16/01/2018, 13:17

Phân tích bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu) – Văn mẫu lớp 12

Phân tích bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu) – Văn mẫu lớp 12 Phân tích bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu) – Bài số 1 Tố Hữu một hồn thơ dân tộc, một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt nam. Có thể nói những tác phẩm của ông không chỉ thể hiện tư tưởng,lẽ sống của bản thân mình mà qua đó ta còn thấy ...

Phân tích bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu) – Văn mẫu lớp 12

Phân tích bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu) – Bài số 1

Tố Hữu một  hồn thơ dân tộc, một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt nam. Có thể nói những tác phẩm của ông không chỉ thể hiện tư tưởng,lẽ sống của bản thân  mình mà qua đó ta còn thấy được những sự kiện quan trọng của cách mạng nước nhà. Tháng 10- 1954 sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ bộ đội ta phải chuyển lực lượng thủ đô và chia tay với chiến khu Việt bắc. Kẻ ở người đi lòng không khỏi nhớ thương nuối tiếc tình quân dân trong mười lăm năm khánh chiến. nhân sự kiện trọng đại cùng với tâm trạng nỗi niềm ấy Tố Hữu đã viết bài thơ Việt bắc.

Mở đầu bài thơ Việt bắc là cuộc chia tay của những người kháng chiến và những người dân nơi đây:

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay. . . ”

Tám câu thơ đầu là khung cảnh cũng như tâm trạng của cuộc chia tay. Bao giờ cũng vậy “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.

Sau bao nhiêu năm chung sống ở mảnh đất Việt bắc, sống trong tình quân dân chan hòa nồng thắm ấy thế mà nay những người chiến sĩ đành phải cất bước ra đi. Mảnh đất gắn bó như thế bây giờ cũng phải chia tay. Cặp xưng hô mình ta thể hiện sự gần gũi thân thiết của cản bộ và người dân. Cái tình cảm ấy giống như những người thân trong gia đình mình vậy. Bốn câu thơ đầu là lời của người ở, những người dân Việt bắc hỏi đầy lưu luyến rằng người chiến sĩ có còn nhớ mười lăm năm thiết tha mặn nồng ấy. Không biết rằng những người chiến sĩ về có còn nhớ không, nhớ con người, nhớ núi rừng nơi đây. Những người chiến sĩ cách mạng cũng như đáp lại những ân tình ấy. Trong lòng người chiến sĩ ấy cũng lưu luyến những kỉ niệm nơi đây không khác gì so với người dân. Các chiến sĩ như cảm nhận được sự tha thiết trong câu hỏi của những người dân ấy. Lòng các chiến sĩ bâng khuâng, bồn chồn không muốn bước. Có thể nói các từ láy ấy đã thể hiện phần nào cảm xúc trong lòng người  chiến sĩ. Nghệ thuật hoán dụ với hình ảnh “áo chàm” chính là để chỉ người dân Viêt Bắc bịn rịn trong màu áo ấy đưa tiễn các chiến sĩ về với thủ đô. Kẻ ở người đi mà cầm tay nhau nhưng lại không biết nói lên điều gì. Có lẽ không cần nói mà cả hai đều biết được những ý nghĩa trong lòng nhau.

Thế rồi trong hoàn cảnh ấy toàn thể những con người ở lại cất lên lời nói để nhắc lại những kỉ niệm trong mười lăm năm thiết tha mặn nồng ấy:

“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Vẫn tiếng gọi mình thiết tha những người dân Việt bắc nhắc lại những ngày mưa nguồn suối lũ về, cả trời đất mây mù che kín. Khoảng khắc khó khăn ấy người dân luôn có những chiến sĩ kề bên. Hay người chiến sĩ kia về thì có nhớ đến chiến khu hay không, chiến khu ấy nghèo chỉ có cơm chấm muối thế nhưng nó tràn đầy những niềm yêu thương cưu mang đùm bọc của nhân dân nơi đây. Và trong hoàn cảnh chiến tranh khó khăn như thế miếng cơm chấm muối kia là đã quá đầy đủ rồi. Mối thù nặng vai người chiến sĩ, người dân như san sẻ gánh nặng ấy cho người chiến sĩ. Những người chiến sĩ về Hà Nội có còn nhớ đến rừng núi đất trời nơi đây. Và bây giờ trám bùi thì để rụng còn măng mai để già. Những gì của thiên nhiên Việt bắc vốn là để cho những chiến sĩ cách mạng thì giờ đây người đi những thứ ấy lại để rụng để già. Những từ nhớ như điệp đi điệp lại nhiều lần như vang vào trong lòng người những nhớ thương không muốn rời. Cặp xưng hô mình ta như biến hóa thành nhiều nghĩa, cứ lúc thì chỉ người ở lại nhưng lúc lại chỉ người ra đi. Điều đó thể hiện sự yêu thương gắn bó của những con người nơi đây với các anh chiến sĩ. Kẻ ở như thâu tóm cả thiên nhiên và con người Việt Bắc với những tình cảm của một tấm lòng son sắc không phai. Những địa danh được nhắc đến như chứng minh cho những trận chiến thắng mà các anh chiến sĩ đã lập nên tại đây.

Trước những lời chia tay thương nhớ thiết tha ấy, người chiến sĩ cách mạng cũng như trải lòng mình nói lên những tâm tư tình cảm gắn bó:

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu. . .
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi. . .

Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa. . . ”

Tố Hữu cũng học cách nói dân dã như chính những người nhân dân nơi đây vậy. Dù người chiến sĩ cách mạng ra đi thế nhưng trong lòng vẫn không thể nào quên được những kỉ niệm tình cảm ấy. Nghĩa tình giữa kẻ ở và người đi tựa như nước trong con suối kia vậy. Nó dào dạt ào ạt mãi mãi. Và những người chiến sĩ vẫn mãi đinh ninh một lời thề sắc son với người dân Việt Bắc. Từng kỉ niệm gắn bó như được thuật lại trong từng câu nói của người ra đi. Từ kỉ niệm về bát cơm thì sẻ nữa, chăn sui đắp cùng. Nhớ cả những người mẹ Việt Bắc với dáng hình địu con lên nương hái bắp. Một vẻ đẹp cần cù chịu thương chịu khó của nhân dân. Không những thế cả những giây phút cùng nhau học cái chữ quốc ngữ nữ. Đó là thái độ trật tự nghiêm túc của tất cả mọi người. Và những giờ liên hoan trong ánh đuốc lập lòe, những ngày tháng ấy như mãi khắc sâu vào trong tâm trí của người ra đi. Để mãi khi về đến thủ đô gió ngàn vẫn không sao quên tiếng mõ rừng chiều cùng chày đêm nện cối. Qua đây ta thấy được những tấm lòng của cả hai bên dành cho nhau vô cùng nồng ấm và tha thiết.

Các anh chiến sĩ lại kể tiếp về những hình ảnh thiên nhiên nơi đây hiện lên qua những lời kể ấy thật sự rất đẹp. Những câu thơ như vẽ lên một bức tranh tứ quý nơi đây, bốn mùa thiên nhiên hiện lên vô cùng đẹp:

“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. ”

Có thể nói rằng xưng hô mình ta lại một lần nữa được thay đổi, Ta ở đây chính là những người chiến sĩ cách mạng. Còn mình chính là những người dân ở lại. Những người chiến sĩ ấy cũng đã hỏi những người ở lại rằng có nhớ họ không. Hỏi như thế nhằm thể hiện sự lưu luyến yêu thương với mảnh đất và con người ở đây. Không biết rằng họ có nhớ không còn những người chiến sĩ lại nhớ cả hoa cùng người. Hoa kia chính là để chỉ cho thiên nhiên Việt bắc. Sau câu hỏi và sự bày ỏ tình cảm của mình ấy những người chiến sĩ nhắc đến những cảnh vật và hoạt động của con người Việt Bắc gắn liền với bốn màu xuân hạ, thu, đông. Thế nhưng nhà thơ lại chọn miêu tả thiên nhiên và con người nơi đây vào mùa đông trước bởi vì họ đến đây vào mùa đông và ra đi cũng vào mùa đông. Mùa đông hiện lên với hình ảnh của những hình ảnh của rừng xanh và màu đỏ tươi của ho chuối. Con người hiện lên với vẻ đẹp kiên cường chinh phục tự nhiên. Đến mùa xuân thì cảnh Việt bắc hiện lên với hình ảnh hoa mơ trắng tinh khiết khắp rừng, con người thì hiện lên với vẻ đẹp của sự cần mẫn trong lao động. Mùa xuân qua đi mùa hè lại đến thiên nhiên được thay từ màu trắng hoa mơ thành màu vàng của rừng phách. Người con gái hái măng một mình. Đến mùa thu thiên nhiên lại ngập tràn trong ánh trăng rằm soi sáng. Người chiến sĩ nhớ đến những người nhân dân việt bắc với khúc hát ân tình thủy chung. Như vậy qua từng ấy câu thơ thiên nhiên và con người Việt bắc hiện lên thật đẹp như đang níu giữ bước chân người ra đi.

Thế rồi hàng loạt những địa danh gắn liền với những hoạt động cách mạng của những người chiến sĩ được nhà thơ liệt kê ra như để khắc sâu vào trong tâm thảm mỗi người chiến sĩ về tình quân dân đã làm nên chiến thắng vang dội:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà. . . ”

Chính thiên nhiên cũng như đang che chở cho những người con Việt nam. Những núi đá dựng thành chiến hào thành quách để che chở cho người chiến sĩ và nhân dân nơi đây khỏi những bom đạn của quân thù. Và khi ấy cả bộ đội cả dân quân đều cùng nhau làm nên lịch sử. Trên dưới một lòng quyết tâm đánh địch. Người về nhưng trong vẫn nhớ đến những khoảng khắc đánh trận và những địa danh kia.

Và thế rồi không ai bảo ai cả kẻ ở người đi đều nhớ đến những ngày ráo riết chuẩn bị hành quân cho cuộc chiến đấu chống lại chiến dịch của thực dân Pháp. Khi ấy chính là lúc tình quân dân thể hiện rõ nhất:

“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. ”

Đó là cảnh hành quân của những người chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc. Tất cả đồng lòng như một, Ánh sao để chỉ người chiến sĩ còn mũ nan chính là những người dân quân Việt bắc. Cả hai cùng đồng lòng trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Những đoàn dân quân với những ngọn đuốc trên tay như soi sáng cả bầu trời Việt bắc. Ngọn đuốc ấy như một lý tưởng quyết tâm chiến đấu để bảo vệ đất nước đánh đuổi kẻ thù. Khí thế của tất thẩy với sức mạnh giống như là nát đá. Bằng biện pháp nghệ thuật phóng đại sức mạnh của nhân dân ta như được thể hiện rõ hơn. Nghìn đêm nhân dân ta phải sống trong cảnh khó khăn vất vả, cuộc sống khó khăn như đêm tối vậy. Thế rồi hình ảnh “đèn pha” bật sáng như lên thể hiện một niềm tin vào tương lai tươi sáng của những nhân dân ta. Họ đã sống trong khốn khổ để bật phá rũ bùn đứng dậy đấu tranh vì một niềm tin vào tự do hạnh phúc. Bọn giặc kia sẽ phải cút ra khỏi đất nước ta trả lại cho nhân dân ta một cuộc sống tự do và toàn vẹn lãnh thổ. Vậy là sau bao nhiêu khổ cực khó khăn nhân dân ta đã dành được chiến thắng. Tin vui ấy vui trăm mình. Từ Hòa Bình, đến Tây Bắc và Điện Biên cũng như chung vui với niềm chiến thắng ấy. Tất cả những địa danh ấy đều như thể hiện niềm vui của cả nước.

