Các sáng tác của ông có một phong cách riêng khó lẫn, thể hiện ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí,… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn giàu cảm xúc và tài hoa. Hoàng Phủ Ngọc Tường còn là nhà thơ trữ tình đằm thắm có những vần thơ đậm chất suy tưởng về con người và cuộc đời. Ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học và nghệ thuật năm 2007. Tác phẩm chính về văn xuôi : Ngôi sao trên đỉnh Phù Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (1987), Hoa trái quanh tôi (1995), Ngọn núi ảo ảnh (1999), Miền gái đẹp (2001). Thơ: Những dấu chân qua thành phố(1976), Người hái phù dung (1992).
Tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông ? được tác giả viết tại Huế tháng 1 – 1981, in trong tập kí cùng tên. Đoạn trích nằm ở phần đầu của thiên tùy bút này.
Đặc điểm của thể văn tùy bút là hết sức lãng mạn, bay bổng, ngẫu hứng, không tuân theo một quy phạm chặt chẽ nào. Nhân vật chính của tùy bút là cái tôi của tác giả. Vì thế, muốn hiểu bài văn, người đọc cần phải thấy được cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đó là một cái tôi tài hoa với vốn văn hóa sâu rộng, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, say mê cái đẹp của cảnh vật và con người xứ Huế.
Bài kí miêu tả vẻ đẹp của sông Hương, mở rộng ra là xứ Huế đẹp đẽ và thơ mộng; ca ngợi lịch sử vẻ vang, bề dày văn hóa của cố đô Huế và chiểu sâu tâm hồn người Huế. Thông qua đó thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào của tác giả về non sống gấm vóc, về những giá trị tinh thần thiêng liêng và cao quý của dân tộc.
Bố cục đoạn trích gồm ba phần:
Phần thứ nhất: Từ đầu đến… dưới chân núi Kim Phụng: vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn.
Phần thứ hai: Tiếp theo đến… quê hương xứ sở: vẻ đẹp của sông Hương khi chảy qua đồng bằng, ngoại vi và thành phố Huế rồi đổ ra biển.
Phần còn lại: vẻ đẹp của sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc, với cuộc đời và thi ca.
Bằng sự quan sát sắc sảo và năng lực cảm nhận tinh tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phản ánh sinh động và thú vị vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ của sông Hương ở thượng nguồn và hạ lưu. Hành trình của sông Hương từ thượng nguồn xuôi về biển là hành trình của tâm hồn xứ Huế, được tác giả miêu tả và thể hiện ở nhiều cung bậc khác nhau: vừa mãnh liệt, sối nổi; vừa sâu lắng, thiết tha; vừa bình thản, trí tuệ.
Phần thứ nhất giống như khúc nhạc dạo đầu của bản trường ca về quê hương đất nước với những hình ảnh tuyệt đẹp để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Tác giả so sánh sông Hương ở thượng nguồn như một bản trường ca của rừng già với tiết tấu hùng tráng, dữ dội: khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.
Tác giả phát hiện ra vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn tựa cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại với một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng… Khi về đồng bằng, chính rừng già đá chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình. Từ đó, sông Hương nhanh chóng mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Nghệ thuật nhân hóa được sử dụng đắc địa và khai thác tối đa đã mang lại cho sông Hương một linh hồn giống như con người.
Theo tác giả, nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành Huế mà không chú ý tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội thì người ta khó mà hiểu hết được bản chất của sông Hương và vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó đã không muốn bộc lộ. Tác giả đã kín đáo ngụ ý rằng: muốn hiểu đầy đủ về một con người, một miền đất, rộng ra là một đất nước, một dân tộc thì phải biết rõ về quá khứ; nếu không thì chẳng bao giờ hiểu đúng về hiện tại và xác định đước tương lai.
Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố Huế thể hiện nét lịch lãm, tài hoa trong lối hành văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Người đọc cảm nhận được sức hấp dẫn kì lạ toát lên từ hàng loạt động từ diễn tả dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế, gợi ra những liên tưởng kì thú: Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó… Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trân để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách…
Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương mềm như tấm lụa khi chảy qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím, êm ả lúc lượn qua những dãy đồi núi phía tây nam thành phố. Dòng sông mang vẻ đẹp trầm mặc khi chảy qua lăng tẩm, đền đài, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch… để rồi sau đó bừng sáng khi gập tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…
Phải là người con của Huế, gắn bó yêu thương máu thịt với Huế thì Hoàng Phủ Ngọc Tường mới viết được những câu văn đầy chất thơ và rưng rưng cảm xúc như vậy. Ở đoạn này, hai bút pháp kể và tả kết hợp nhuần nhuyễn; sự phối hợp hài hòa giữa màu sắc và âm thanh làm nổi bật vẻ đẹp của từng khúc sông Hương. Tác giả sử dụng khéo léo, tài tình phép tu từ thường thấy trong thơ như so sánh kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ… khiến đoạn văn giống như bài thơ trữ tình làm xao xuyến lòng người.
Dường như sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như nhũng vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến ; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.
Sông Hương giống sống Xen của Pa-ri, sống Đa-nuýp của Bu-đa-pét ở chỗ là đều chảy qua giữa lòng thành phố. Tác giả quan sát và cảm nhận sông Hương ở nhiều góc độ. Ở đoạn này, tác giả miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ góc độ văn hóa. Bằng con mắt của họa sĩ, tác giả thấy các nhánh của sông Hương tạo ra những đường nét uyển chuyển, mềm mại, làm nên vẻ đạp cổ kính của cố đô: Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh Sông Đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị, với những cây đa, cây dừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập loè trong đêm sương những ánh lữa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được.
Từ góc độ âm nhạc, tác giả cảm nhận sông Hương giống như điệu slow chậm rãi, sâu lắng, trữ tình: Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố… Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ảnh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.