Để kết cho niềm vui lẫn niềm nhớ thương lưu luyến không muốn rời ấy nhà thơ cất lên những niềm tự hào về dân tộc. Đồng thời đó cũng là những giây phút nhớ về cảnh sinh hoạt đảng, biết bao nhiêu việc bàn luận ở hang động núi rừng:

Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu. . .

Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào. ”

Ngày những người chiến sĩ trở về với miền xuôi nghe trong lòng vẫn bâng khuâng nhớ đến những ngày tháng cùng nhau kháng chiến. Những cuộc họp những niềm vui đều được thể hiện trong những câu thơ cuối này. Lá cờ đỏ sao vàng như chứng minh cho thắng lợi của nhân dân ta. Ở đâu còn rợp bóng quân thù thì ở đó có Đảng và Bác Hồ. Chính vì thế mà tất cả hãy trông về miền Bắc mà nuôi chí bền. Vì chỉ khi có chí mới làm nên được mọi việc, thắng trận ngay cả khi quân thù có đủ điều kiện hơn ta về mọi mặt. Mười lăm năm kháng chiến sẽ còn mãi trong lòng những người chiến đấu và cả nhân dân ở đây nữa. Bao nhiêu gian khổ là bấy nhiêu tình cảm.

Như vậy nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện những tâm sự của mình nói riêng và của tất cả những chiến sĩ và nhân dân Việt bắc nói chung. Mười lăm năm kháng chiến với biết bao nhiêu kỉ niệm và giờ đây khi phải xa nhau thấy lòng mình thật muốn vỡ òa trong nức nở. Chân không muốn rời xa. Qua đây ta thấy được tình nghĩa đoàn kết keo sơn của con người Việt Nam mà cụ thể đó là tình quân dân. Để đạt được những thắng lợi trên mặt trận ấy thì không thể nào quên ơn những người nhân dân Việt Bắc được.

Phân tích bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu) – Bài số 2

Những bài thơ lớn của Tố Hữu đều sáng tác vào những điểm mốc của lịch sử cách mạng Việt Nam. Bài thơ “Việt Bắc” – kiệt tác của Tố Hữu cúng được sáng tác trong một thời điểm trọng đại của đất nước. Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.

Đoạn trích bài thơ “Việt Bắc” miêu tả cuộc chia li đầy thương nhớ lưu luyến giữa Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến và gợi lại những kỉ niệm kháng chiến anh hùng mà đầy tình nghĩa.
Tác giả đã chọn thể thơ lục bát và lối hát đối đáp như trong ca dao dân ca và hình tượng hoá Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến là Ta – Mình. Cuộc chia li giữa nhân dân Việt Bắc và những người chiến sĩ cách mạng như là cuộc chia tay của một đôi bạn tình đầy bịn rịn, nhớ nhung, lưu luyến.

Mở đầu là lời của Việt Bắc. Để cho Việt Bắc – người ở lại – mở lời trước là rất tế nhị, vì trong chia tay thì người ở lại thường không yên lòng đối với người ra đi

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Bài thơ “Việt Bắc” có hai giai điệu chính. Câu thơ mở đầu “Mình về mình có nhớ ta” là giai điệu chính thứ nhất. Câu thơ mới đọc thoáng qua tưởng không có gì nhưng sâu sắc lắm. Một trăm cặp tình nhân chia tay cũng đều nói lời này. Tố Hữu mượn màu sắc của tình yêu mà phô diễn tình cảm cách mạng. Đại tư Mình và Ta đứng ở hai đầu câu thơ, đã thấy xa cách. Từ “nhớ” được điệp lại ba lần đã tạo ra âm hưởng chủ đạo của bài thơ: lưu luyến, nhớ thường, ân tình ân nghĩa.
Người về lặng đi trước những câu hỏi nặng tình nặng nghĩa của Việt Bắc:

“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Việt Bắc lại hỏi:

“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”

Để cho Việt Bắc hỏi là một cách nhà thơ khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Chỉ vài hình ảnh “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” là khung cảnh rừng núi hiện lên ảm đạm trong những ngày đầu kháng chiến. Mình và Ta đã từng chịu chung gian khổ “miếng cơm chấm muối”, đã cùng chung lưng đấu cật để chống kẻ thù chung “mối thù nặng vai”.
Vẫn còn là lời hỏi của Việt Bắc, nhưng tứ thơ chuyển:

“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”

Biện pháp tu từ nhân hoá “rừng núi nhớ ai” nói lên tình cảm thắm thiết của Việt Bắc với những người kháng chiến. Mình về thì núi rừng Việt Bắc trống vắng “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. Quả trám (trám xanh và trám đen) và măng mai là hai món ăn thường nhật của bộ đội và cán bộ kháng chiến. Mượn cái thừa để nói cái thiếu, thật hay! Hình thức đối lập giữa cái bên ngoài (hắt hiu lau xám) và bên trong (đậm đà lòng son) biểu hiện chân thật cuộc sống lam lũ, nghèo đói của người dân Việt Bắc, nhưng trong lòng thì thuỷ chung son sắt với cách mạng.

Cuối lời Việt Bắc hỏi người về:
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Giai điệu chính thứ hai của bài thơ xuất hiện: “Mình đi, mình có nhớ mình”. Nếu giai điệu một là đạo lí của dân tộc với tư tưởng ân nghĩa thì giai điệu hai là cách mạng. Việt Bắc nhắn nhủ với người về là chẳng những “nhớ ta” mà còn phải “nhớ mình’, nói theo ngôn từ của tình yêu thì chẳng những phải “nhớ em” mà còn phải “nhớ anh” nữa. Cái “anh” mà hồi ở với em. Mình đã sống với Ta mười lăm năm, tình nghĩa biết mấy, anh hùng biết mấy! Mình với Ta viết lên những trang sử oai hùng của dân tộc “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”. Bây giờ xa cách, Mình về thành thị, nhớ đừng thay lòng đổi dại với Ta, mà cũng đừng thay lòng đổi dạ với chính mình:

“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”

Để cho Việt Bắc ướm hỏi dè chừng như vậy là một cách khéo léo nhà thơ Tố Hữu dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.

“Mình đi, mình có nhớ mình”
Đó là câu thơ hay nhất của bài thơ “Việt Bắc” mà cũng là một sáng tạo tuyệt vời của Tố Hữu!
Đón hết những lời ân tình ân nghĩa của Việt Bắc, bây giờ người về mới mở lời. Lời người về cũng chí tình chí nghĩa:

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh,
Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”

Hai đại từ Ta – Mình cứ xoắn xuýt, quấn quýt “Ta với mình, mình với ta” thật là nồng nàn. Ý nghĩa lại không rạch ròi để rồi nhập lại làm một:

“Mình đi, mình lại nhớ mình”
(Trả lời cho câu hỏi: “Mình về mình có nhớ ta”)

Diễn ra ngôn ngữ của tình yêu là “Anh đi anh lại nhớ em”. Nỗi nhớ của người đi thật là dào dạt, nghĩa tình của người đi đối với Việt Bắc thật là bất tận “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Người đi trả lời như vậy hẳn làm yên lòng người ở lại – Việt Bắc.
Như vậy là biến tấu của giai điệu một đã hình thành và mở rộng đến vô cùng. Tất nhiên đấy chỉ là một thủ pháp để nhà thơ miêu tả mối quan hệ khăng khít giữa Việt Bắc và cách mạng, miêu tả lại bản anh hùng ca kháng chiến của quân dân Việt Bắc.
Để xua tan những hoài nghi của người ở lại, người về phải nói những lời thật nồng thắm, phải so sánh với những tình cảm cao quý nhất của con người:

“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”

Từ “nhớ” được điệp lại trùng trùng và mỗi từ lại gợi lên không biết bao nhiêu kỉ niệm thân thương giữa Ta với Mình. Những chi tiết nhỏ nhặt đã được hồi tưởng (mà cái nhỏ trong tình yêu chính là cái lớn).

“Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
Con người Việt Bắc trong lòng người về mới đáng yêu đáng quý làm sao:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.”

Một tiếng mõ trâu giữa rừng chiều, một tiếng chày đêm ngoài suối âm vang mãi trong lòng người ra về:

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”

Nói gọn lại là người về nhớ thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng hữu tình(1); nhớ con người Việt Bắc giản dị, tình nghĩa, thủy chung.

Từ giọng điệu anh hung ca. Cuộc kháng chiến anh hùng của Ta và Mình được tái hiện trong hòai niệm của người về:

“Nhớ khi giặc đến giặc lung
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”

Thiên nhiên Việt Bắc như có linh hồn là nhờ tác giả sử dụng phép nhân hóa. Núi rừng Việt Bắc tươi đẹp đã trở thành lũy sắt bảo vệ và che chở cho bộ đội. “vây”, “đánh” quân thù. Mỗi một tên núi, tên sông, tên phố, tên bản là một chiến công lừng lẫy của quân dân Việt Bắc. Rồi những đêm hành quân, những đoàn dân công, những đòan xe vận tải tấp nập sôi động:

“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”

Tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi nhớ của người về đối với Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt Bắc trong trí nhớ của người về là quê hương cách mạng, là căn cứ địa kháng chiến, lừ niềm tin là hi vọng của cả dân tộc.

Người về cũng không quên trả lời câu hỏi gay cấn của Việt Bắc:

“Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”
(Trả lời cho câu hỏi “Mình đi mình có nhớ mình”)

Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt Bắc là dù xa cách dù về thành thị xa xôi thì người các bộ kháng chiến năm xưa vẫn giữ gìn và phát huy phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng. Như vậy là với biến tấu của giai điệu hai, tác giả đã khép lại phần một của bài thơ”Việt Bắc”. Và chủ đề chung thủy – chung thủy với cách mạng của bài thơ “Việt Bắc” đã đạt đến độ sâu sắc ngay trong phần một này.

“Việt Bắc” là một kiệt tác của Tố Hữu mà cũng là kiệt tác của thơ ca cách mạng, thơ ca kháng chiến. Bài thơ thể hiện tài hoa nhiều mặt của nhà thơ Tố Hữu. Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn những tình cảm, tư tưởng mới mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân(đặc biệt là hia đại từ Ta – Mình). Tiếng nói yêu thương – nét nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu – không có bài nào thấm thía hơn “Việt Bắc”. Bài thơ còn thể hiện tư tưởng mới mẻ với những dự báo sáng sưốt được biểu hiện bằng hình ảnh phong phú và tấu lên băng âm nhạc làm say mê lòng người.

Phân tích bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu) – Bài số 3

Nhà thơ Tố Hữu gắn liền với những vần thơ cách mạng, thơ của ông mượt mà trong từng câu chữ, trong từng nhịp phách. Thơ Tố Hữu luôn có sức hút lớn đối với người đọc, những ai đã đọc thơ của ông thì không thể bỏ qua bất kỳ câu chữ nào. Tư tưởng chính trong thơ của Tố Hữu là niềm say mê lý tưởng, là tính dân tộc, là tinh thần cách mạng sáng chói.Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4-10-1920, quê làng Phù Lai, xả Quảng Thọ, huyện Quàng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Nói thơ của ông mượt mà truyền thống dân tộc, bởi lẽ, ngay từ lúc ấu thơ,tâm hồn Tố Hũu đã được vun đắp, ấp yêu trong những câu ca dao, tục ngữ của cha , những bài dân ca xứ Huế, những giọng hò tha thiết, ngọt ngào của mẹ và trong cái nôi quê hương thơ mộng đất Huế, giàu văn hóa, bản sắc dân tộc, đã hình thành nên một hồn thơ của truyền thống, của quê hương- hồn thơ Tố Hữu.
Bước vào tuổi thanh niên đúng vào những năm cao trào cách mạng, Tố Hữu nhanh chóng bị lôi cuốn vào phong trào đấu tranh, gặp gỡ may mắn và đẹp đẽ với lý tưởng cách mạng. Do đó đã dịnh hình ở Tố Hữu phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ cách mạng. Vũ khí của chiến sĩ là súng, nhưng ở Tố Hữu bằng cả ngòi bút, bởi vì đối với ông thơ và cách mạng đã hòa là một, trong thơ có lý luận chính trị sắc bén , trong cách mạng có tiếng nói ân tình thủy chung của người con xứ Huế Tố Hữu .