Các chi tiết về phong tục, lễ hội qua cảm quan nhạy bén của tác giả cũng trở thành họa, thành nhạc, thành tình, thành thơ. Những câu văn dài với nhịp điệu du dương, êm ái làm cho tâm hồn người đọc tràn đầy cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến. Với tác giả thì sông Hương là cội nguồn của dòng nhạc cung đình Huế, là cảm xúc của Nguyễn Du để viết Truyện Kiều :
Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày, hoặc trên sân khấu nhà hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt rước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya. Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều. Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kĩ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời…". Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!".
Với cái nhìn đắm say của một nghệ sĩ, tác giả thấy sông Hương khi rời thành phố giống như người tình dịu dàng và chung thủy. Điều này được diễn tả bằng một phát hiện thú vị: …Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ…
Cũng theo tác giả, khúc quanh rẽ ngoặt thật bất ngờ đó có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người, tựa như một nỗi vương vấn và dường như còn có cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu… Ra biển, sông Hương rất nhớ thành phố. Nỗi nhớ ấy đọng trong lời thề: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian ; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở. Vẫn là so sánh kết hợp với nhân hóa ẩn dụ nhưng tác giả đã sáng tạo ra những hình ảnh đầy ấn tượng, đậm đà nét đẹp văn hóa xứ Huế.
Trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca chiến trận ghi lại những vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, thuở nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Sông Hương là dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt, Nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ vào thế kỉ mười tám ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa ; nó chứng kiến thời đại mới với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao chiến công rung chuyển đất trời qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược cửa dân tộc ta. Sông Hương là nhân chứng lịch sử chứng kiến mùa xuân Mậu Thân (1968), thời điểm quân dân ta mở cuộc tổng tiến công vào sào huyệt Mĩ – ngụy và sông Hương cũng chứng kiến tội ác hủy diệt của chúng đối với các di sản văn hóa, lịch sử trên đất Huế.
Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường gắn bó với từng con người xứ Huế, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Sông Hương không chỉ là bản hùng ca tấu lên bao chiến công trong lịch sử, mà còn là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của đất nước. Tuy nhiên, điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ : Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình cho một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc đời bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước.
Có lẽ chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Sông Hương gắn với cuộc đời các nghệ sĩ và thi ca. Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên muôn màu muôn vẻ trong trí tưởng tượng phong phú của tác giả:
Có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó : từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ, “dòng sông trắng, lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, từ tha thướt mơ màng, nó chợt nhiên hùng tráng lên “như kiếm dựng trời xanh" trong khí phách của Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu. Và ở đây, một lần nữa, sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều, trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả Từ ấy.
Có thể nói nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn van là tình yêu say đắm đối với dòng sông được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu cảm xúc và trí tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lí, văn chương cùng một văn phong tao nhã và tinh tế.
Sông Hương đã sống những thế kỉ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử và thẩm mĩ của nó. Trong bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông ?, Hoàng Phủ Ngọc Tường khẳng định chân lí: vẻ đẹp huyền diệu của sông Hương là cội nguồn sinh ra vẻ đẹp của tâm hồn Huế. Trong cảm nhận tinh tế và lãng mạn của tác giả, toàn bộ thủy trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiêm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích. Giá trị nghệ thuật của đoạn văn tăng lên qua từng chi tiết và cuối cùng thì thăng hoa bằng câu chuyện về một nhà thơ già:
Có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông, ném mẩu thuốc lá xuống chân cầu, hỏi với trời, với đất, một câu thật bâng khuâng: Ai đã đặt tên cho dòng sông ?
Để rồi đến phần thứ ba của bài kí, tác giả lí giải tên dòng Hương Giang bằng huyền thoại đầy chất thơ:
Người làng Thành Trung có nghề trồng rau thơm. Ở đây có một huyền thoại kể rằng, vì yêu quý con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sống cho làn nước thơm tho mãi mãi.
Ai đã đặt tên cho dòng sông ? Có lẽ huyền thoại trên đã giải đáp câu hỏi ấy chăng?
Giai thoại đó khiến cho dòng sông vốn đã nên thơ càng thêm thơ mộng: Hương là hương thơm của ngàn hoa đổ xuống làm cho làn nước thơm tho mãi mãi. Thơm tự ngàn năm, thơm đến ngày nay và mãi mãi về sau.
Cả bài kí toát lên vẻ đẹp diệu kì của sông Hương bởi trí tưởng tượng phong phú, bay bổng đầy sáng tạo và ngòi bút tài hoa của tác giả. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn sông Hương như một cô gái Huế, có lúc như là một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, nhưng nói chung vẫn là một thiếu nữ tài hoa, dịu dàng mà sâu sắc, đa tình và kín đáo, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình, khéo trang sức mà không lòe loẹt phô phang, giống như những cô dâu Huế ngày xưa kiêu sa trong sắc áo dài màu điều lục.
Bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông ? giúp chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ, nên họa, nên nhạc của cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế, đặc biệt là sông Hương ; thấy được bề dày lịch sử, văn hóa của Huế và những nét duyên dáng riêng của tâm hồn con người vùng đất cố đô này. Với một tâm hồn nghệ sĩ đa tình đa cảm, một vốn văn hóa phong phú về Huế và trước hết với một tình cảm gắn bố thiết tha đối với Huế, tác giả đã huy động triệt để mọi tiềm năng văn hóa cùng với vốn ngôn ngữ giàu có của mình để diễn tả vẻ đẹp và chất thơ của Huế, thể hiện tập trung nhất ở dòng sông Hương – một biểu tượng sinh động của xứ Huế ngàn năm văn hiến.
Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) – Bài số 2
Nếu người Hà Nội tự hào có con sông Hồng đỏ nặng phù sa, người Huế cũng tự hào khi có dòng sông Hương thơ mộng chảy qua thành phố Huế cổ kính với những lăng tẩm, đền đài. Con sông ấy đã chứng kiến bao đổi thay của lịch sử, sự thăng trầm của cuộc sống. Dòng nước của con sông Hương ấy đã tươi mát cho cảnh vật cũng như con người nơi xứ Huế này. Vì thế, người Huế rất tự hào về con sông ấy nó mang đặc trưng của Huế là niềm tự hào kiêu hãnh của những con người xứ Huế. Có lẽ cũng vì điều đó mà sông Hương cũng đã đi vào thơ ca, nhạc họa rất trữ tình và sâu lắng. Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người con xứ Huế đã bao lần ngắm con sông Hương rồi một lần bất chợt một lần thắc mắc, ai đã đặt tên cho con sông này là sông Hương nhỉ? Nỗi băn khoăn ấy được ông thế hiện trong tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông. Bằng ngòi bút trữ tình sâu lắng, thể hiện rõ phong cách thể loại Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác phẩm thể hiện sự uyên bác tài hoa của chủ thể sáng tạo trong cái nhìn liên tưởng cùng với những triết luận sâu sắc về quan hệ giữa dòng sông và lịch sử, dòng sông với thi ca nhạc họa, dòng sông và người xứ Huế.
Mở đầu Hoàng Phủ Ngọc Tường đã giới thiệu sự độc đáo, đặc biệt và đầy ấn tượng của con sông Hương. Nó là con sông duy nhất của thành phố. Trước về vùng châu thổ êm đềm, con sông thơ mộng ấy đã vượt qua bao thác ghềnh cuộn xoáy. Mang tính lưỡng thể, sông Hương vừa hùng vĩ như một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực thẳm, thế nhưng cũng có nhiều lúc dòng sông Hương trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm sài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Màu xanh của nước sông và sắc đỏ chói lọi của hoa đỗ quvên như hòa vào nhau, những bông hoa đỏ rực như đang nghiêng mình soi bóng dưới dòng nước trong xanh ấy của dòng sông, cảnh đẹp và nên thơ. Sông Hương không đơn thuần là dòng sông nữa khi được tác giả liên tưởng nó như một cô gái Di-gan phóng khoáng khi nó ở giữa lòng Trường Sơn, có lẽ rừng đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Một sự liên tưởng độc đáo và táo bạo với cách so sánh mạnh mẽ và đầy bất ngờ. Ở đây. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xem con sông như một nhân vật trữ tình khiến cho chúng ta cảm nhận được rằng sông Hương có sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng dịu dàng và say đắm. Thoát khỏi rừng già, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của cả một vùng văn hóa xứ sở. Dòng chảy của sông Hương ở đầu là cuộc hành trình gian truân không kém phần kì lạ và bí mật, vì nó đã đóng kín cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phượng.
Dường như có sự gặp gỡ giữa Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường, cả hai khi miêu tả con sông đều xem nó như một chủ thể trữ tình. Khi miêu tả con sông Đà. Nguyễn Tuân đã viết như oán trách… như van xin… như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo, có lúc như tiếng của hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rùng vầu rừng tre nứa đổ lửa… Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng thế, thật tài hoa khi miêu tả sông Hương đã không ngần ngại khi sử bũt pháp nghệ thuật so sánh, liên tưởng, ẩn dụ và nhân hóa về vẻ đẹp lưỡng thể đầy tính nhân văn của dòng sông Hương giữa đại ngàn Trường Sơn. Tác giả đã nhắc khẽ mọi người nếu chỉ mãi ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc chiến tranh gian truân mà nó đã vượt qua… suy tưởng ấy đã làm cho những liên tưởng mà tác giả nêu lên thêm phần rung động thấm thìa.
Vượt qua cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại, sông Hương như người con gái đang ngủ mơ màng được đánh thức bởi người tình mong đợi. Sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục khi vừa ra khỏi rừng. Nó như nôn nóng đi tới gặp người tình – thành phố tương lai của nó. Nó đã vòng những khúc đột ngột. Nó đã uốn mình theo những đường cong thật mềm… Con sông như được nhân hóa như đang làm duyên, đang múa lượn. Sông Hươn lúc thì trôi theo hướng nam bắc theo điệu Hòn Chén, vấp phải Ngọc Trản, lúc thì chuyển sang hướng sang tây bắc vòng qua bãi Nguyệt Biểu, Lương Quán. Rồi nó đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Dòng chảy của dòng sông Hương qua các địa danh ngã ba Tuần, điện Hòn Chén, Ngọc Trản, bãi Lương Biểu, Lương Quán, Vọng Cảnh,Tam Thai, Lưu Bảo… được tác giả vẽ ra, nhắc lại một cách chính xác thế kiến thức về địa lí, văn hóa tinh tường. Người đọc nhiều lúc cứ ngỡ là ông là người nhiều năm tháng đi du ngoạn ngược xuôi với con thuyền nhỏ bồng bềnh trong điệu Nam ai, Nam bình trên dòng sông Hương thơ mộng.
Ông yêu dòng sông quê mẹ, ông biết rõ dáng hình và những đường nét uốn lượn của nó. Cũng như Tố Hữu đã cảm mến thốt lên Hương Giang ơi, qua tim ta vần ngày đêm tự tình. Ông nói về sắc nước của Hương Giang là xanh thẳm dáng hình cùa nó mềm như tấm lụa, sự tấp nập rộn ràng của nó là những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng những con thoi. Ông say mê thưởng thức gương sông lấp lánh sớm xanh trưa vàng, chiều tím dưới ánh phản quang nhiều màu sắc trên nền trời Tây Nam thành Huế.