Sống giữa quê hương luôn biến động , hồn thơ Tố Hữu được trui rèn và thường vang ứng nhạy bén, dạt dào cảm hứng trước những bước ngoặc lịch sử , nên con đường thơ cũng đồng hành, gắn bó với những giai đoạn ấy. Vì thế ta dễ hiểu lý do Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc, rút ra từ tập thơ cùng tên, là một đỉnh cao, một tác phẩm xuất sắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp.Việt Bắc được sáng tác tháng 10 năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, Trung ương Đảng và chính phủ quyết định rời căn cứ từ Việt Bắc về Hà Nội. Đây là lúc giao thời giữa lịch sử và lòng người.Trong không khí hân hoan của cuộc sống mới, Tố Hữu hướng tâm hồn mình vào một nỗi niềm khác. Ông tự hỏi rằng liệu trong thời đại mới, con người có dễ dàng quên đi những năm tháng chiến đấu gian khổ, vĩ đại đã qua, liệu chúng ta có dễ dàng thoả mãn bằng lòng với hiện tại mà mờ phai quần chúng đã hi sinh đổ máu.Trong lúc giao thời ấy nhưng lại nhạy cảm với tâm hồn thơ Tố Hữu, Việt Bắc xuất hiện như một tiếng nói ân tình, tha thiết của tác giả với nhân dân kháng chiến, cũng là sự ngụ ý với tất cả mọi người.

Việt Bắc, bài thơ truyền thống, hình thức gần gũi nhưng nội dung có sự tìm tòi sáng tạo của tác giả. Cả đoạn trích liên tục với những câu thơ 6,8 trải dài nên cấu tứ gần với thể loại ca dao dân ca.Và hình thức thể hiện chỉ ca dao, dân ca mới có, dó là lối đối đáp của kẻ ở người đi, chân thành, tha thiết không kém lối dao duyên của nam nữ, của những người yêu nhau. Thêm vào đó là giọng điệu ngọt ngào tâm tình, nhạc điệu theo cấu trúc 4/4 xoáy sâu vào lòng người đọc những ân hưởng du dương cuả văn học dân tộc. Cho nên Việt Bắc rất gần gũi, dễ nhớ, dễ thuộc.Việt bắc quả là một tác phẩm mang đậm tính nghệ thuật dân tộc.

Nhưng nếu chỉ có thế thì xem ra Tố Hữu không có gì là đổi mới, sáng tạo về nghệ thuật.Nhưng khi xét cái hay của tác phẩm, ta không chỉ đơn thuần thưởng thức tác phẩm ở hình thức, cấu trúc thơ mà còn ở cái hồn, chính là nội dung tác phẩm.Với Việt Bắc, thoạt nhìn cứ tường đây là cuộc tâm tình giữa những cá thể nhưng đọc kĩ, ta phát hiện ra cái riêng tâm tình ấy đã hoá thành cái chung, một vấn đề hết sức to lớn không của riêng ai, đánh động vào không ít tâm hồn người đọc: đó chính là mối ân tình gắn bó thuỷ chung giữa chiến sĩ cách mạng và nhân dân vùng kháng chiến. Đến đây đã thể hiện được tài năng cách mạng hoá, chính trị hoá thơ Tố Hữu.Nhưng cách mạng hoá,chính trị hoá ở đây không phải là đưa thơ vào chỗ khô khan, tuyên truyền mà với Tố Hữu đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống dân tộc và tư tưởng tiến bộ , nhạy cảm.Cho nên đọc việt bắc ta cảm nhận được sự thân quen, gần gũi nhưng lại có cảm giác bừng tỉnh, mới mẻ, sâu sắc.
Đoạn trích mở đầu với cuộc chia ly thấm đẫm sự lưu luyến, thương tiếc:

Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay

Đại từ “mình-ta” được lặp đi lặp lại nhiều lần, không biết tự khi nào “mình” và “ta” đã gắn bó gắn bó gần gũi, keo sơn như vậy. “Ta”-nhân dân Việt Bắc thiết tha cất tiếng hỏi người ra đi: Mình về mình có nhớ không? tựa như nỗi niềm của ngưởi con gái luyến tiếc, không đành lòng chia tay người yêu. “Mình” ra đi liệu có khắc cốt ghi tâm ơn tình, ân nghĩa của “ta”.Cho nên câu hỏi có sự lắng đọng sâu sắc, từ thắm trong tâm hồn “ta” mong chờ ở mình sự chung thuỷ, nhớ thương như tình cảm của “ta” đối với “mình”.

Đáp lại sự thiết tha của người ở lại, người ra đi cũng tha thiết nên nỗi không cất thành lời.Tấm lòng luôn hướng về những kỉ niệm, sự yêu thương, gắn bó cùng thời gian, người ra đi mang bên mình một nỗi bâng khuâng, bước đi không đành, bồn chồn, không dứt khoác.

Trong giây phút này, bất kì lời nói nào cũng không tỏ hết nỗi lòng của kẻ đi người ở, chỉ biết nắm tay nhau thật chặt, truyền cho nhau cảm xúc, cảm giác, truyền cho nhau câu trả lời thầm kín để ngươì ở lại tin rằng, dù mai sau, dù có ở đâu chăng nữa, tấm lòng này vẫn chung thuỷ, sắt son hướng về nơi ân nghĩa tình người.

Đoạn trích mở đầu thật xúc động, sâu lắng, dù không có câu trả lời của người ra đi nhưng ta lại nhận ra một mạch ngầm tri âm hiện hữu. Điều đó nói lên rằng ta và mình vốn thương nhau, gắn bó như ruột thịt, không cần nói vẫn hiểu nhau.