Giữa đám quần sơn lô xô, giữa những lăng tẩm đồ sộ của vua chúa nhà Nguyễn giừa những rừng thông u tịch, sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc, như triết lí, như cổ thi… tác giả nhắc lại một vần thơ cổ, thật đắc địa gợi lên không khí, khung cảnh u tịch và trầm mặc của những rừng thông, của dòng sông, những thành quách và những đồi núi lô xô ở đây. Ai đã từng một lần đến thăm thú Khiêm Lãng (lăng vua Tự Đức) mới cảm nhận được cái đẹp của cảnh vật mà tác giả nói đến:
Bốn bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng vạn niên
Sắp đến thành phố mến thương, mặt nước con sông Hương trở nên mơ màng, phẳng lặng trong tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, giữa bát ngát tiếng gà của những xóm làng.
Một lần nữa ta được thưởng thức một đoạn tùy bút mà chất thơ lai láng, bồi hồi. Những liên tưởng và suy tưởng, những so sánh và nhân hóa, những kiến thức về địa lí, về văn hóa về thi ca được tác giả vận dụng tài hoa khi nói về vẻ đẹp quyến rũ của sông Hương đoạn từ ngã ba Tuần đến chân đồi Thiên Mụ Đến vùng ngoại ô Kim Long, giữa những bãi biển xanh biếc, sông Hươu vui tươi hẳn lên khi nó nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phổ in ngần trên bầu trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Cồn Giã Viên và cồn Hến ở đầu và cuối thành phố như hai cù lao xanh đã làm cho dòng Hương uốn co mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu. Tác giả liên tưởng đến sông Xen của Pa-ri, sông Đa-núp của Bu-đa-pét, để nói lên vẻ độc đáo sông Hương là nó nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, nó đà cho Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai sông. Những nhánh sông đào mang nước Hương Giang tỏa đi khắp đô thị, những cây đa, cây cừa cố thụ, những ánh lứa chài lập lòe nơi xóm thuyền xúm xít trong đêm sương… đã làm cho cố đô Huế tựa như một linh hồn mô tê xưa mà không một thành phô hiện đại nào còn nhìn thấy được.
Lần thứ hai, Hoàng Phủ Ngọc Tường liên tưởng so sánh về lưu tốc của sông Nê-va nơi thành phố Lê-nin-grat nước Nga với sông Hương. Hình ảnh chim hải âu co một chân đậu trên chiếc thuyền băng lướt qua cung điện Pê-téc-bua như một khám phá nhiều ngộ nghĩnh. Tác giả mơ ước được hóa một con chim nhỏ co một chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển. Con sông Hương khi gặp kinh thành xưa, hai hòn đảo Giã Viên và cồn Hến đã làm nó trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh.
Nhìn những dòng sông, những dòng nước chảy, tác giả nhắc lại tiếng khóc của nhà triết học Hi Lạp hơn hai ngàn năm về trước để nêu lên suy nghĩ dòng chảy của cuộc đời, về sự biến chuyển không ngừng của vạn vật. Rồi ông lại nghĩ về điệu chảy lặng lờ của sông Hương, quý trọng coi đó là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Hình ảnh hàng trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội răm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về và sự ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của nỗi lòng đã nói lên thật thơ vẻ mộng mơ của sông Hương – bài thơ trữ tình của cố đô Huế.
Sự ngập ngừng vấn vương ấy là vẻ đẹp của Hương Giang mà nhiều nhà thơ đã cảm nhận, trong đớ Thu Bồn đã có lần rung cảm.
Con sông dùng dằng, con sông không chảy Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gieo chữ lên những vườn hoa, những cánh đồng màu mỡ trong đó mỗi so sánh, nhân hóa và liên tưởng về dòng sông Hương đi qua Huế tựa như hoa thơm trái ngọt đã thể hiện một bút lực và tầm cao trí tuệ của nhà văn sở trường về bút kí, tùy bút. Ông dã dành cho sông Hương cả một tấm lòng yêu mến và quý trọng đặc biệt.
Đoạn nói về sông Hương rời khỏi kinh thành ra đi được Hoàng Phủ Ngọc Tường diễn tả bằng một ngòi bút nghệ thuật rất đỗi hào hoa phong tình. Ông đã nhân hóa sông Hương thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, họ biết nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước Hương Giang. Ông cho hay, thi hào Nguyễn Du đã từng ôm ấp một phiến trăng sầu trong bao năm lênh đênh trên dòng sông Hương. Một nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỉ đã chỉ đích danh hai câu thơ Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời mang điệu nhạc cung đình Tứ đại cảnh. Hương rời khỏi kinh thành lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ, rồi nó lại đổi dòng đột ngột gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, phải chăng khúc lượn này, sông Hương có cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người. Tác giả cho rằng đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yẽu. Và ông đã so sánh sông Hương với nàng Kiều trong đêm trình tự, ông dẫn buông hai câu thơ của Nguyễn Du để nói sự lưu luvến chí tình với lời thề trước khi về biển cả. Thật không có sự so sanh nào hay hơn khi nói về con sông mang tình người, tình son sắt thủy chung của lứa đôi còn non, còn nước, còn dài – Còn về , còn nhớ… lời thề của lứa đôi, lời thề của dòng sông đã trở thành giọng hò dân gian của xứ Huế. Sâu xa hơn nữa. lời thề ấy là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở thân thương.
Đến với Huế mộng mơ là đến với sông Hương, đến với tiếng chuông chùa Thiên Mụ đến với tiếng gà Bao Vinh, là đến với lăng tẩm đế vương, đến với con người thủy chung trọn tình trọn nghĩa, là đến với lời ca điệu hò gian dịu ngọt
Tác giả bài tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? Đã nói hộ lòng ta những tình cảm sâu sắc tốt đẹp ấy.
Bài tùy bút đã thể hiện một bút pháp nghệ thuật độc đáo, tài hoa và phong tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác giả đã tạo nên chất thơ quyến rũ làm I say lòng người. Những tri thức về địa lí, văn hóa, thi ca, âm nhạc cùa ông đã chung đúc thành trang văn tuyệt bút.
Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) – Bài số 3
Hoàng Phủ Ngọc Tường quê gốc không phải ở Huế, nhưng sinh ra ở Huế, lớn lên và học tập ở Huế, hoạt động cách mạng ở Huế. Vì thế ông gắn bó với Huế hơn ai hết bằng tất cả máu thịt của tâm hồn mình. Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là một bằng chứng rất tiêu biểu cho sự gắn bó thắm thiết này.
Tôi vẫn cho rằng, những nhà văn thực sự có phong cách đều mang trong tâm hồn một "chất nam châm" riêng để hút lấy những gì thích hợp với nó. "Những gì" ấy, tôi gọi là vùng thẩm mĩ của mỗi cây bút. Huế và dòng sông Hương là vùng thẩm mĩ của Hoàng Phủ Ngọc Tường, là quê hương văn học đích thực của ông. Ông viết về đối tượng này bằng một trái tim say đắm, một vốn liếng ngôn từ tinh luyện và một kho tri thức phong phú, để tạo nên những trang văn vừa đẹp, vừa sang, vừa lấp lánh trí tuộ và chan chứa ân tình.
Ai đã đặt tên cho dòng sông ? thuộc thể văn tuỳ bút. Tuỳ bút có hai đặc điểm vể mặt thể loại:
– Hành văn hết sức tự do phóng túng, không bị ràng buộc bởi một quy phạm chặt chẽ nào;
– Nhân vật chính là cái tôi của tác giả. Tuỳ bút, vì thế, thường giàu chất trữ tình (Nguyễn Tuân gọi viết tuỳ bút là "chơi lối độc tấu").
Giá trị của bài tuỳ bút Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là ở những phát hiện phong phú, độc đáo, tinh tế về vẻ đẹp nhiều mặt của dòng sông Hương, nhờ một cái tôi tài hoa, uyên bác, dạt dào tình cảm với đối tượng viết của mình.
1. Những khám phá về vẻ đẹp của dòng sông Hương
a) Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hương hay vẻ đẹp của cô gái Huế
Quan sát dòng sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường phối hợp cùng một lúc nhiều điểm nhìn khác nhau. Nhưng dù từ điểm nào thì trong con mắt của ông, dòng sông Hương cũng hiện lên như một cô gái đẹp – không phải cái đẹp chung chung, mà vẻ đẹp của cô gái Huế, với cái duyên dáng riêng và mang tâm hồn riêng của Huế. Đối với Hoàng Phủ Ngọc Tường, thật khó phân biệt đâu là thiên nhiên, đâu là con người, đâu là dòng Hương, đâu là cô gái Huế. Trong cảm quan thẩm mĩ của ông, qua bài tuỳ bút, thấy dường như có một nhân vật mang tên Dòng sông Hương – cô gái Huế.
Nói đến dòng sông độc đáo này, người ta thường chỉ nghĩ đến vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng của nó. Nhưng tìm hiểu từ ngọn nguồn, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn thấy được một phương diện khác của nó : phương diện "phóng khoáng man dại" với những "ghềnh thác cuộn xoáy như cơn lốc" đổ xuống những vực sâu trong lòng Trường Sơn. Tác giả gọi đó là một phần "bản chất", là "phần hồn sâu thẳm" của dòng sông. Phải chăng, đó cũng là một phát hiện sâu sắc và bất ngờ về cô gái Huế : trong cái dịu dàng thơ mộng, vẫn ẩn chứa "một cô gái Di-gan", mà cũng như dòng sông khi ra khỏi cửa rừng, "đã đóng kín lại […] và ném chìa khoá trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng".
Tình tứ mà dịu dàng, kín đáo, đó là cái duyên dáng riêng của Dòng sông Hương – cô gái Huế. Tác giả đã diễn tả vẻ đẹp ấy bằng những nét vẽ cũng thật là tình tứ, dịu dàng với "những đường cong thật mềm", những "hình cung thật tròn", "ôm lấy chân đồi Thiên Mụ", "mềm như tấm lụa", "uốn một cánh cung rất nhẹ […] làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu" ; qua vùng ngoại ô Vĩ Dạ, "xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái", nó bỗng đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây như để gặp lại thành phố thân yêu lần cuối cùng trước khi ra biển, thể hiện "nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu".