Chỉ bằng những câu thơ đầu tiên đã thể hiện tài năng tột cùng của tác giả khi thể hiện hình thức thơ. “Mình” và “ta” , tựa như hai cá thể đang đối thoại nhưng thật ra là sự độc thoại của chính tác giả.Tố Hữu,cũng là chủ thể trữ tình, phân thân để dễ dàng bày tỏ tâm trạng, cảm xúc.Cuộc đối thoại vốn chân tình, sâu lắng như vậy chắc hẳn tấm lòng của tác giả còn da diết, không đành hơn nữa.Qua đó cho ta thấy một điều, mối tình giữa nhân dân vùng kháng chiến và chiến sĩ cách mạng trong sáng, hoà quyện, không thể tách rời.

Vẫn lời tha thiết của người ở lại, khổ hai mở ra một Việt Bắc đắng cay,sục sôi ý chí, ơn nghĩa , keo sơn:
Trong gian khổ của những năm đau thương chiến đấu, sự khắc nghiệt cuả thiên nhiên, vật chất thiếu thốn không làm lung lay ý chí con người, “mình” và “ta” đùm bọc, gắn bó, gian khó bao nhiêu thì tinh thần lên cao, quyết tâm trả thù bấy nhiêu:

Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Một tấm lòng, một ý chí, “ta” và “mình” đã cùng vượt qua bao khổ đau để đến với một niềm tin vào ngày mai, tấm lòng ấy đậm đà, toả sánh như ánh nắng chiếu sáng những âm u, của “những mây cùng mù”, của những “hắt hiu lau xám”

Mình đi,có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Tiểu đối “hắt hiu lau xám” với “đậm đà lòng son” làm cho câu bát có cấu trúc đẹp , hài hoà khiến cho màu son của tấm lòng Việt Bắc như càng hắt sáng lên trên nền lau xám nghèo khó,mang đến sự xao xuyến mãi.
Những cấu trúc câu 4/4 liên tục rõ ràng, mạch lạc, mang đến nhạc điệu êm ả, khiến cho câu thơ như một bài hát ,của sức mạnh, sự nhắc nhở và niềm tin.
Qua bao câu hỏi thiết tha của người ở lại, giờ đây người ra đi mới cất tiếng, khẳng định một tấm lòng trước sau như một:

Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước ,
nghĩa tình bấy nhiêu

Đọng trong tâm trí người ra đi là ánh trăng, là nắng chiều:

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Là từng bản khói bên bếp lửa thân quen, nhớ từng củ sắn lùi, những bữa ăn đạm bạc nhưng ấm cúng:

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Thương nhau , chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nữa, chăn sui đắp cùng

Và từng rừng tre nứa bao bọc, che chở chiến sĩ trước quân thù
Hay cảm động xót xa trước hình ảnh người mẹ địu con trên đồng nắng gắt bẻ từng bắp ngô:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưn
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô

Ôi, bao nhiêu gian khổ, nhưng những đắng cay ấy lại làm nên một tinh thần đoàn kết, cứng rắn, luôn yêu đời :

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Bây giờ xa rồi, tưởng chừng như tâm hồn mình đứng lại, chợt lắng nghe hay là tưởng tượng, âm thanh cuả tiếng mõ, tiếng cối đều đều, cứ chạm sâu vào tâm can, như gọi người ra đi trở lại:
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa

Bởi vậy mới biết tấm chân tình của chiến sĩ và nhân dân Việt nam sấu sắc đến nhường nào.
Nếu khổ thơ trên chỉ là đơn thuần nhớ về con ngưòi vùng Việt Bắc thì khổ thơ sau đây thể hiện chiều sâu vượt bậc của Tố Hữu khi nâng cao giá trị của con người, cùng với thiên nhiên đã làm nên một vẻ đẹp lung linh của vạn vật nơi này:

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Tố Hữu ví người như hoa, cũng phải, bởi “người ta là hoa đất”, đó là những người dân lao động cần cù, trẻ, khẻo,tinh thần cao. Nhưng nếu chỉ có vậy thì không hết được dụng ý của tác giả. Tố Hữu đã mở bừng ra một bức tranh thiên nhiên Việt Bắc tươi sáng, với bốn mùa xuân, hạ, thu ,đông, đó là một bức tứ bình đạt tới độ hài hào, cân xứng: muà đông rực màu đỏ hoa chuối giữa nền rừng xanh mênh mông; muà xuân tinh khiết bởi màu trắng hoa mơ;muà hè rực lên sắc vàng rừng phách; mùa thu huyền ảo ánh trăng soi. Trình độ miêu tả thiên nhiên của Tố Hữu đã đạt đến trỉnh độ điêu luyện và có thể sánh với vẻ đẹp cổ điển trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Ở đây còn có sự sáng tạo ngôn ngữ độc đáo:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Âm thanh đánh vào thính giác vậy mà mắt như thấy được sắc vàng loan cả khu rừng.Tiếng ve, một âm thanh tiêu biểu, vô tình thôi nhưng khi cất lên đã đánh thức, làm bừng tỉnh vạn vật.Nghe mà như thấy, Tố Hữu đã thực sự hoà quyện mình vào từng con suối dòng sông nơi đây.Chỉ có ai có sự gắn bó tha thiết, sâu sắc mới có khả năng này.
Thiên nhiên này càng đẹp bởi có hoa, có người. Thiên nhiên và con người đan cài làm nên sự duy nhất, vĩnh cửu của Việt Bắc nơi đây. Đó chính là dụng ý của tác giả khi cứ một câu thơ tả cảnh lại xen một câu thơ tả người, mang đến cho bài thơ nét trữ tình, ngọt ngào.
Nhớ về Việt Bắc là nhớ cảnh, nhớ người, nhưng quan trọng nhất là nhớ về kháng chiến – một Việt Bắc kháng chiến thật hào hùng. Vẻ độc đáo của một Việt Bắc đứng lên là hình ảnh cả núi rừng đánh giặc:

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Chữ “rừng” rải kín những câu thơ, rải kín đất Việt Bắc, tạo thế hiểm của trường thành lũy thép vây bọc quân thù.
Nhưng ở Việt Bắc, đẹp nhất là hình ảnh toàn dân kháng chiến. Thực tiễn cách mạng lúc này đòi hỏi phải miêu tả khí thế của đám đông trên nền không gian lớn, do vậy cái bút pháp thủ thỉ “mình – ta” kia phải nhanh chóng vươn tới hình thức tráng ca:

Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên

Từ tiết tấu ngân nga dìu dặt như lời ru ở những đoạn thơ trên
Nhớ gì/ như nhớ / người yêu
Trăng lên đầu núi/ nắng chiều lưng nương,
đến đây tác giả phá vỡ tính cân xứng để tạo ra một tiết tấu khác, phi đối xứng
Quân đi / điệp điệp trùng trùng…
Dân công / đỏ đuốc từng đoàn…
Nghìn đêm / thăm thẳm sương dày…
Làm giọng thơ trở nên gắt, mạnh, dồn dập như âm hưởng bước hành quân vũ bão. Hệ thống từ vựng mở căng cường độ diễn tả: nát đá, thăm thẳm, bật sáng…, hình ảnh kì vĩ ( hình ảnh bộ đội, dân công nườm nượp những nẻo đường kháng chiến ), ý thơ mở ra một tương lai tươi sáng:

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên…

Tất cả tạo một bức tranh sử thi hoành tráng để ca ngợi sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của nhân dân anh hùng.
Ở khổ thơ cuối đoạn trích, hình thức hỏi – đáp đã trở nên hết sức tinh tế và sâu sắc:

Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc : Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền

Màu sắc trữ tình đã chuyển sang lí trí trong những câu thơ mang dáng vẻ của chân lí, châm ngôn. Việt Bắc thành đầu mối quy tụ tư tưởng, tình cảm của cả dân tộc, là điểm chốt lại bài thơ. Việt Bắc trở thành biểu tượng chung cho sức mạnh kháng chiến, cho linh hồn cách mạng, cho ý chí toàn dân. Việt Bắc bình dị thành Việt Bắc thiêng liêng.
Thơ ca cách mạng đã tìm được vẻ đẹp của mình trong thành công của bài thơ Việt Bắc. Tiếng thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu với hình thức cấu tứ đậm tính dân tộc, do vậy giọng lục bát điêu luyện, ngọt ngào của thơ Tố Hữu vừa nói được những vấn đề rất lớn của thời đại mới, vừa chạm được vào chỗ thẳm sâu trong truyền thống ân nghĩa thủy chung của tâm hồn con người Việt Nam.

Phân tích bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu) – Bài số 4

Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi là một sự kiện lịch sử quan trọng trong trường kì kháng chiến của dân tộc ta. Nhờ sự kiện trọng đại này mà tháng bảy năm 1954, hiệp định Giơnevo được kí kết, hòa bình lặp lại, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới. Vì thế mà, các cơ quan trung ương Đảng rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Trong phút chia ly bâng khuâng lưu luyến, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc để bộc lộ nỗi lòng mình.

Ai trong chúng ta cũng biết, Tố Hữu là một nhà thơ quen thuộc của kháng chiến. Con đường thơ của ông gắn liền với con đường cách mạng. Với giọng thơ tâm tình ngọt ngào, các sáng tác của ông đều chạm đến tim người đọc. Và "Việt Bắc" cũng không ngoại lệ. Bài thơ "Việt Bắc" được viết theo lối đối đáp giữa người đi và kẻ ở lại trong giờ phút chia tay đầy lưu luyến sau nhiều năm gắn bó. Mở đầu bài thơ là lời người ở lại.

" Mình về mình có nhớ ta

Mười lắm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn"

Trong cuộc chia tay, người ở lại như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay đã lên tiếng để gợi nhắc cho người ra đi những kỉ niệm gắn bó. Người ở lại hỏi về không gian:"nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn", hỏi về thời gian:"mười lăm năm ấy…". Điệp ngữ "mình có nhớ" tạo cho đoank thơ một giai điệu lưu luyến không nguôi. Người ở lại như đang nhắc nhở người ra đi về đạo lý uống nước nhớ nguồn. Nghe những lời của người ở lại, người ra đi cũng chùn bước, "bước đi một bước giây hai lại dừng". Trong cuộc chia tay thật tế nhị và sâu sắc người ra đi nghẹn ngào khó nói lên lời:"Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay". Cái cầm tay ấy chất chứa bao nỗi niềm của người ra đi. Từng câu thơ lục bát nhịp nhàng diễn tả một thoáng ngập ngừng của tác giả. Chút ngập ngừng ấy tạo ra một phút lặng cho chuỗi câu hỏi tiếp theo vang lên dồn dập hơn. Bằng những lời mà người ở lại tiếp tục hỏi, người ở lại đã gợi nhớ những ngày ở chiến khu Việt Bắc. Mười hai dòng thơ được chia thành sáu câu hỏi như khơi sâu vào những kỉ niệm. Kỉ niệm đầu tiên là những ngày đầu gian khổ, vất vả của chiến khu, của kháng chiến:"rừng cây núi đá", "mênh mông bốn mặt sương mù", "mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù"… Những hình ảnh vừa chỉ đặc trưng của thiên nhiên những ngày khắc nghiệt đồng thời là những ngày gian nan, vất vả. Rồi tiếp theo lại là cảnh vật, con người Việt Bắc – những con người ân nghĩa thủy chung, đồng cam cộng khổ: "miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai", "hắt hiu lau xám đậm đà lòng son". Rồi kỉ niệm về mảnh đất chiến khu từ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh. Chỉ bằng vài câu thơ, Tố Hữu đã chứng minh Việt Bắc là một căn cứ địa vững chắc với nhũng địa danh đã đi vào lịch sử: Tân Trào, Hồng Thái. Mười hai câu thơ tiếp theo này không chỉ gợi kỉ niệm cũ với người ra đi, nó còn thể hiện tài năng nghệ thuật trong thơ của Tố Hữu. Trong các câu thơ sáu tiếng, cứ một câu "mình đi", kế một câu "mình về" đều chỉ một hướng của người về xuôi. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ tiếng việt để tạo ra sự đa nghĩa. Hấp dẫn người đọc cũng là nghệ thuật đối "đi – về" kết hợp với động từ "có nhớ" tạo âm điệu vừa êm ái vừa réo rắt trong sự tiếc nuối vừa ân nghĩa thủy chung. Đặc biệt đan xen những câu hỏi nhưng không dùng để hỏi mà để độc thoại nội tâm: "mình về rừng núi nhớ ai – trám bùi để rụng măng mai để già". . Trước những gợi nhớ kỉ niệm của người ở lại, người ra đi cũng khẳng định nghĩa tình không bao giờ thay đổi: "Ta với mình mình với ta – Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh". Cặp đại từ "mình – ta" đan xen khăng khít như sự gắn bó của người ra đi đối với người ở lại. Sự thủy chung ấy còn được so sánh với nước trong nguồn: "nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu". Câu thơ đã khẳng định sự thủy chung mãi mãi bền chặt sắc son như tình yêu đôi lứa, như nước trong nguồn không bao giờ cạn. Tác giả đã khai thác rất đắt từ "mình". Trong tiếng việt, từ "mình" là chỉ bản thân hoặc người khác, xưng hô giữa vợ chồng. Nhưng trong tác phẩm, "mình" vừa là người ở lại vừa là người ra đi: "mình đi mình lại nhớ mình". Cách sử dụng đa thanh đa nghĩa này đã làm tăng tính nghệ thuật cho bài thơ.