Diễn tả dòng sông, ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường dường như cũng uốn lượn theo những đường cong mềm mại của nó bàng những nét vẽ như ấp ôm, như ve vuốt…
Cô gái Huế đẹp nhất và cũng duyên dáng, kín đáo nhất là trong sắc áo "điều lục", trang phục truyền thống của cô dâu Huế. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, màu áo ấy cũng bắt nguồn từ vẻ đẹp đặc trưng của sông Hương : một "loại vải vân thưa màu xanh chàm lồng lên một màu áo đỏ bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện thấp thoáng theo bóng người […]. Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên",…
b) Vẻ đẹp của sông Hương, nhìn từ góc độ văn hoá
Hoàng Phủ Ngọc Tường gọi sông Hương là "người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya". Ai đã đến thăm Huế, hẳn đều được nghe nhạc Huế. Nhưng cũng đã mấy ai hiểu rằng, phải nghe nhạc Huế trên sông Hương vào lúc đêm khuya mới cảm nhận được hết linh hồn của nó. Bởi vì, như tác giả khẳng định, "toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này". Có lẽ vào những đêm khuya, trong không khí tĩnh lặng có thể nghe được cả tiếng động rất nhẹ của nhịp chèo và những giọt nước rơi, những nghệ nhân xưa, nhìn mặt nước sông Hương in bóng trăng thanh, đã cảm hứng soạn ra những bản nhạc cổ điển và cả những điệu hò mái nhì, mái đẩy để gửi lòng mình với quê hương xứ sở…
Nhưng một phát hiện bất ngờ hơn nữa của tác giả là dòng Hương Giang và nhạc Huế còn có ảnh hưởng tới Truyện Kiều của Nguyền Du nữa. Tác giả tưởng tượng hơn hai trăm năm về trước, Nguyền Du từng lênh đênh trên dòng Hương với một "phiến trăng sầu . Nhà thơ nghe nhạc Huế và viết nên những vần thơ tuyệt đẹp của mình. Tất nhiên đây chỉ là một suy luận, nhưng không phái hoàn toàn không có căn cứ. Tác giả đã dẫn ra câu chuyện của một nghệ nhân già "chơi đàn hết nửa thế kỉ" đã nhận ra trong những vần thơ Kiều : "Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời" có âm hướng của giai điệu bài Tứ đại cánh. Một nhận xét cảm tính khá mơ hồ như thế của một nghệ nhân tài tử, chưa thể xem là một căn cứ chắc chắn. Dù sao, đây cũng là một bàng chứng về sự gặp gỡ giữa những tâm hồn nghệ sĩ cổ kim trên dòng Hương Giang.
Sông Hương còn là nơi khơi nguồn cho cả một dòng thi ca phong phú. Tác giả không có ý định liệt kê trong bài tuỳ bút của mình tất cả sản phẩm bề bộn của dòng thi ca này (mà đâu phải chỉ có thi ca). Ông chỉ muốn chứng minh rằng, vẻ đẹp của sông Hương không hề đơn điệu mà biến hoá đa dạng. Vì thế, mỗi phong cách thở lại có thể khám phá được những sắc thái khác nhau của nó : ở thơ Tản Đà, nó là "dòng sông trắng, lá cây xanh" ; ở thơ Cao Bá Quát nó lại là thanh "kiếm dựng trời xanh" đầy khí phách ngang tàng ; ở thơ Bà Huyện Thanh Quan, nó là "nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng" ; ở thơ Tố Hữu, nó lại là sức mạnh phục sinh của những kiếp giang hồ "Trên dòng Hương Giang".
Và sông Hương cũng là nơi đẻ ra bài tuỳ bút rất tiêu biểu của Hoàng Phủ Ngọc Tường : Ai đã đặt tên cho dòng sông ?
c) Sông Hương – thiên "sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc"
Gọi sông Hương là một áng trữ tình thì ai nấy đều dễ chấp nhận. Nhưng gọi nó là một thiên sử thi, một bản anh hùng Ca thì thật đáng ngạc nhiên. Đây lại là một phát hiện bất ngờ nữa của tác giả Ai đã đặt tên cho dòng sông ?
Nhân đọc Dư địa chí của Nguyễn Trãi và những tài liệu khảo cổ học về thành cổ Hoá Châu, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khám phá ra rằng, Hương Giang vốn tên là Linh Giang, một dòng sông nơi biên thuỳ, từng chứng kiến những cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân Đại Việt từ thuở Bà Trưng, Bà Triệu để báo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc qua những thế kỉ cổ trung đại.
Vậy là sông Hương đâu chỉ có vẻ đẹp mềm mại đầy nữ tính, mà còn tiềm tàng, trong chiểu sâu lịch sử của nó, một sức mạnh quật cường của dân tộc từ những ngày khai sơn, phá thạch, mở nước, dựng thành Hoá Châu hàng nghìn năm về trước. Sau này nó sẽ tiếp tục soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ, chứng kiến Cách mạng tháng Tám, chiến dịch Mậu Thân, và cuộc Tổng tiến công hoàn toàn giải phóng dân tộc mùa xuân 1975. Nhưng nó xứng dáng được gọi là một thiên sử thi, trước hết vì đã từng kiên cường chận đứng những đội quân xâm lược đến từ phía nam, oai hùng không kém gì Bạch Đằng, Như Nguyệt sau này từng tiêu diệt hàng vạn quân thù đến từ phía bắc.
Nhưng tác giả gọi sông Hương là thiên "sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc". Ông muốn nói, cùng với người dân đất Hoá Châu, nó sẩn sàng hiến mình dể làm ncn những chiến công hiển hách, nhưng sau đó lại muốn trở về với sinh hoạt đời thường, làm người con gái dịu dàng của Huế. Nghĩa là sử thi mà vần rất đỗi trữ tình.
Không phải ngẫu nhiên mà sau khi thuật kể những chiến công của sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại quay về với màu áo điều lục của những cô dâu Huế. Đúng là màu đỏ chói lọi lại giấu mình dưới một tấm voan xanh chàm để thành màu tím Huế ẩn hiện thấp thoáng như sương khói huyền ảo trên sông Hương…
Đúng là trở đi trở lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn nhìn sông Hương chủ yếu như một cô gái Huế kín đáo, dịu dàng.
2. Sông Hương và cái tôi nghệ sĩ tài hoa Hoàng Phủ Ngọc Tường
Như đã nói, để mô tả được mọi vẻ đẹp của sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã quan sát dòng sông từ nhiều điểm nhìn khác nhau : khi thì theo hành trình của nó mà di chuyển điểm nhìn từ ngọn nguồn xuôi ra biển ; khi thì đứng trên cao, từ đồi Tam Thai, Vọng Cảnh, ngắm nhìn dòng sông phản quang ánh sáng bầu trời "sớm xanh, trưa vàng, chiều tím" ; khi lại đặt mình vào lòng sông, tự làm một tấm gương soi chiếu những cảnh vật mà nó đi qua : những lăng tẩm đồ sộ, uy nghiêm ẩn mình trong những rừng thông u tịch – "Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên" ; đồi Thiên Mụ với tiếng chuông chùa trầm mặc dường như lan toả mãi rất xa, rất xa trên mặt nước phẳng lặng ; những xóm làng trung du nằm êm đềm trong tre trúc, bên những cánh đồng phù sa yên ả…
Nhưng quan sát từ điểm nhìn nào thì vẫn là con mắt của một nghệ sĩ tài hoa đã vờn vẽ nên một bức tranh liên hoàn về mọi phương diện của phong cảnh sông Hương – một bức tranh màu sắc tươi tắn nhưng thanh thoát nhẹ nhàng. Một cặp mắt quan sát tinh tế, một trí tưởng tượng phong phú và một tấm lòng đầy ân tình với Huế, đã giúp Hoàng Phủ Ngọc Tường có những so sánh, liên tưởng thần tình : "Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên […] nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non".
Quả là một so sánh tuyệt vời : vừa đúng với màu sắc của những vành cung nhịp cầu Tràng Tiền, vừa hợp với ánh sáng bầu trời, vừa dịu dàng duyên dáng như cô gái Huế, vừa là một nét bừng sáng phía chân trời xa nhưng không chói chang, vui tươi đấy mà không ồn ào…
"Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến ; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu".
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dùng tiếng nói riêng của tình yêu để tả cảnh. Tình yêu không bao giờ thích cao giọng ồn ào và thường không cần nói bằng lời. Một cái chớp mắt, một cái cúi đầu có thể thay cho một tiếng "vâng". Nhưng phải nói đây là ngôn ngữ tình yêu của cô gái Huế nên mới có cái e lệ, kín đáo và duyên dáng như vậy. Diễn tả cái uốn mình âu yếm và mềm mại của dòng Hương bằng một so sánh như thế thì quả là tinh tế, tài hoa, mà cũng thật là tình tứ.
"[…] sông Hương toả đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừa cổ thụ toả vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập loè trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được".
Tôi ngờ rằng nhận xét này của tác giả đã nảy sinh từ một liên tưởng đầy chất thơ đến một hình ảnh cổ điển rất quen thuộc của Đường thi :
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
(Trăng tà, chiếc quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.)
(Phong Kiều dạ hạc – Đêm đỗ thuyền ở Phong Kiều,
thơ Trương Kế, K. D dịch)
Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, nói đến những người viết bút kí, tuỳ bút có thực tài, người ta thường nghĩ đến Nguyễn Tuân trước hết, sau đó đến Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nếu bắc cân lên so sánh thì Nguyễn Tuân phong phú hơn, đa dạng hơn, sự nghiệp đồ sộ hơn. Cả hai đều say mê cái đẹp, suốt đời đi tìm và diễn tả cái đẹp. Nhưng nếu với Nguyễn Tuân, cái đẹp phải là những hiện tượng đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ, gây ấn tượng khác thường, thậm chí dữ dội – người đẹp thì phải là cái đẹp đổ quán xiêu đình, nghiêng thành nghiêng nước, còn thiên nhiên thì phải là đèo cao, thác dữ, là gió cuồng, bão táp ; thì với Hoàng Phủ Ngọc Tường, cái đẹp phải thơ mộng, dịu dàng, là dòng sông Hương trôi trong sương mờ, là cô gái Huế tình tứ mà kín đáo, e lệ và nếu là sử thi thì là "sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc".
Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) – Bài số 4
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Nhắc tới ông, người đọc không thể không bỏ qua bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được xuất bản năm 1984. Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của con sông Hương qua đó bộc lộ tình yêu quê hương xứ Huế mộng mơ và niềm tự hào về con sông đẹp đẽ ấy trên những trang văn giàu chất trí tuệ của Hòang Phủ Ngọc Tường.
Thật vậy, ngay ở nhan đề, sông Hương đã được tác giả đặt một câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông” như gợi sự tò mò của người đọc. Ban đầu, nhan đề xuất phát từ: “Hương ơi em phải mày không” nhưng về sau đổi thành Ai đã đặt tên cho dòng sông. Nó vừa kích thích giác quan của mọi người, vừa khơi dậy hứng thú muốn đào bới câu trả lời mà tác giả đặt ra. Sông Hương là tổng hợp của tất cả các vẻ đẹp dưới góc nhìn uyên bác của nhà văn về địa lí, lịch sử văn hóa, thiên nhiên con người.
Cùng miêu tả một con sông nhưng trái ngược hẳn với con sông Đà trong bài “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuần, con sông Hương của Hòang Phủ Ngọc Tường hiện lên một cách mới mẻ. Trước hết, mở đầu bài bút kí, dưới góc độ địa lí, Hòang Phủ Ngọc Tường đã giới thiệu một cách độc đáo về dòng sông Hương. Nó là con sông duy nhất của thành phố Huế. Nó gắn liền với Huế. Nhà văn đã lia ống kính quan sát tỉ mỉ để miểu tả về con sông ấy. Sông Hương ở thượng ngùôn. Nó mang sức sống hoang dại, mãnh liệt. Nó chảy “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, khi lại “mãnh liệt qua những ghềnh thác”, “cuộn xóay như con lốc vào những đáy vực bí ẩn”, nhưng cũng có lúc con sông ấy trở nên dịu dàng, say đắm ngọt ngào khiến tác giả liên tuworng tới cô gái Di-gan tự do, phóng khóang. Một sự so sánh ví von rất táo bạo. Hòang Phủ Ngọc Tường đã xem con sông như một người con gái có sức sống mãnh liệt, phóng khóang, man dại nhưng cũng rất dịu dàng. Thóat khỏi rừng già, chảy về đồng bằng, nó được thay đổi về tính cách “Sông như chế ngự được bản năng của người con gái” để mang một vẻ đẹp dịu dàng, trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của của một vùng văn hóa, xứ sở.