Sau màn đối đáp của người ra đi và người ở lại, người ra đi bộc bạch nỗi lòng mình. Đó là nỗi nhớ khôn nguôi. Đầu tiên là nhớ về Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy cồn cào:"nhớ gì như nhớ người yêu". Người ra đi nhớ về cảnh sắc thiên nhiên thanh bình yên ả và thơ mộng. Với những hình ảnh: "ánh trăng", "nắng chiều", "núi đèo", "bếp lửa bập bùng"…. và con người nghĩa tình thủy chung sâu nặng: "bát cơm xẻ nửa chăn sui đắp cùng". Nhà thơ cũng không quên hình ảnh người mẹ Việt Bắc: "nhớ người mẹ nắng cháy lưng – địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô". Không chỉ có cảnh sắc thiên nhiên con người nơi đây mà những kỉ niệm về cuộc sống của đồng bào, cán bộ ấm áp tình quân dân khó khăn gian khổ nhưng vẫn lạc quan yêu đời cũng ùa về: "nhớ sao lớp học i tờ – đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan – nhớ sao ngày tháng cơ quan – gian nan đời vẫn ca vang núi đèo".

Nối tiếp dòng hồi ức của người ra đi là bức tranh tứ bình tuyệt mĩ. Cảnh và người đan xen với nhauqua bốn cặp lục bát, thể hiện qua bốn mùa. Mùa đông xuất hiện giữa bạt ngàn sắc xanh nổi bật với "hoa chuối đỏ tươi". Mùa xuân không gian bừng sáng bởi sắc "mơ" thang khiết, mùa hạ là "rừng phách đổ vàng" trong âm thanh của tiếng ve. Mùa thu là ánh trăng dịu hiền hòa vào tiếng hát ân tình thủy chung. Một bức tranh đẹp đầy sống động đã hiện ra trước mắt người đọc chỉ bằng vài lời thơ của Tố Hữu.

Cuộc kháng chiến đầy gian khổ mà hào hùng là kỉ niệm khó phai mờ trong lòng người ra đi. Người ra đi nhớ về những ngày gian khổ mà Việt Bắc – mảnh đất anh hùng thiên nhiên cùng chiến sĩ đánh giặc: "rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây"; nhớ về những chiến thắng vang dội gắn liền với các địa danh: "Phủ Thông, đèo Giàng", "nhớ sông Lô nhớ phố Ràng – nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị – Hà". Người ra đi còn nhớ bức tranh Việt Bắc ra quân. Trên khắp nẻo đường Việt Bắc, khí thế ra trận "đêm đêm rầm rập như là đất rung", lực lượng quân đội với sức mạnh đoàn quân "điệp điệp trùng trùng" nối đuôi nhau xung trận rất đẹp trong tư thế "ánh sao đầu súng". Cuộc hành quân toàn dân toàn diện mang khí thế quyết chiến: "dân công đỏ đuốc từng đoàn – bước chân nát đá muôn tàn lửa bay". Với khí thế xung trận ấy, những chiến công vang dội liên tiếp diễn ra: "tin vui chiến thắng trăm miền". Với những chiến thắng ấy đã đưa đến khẳng định cuối cùng đó là sự đúng đắn của đường lối cách mạng của Đảng. Chính vì thế mà phần cuối của bài thơ Tố Hữu đã dùng để tuyên truyền đương lối ấy, đồng thời khẳng định Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, là niềm tin, niềm tự hào.

Khép lại bài thơ là một cảm xúc khó quên. Bài thơ Việt Bắc không chỉ là bài thơ tiêu biểu của thi ca kháng chiến mà còn là tác phẩm thể hiện rõ nét phong cách thơ của Tố Hữu. Với thể thơ lục bát được sử dụng sáng tạo, sự thành công của cặp đại từ " mình – ta", bài thơ đã có một chỗ đứng vững trong lòng người đọc và nền thi ca cách mạng Việt Nam.

Vũ Hường tổng hợp

Từ khóa tìm kiếm

  • phan tich bai tho viet bac
  • phan tich bai tho viet bac lop 12
  • bài viết số 2 lớp 12 nghị luận văn học bài Việt Bắc
  • phan tich bai việt bắc
  • nghi luan van hoc phan tich bai tho viet bac
  • phan tich 2 kho tho cuoi cua bai tho viet bac
0