Dòng sông ấy tiếp tục chảy từ thượng ngùôn về tới Huế giống như cuộc “tìm kiếm có ý thức”. Nhà văn đã dùng hàng lọat động từ kết hợp với biện pháp nhân hóa để biến sông Hương hiện ra như một “cô gái đẹp mơ màng” nằm giữa cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại. Sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục khi ra khỏi rừng. Nó như nôn nóng khi muốn gặp người tình của nó – một thành phố Huế hứa hẹn. Nó đã vòng những khúc đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm mại. Dòng chảy sông Hương đi qua nhữn gđịa danh nổi tiếng như Chùa Thiên Mụ, địen Hòn Chén, bãi Lương Biểu.. Dòng chảy của con sông ở cuộc hành trình không kém phần kì bí, nó mang vẻ đẹp trầm mặc chảy dưới chân rừng thông u tịch với những lăng mộ âm u đầy kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn oai hùng. Đó là một vẻ đẹp cổ kính, trang nghiêm.
Sông Hương khi tới thành phố Huế không giấu được sung sướng, hân hoan. Nó hiện ra với hình ảnh chiếc cầu bắc qua dòng sông Hương: “ Chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Tác giả như thổi linh hồn vào mọi cảnh vật “đường cong ấy như làm cho dòng sông mềm hẳn đi”. Và dường như ta thấy, con sông ấy không muốn xa thành phố Huế mộng mơ, huyền ảo. Rồi như sực nhớ ra điều gì đó, nó “đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố”. Nhằn văn đã dùng biện pháp nhân hóa dòng sông ấy giống như một con người mang trong mình nhiều cảm xúc : “ Đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Sông hương giống như một người dân yêu quê hương không muốn xa rời mảnh đất này. Nó bịn rịn, đau khổ và đầy tiếc nuối. Ta có thể thấy được tình cảm giữa con sông và con người, mảnh đất Huế nó có sự gắn kết không thể tách rời.
Hòang Phủ Ngọc Tường để miêu tả được hết thảy vẻ đẹp của sông Hương dưới góc độ địa lí đã phải có một vốn kiến thức tổng hợp phong phú, cách sử dụng ngôn ngữ hết sức đa dạng kết hợp với một thứ tình cảm yêu thiên nhiên, yêu dòng sông ấy đến nhường nào để viết nên vẻ đẹp sông Hương nhiều cảm xúc đến vậy.
Sông Hương dưới ngòi bút của Hòang Phủ Ngọc Tường hiện ra một vẻ đẹp huyền ảo. Sông Hương phản quang vẻ đẹp biến ảo của Huế: “ sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Nó mang vẻ đẹp kì bí đến bất ngờ thay đổi liên tục màu sắc dòng sông trong ngày. Sông Hương như cô gái hấp dẫn đầy vẻ quyến rũ. Nó tôn tạo cho cảnh sắc thiên nhiên Huế.
Nhà văn lại chuyển mình lia ống kính đưa sông Hương tới góc độ lịch sử oai hùng. Sông Hương như một chứng nhân lịch sử, trải qua nhiều thời đại. Nó có tên là “linh giang” trong “ Dư địa chí” của Nguyễn Trãi. Nó gắn liền với thời kì Đại Việt, gắn liền với tên tuổi anh hùng Nguyễn Huệ thế kỉ 18. Dòng sông ấy tham gia vào Cách mạng tháng 8 lẫy lừng, nó chứng kiến cuộc nổi dậy tổng tiến công Mậu Thân năm 1968. Có thể thấy, sông Hương gắn liền với lịch sử Huế, lịch sử dân tộc. Nó như một tượng đài sừng sững vượt qua mưa bom bão đạn để vẫn hiên ngang đứng đó đối đầu, bảo vệ Huế, bảo vệ đất nước. Sông Hương còn gắn với một huyền thọai: “Người làng Thành Chung có nghề trồng rau thơm. Ở đây kể lại rằng vì yêu quí con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi.” Huyền thoại ấy đã trả lời câu hỏi : ai đã đặt tên cho dòng sông? Bằng vốn kiến thức phong phú cả về lịch sử, Hòang Phủ Ngọc Tường đã phác họa một con sông đậm chất bi tráng, đầy hào hùng. Ở phần này, chất trữ tình của tùy bút giảm đi, nhường chỗ cho chất phóng sự với những sự kiện lịch sử cụ thể.
Vẻ đẹp của sông Hương dưới góc nhìn văn hóa cũng hiện lên rất đẹp. Nó là dòng sông của âm nhạc, là dòng sông thi ca. Hòang Phủ Ngọc Tường đã miêu tả dòng sông ấy “không lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Ông đã viện dẫn các bài thơ của Tản Đà, Cao Bá Quát, Huyện Thanh Quan, Tố Hữu. Mỗi nhà thơ đều có khám phá riêng về nó. Từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ “dòng sông trắng – lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế ngưỡng mộ của Tản Đà, từ tha thiết, mơ màng đến tráng lệ “như kiếm dựng trừoi xanh” trong thơ Cao Bá Quát rồi lại hòai niệm trong thơ bà huyện Thanh Quan rồi nói đột ngột chuyển mình trở thành sức mạnh trong thơ Tố Hữu. Tác giả còn gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế, nó như một “ người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Ông còn tưởng tượng ra “trong một khoang thuỳên nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Chắc tác giả phải có một sự nhạy cảm về âm nhạc tuyệt vời đến nhường nào thì mới có sự liên tưởng phong phú như vậy? Viết về sông Hương, ông cũng liên tưởng tới truyện Kiều của Nguyễn Du. Ông so sá