Phân tích tác phẩm Vào phủ Chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự) – Văn mẫu lớp 11
Phân tích tác phẩm Vào phủ Chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự) – Văn mẫu lớp 11 Phân tích tác phẩm Vào phủ Chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự) – Bài số 1 Qua đoạn Vào phủ chúa Trịnh chúng ta đã thấy được khung cảnh giàu có, xa hoa nơi phủ chúa, đồng thời cũng nhận thấy một nhân ...
Phân tích tác phẩm Vào phủ Chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự) – Văn mẫu lớp 11
Phân tích tác phẩm Vào phủ Chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự) – Bài số 1
Qua đoạn Vào phủ chúa Trịnh chúng ta đã thấy được khung cảnh giàu có, xa hoa nơi phủ chúa, đồng thời cũng nhận thấy một nhân cách cao thượng trong con người của danh y Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác.
Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác không chỉ là một danh y nổi tiếng, mà còn là một tác giả có nhiều tác phẩm văn học có giá trị thời trung đại. Lê Hữu Trác để lại cho đời một sự nghiệp y học đồ sộ, nổi bật hơn cả là bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh được coi là bách khoa toàn thư về y học thế kỉ XVIII. Các tác phẩm của ông không chỉ có giá trị về y học mà còn mang nhiều giá trị văn học sâu sắc vì đã ghi lại cảm xúc chân thật cùng như bộc lộ tâm huyết, đức độ của người thầy thuốc. Thượng kinh kí sự là tập kí sự nổi tiếng trong cuộc đời Lê Hữu Trác. Tác phẩm kể về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy thế lực nhà chúa cũng như những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh. Đoạn trích vào Trịnh phủ không chỉ miêu tả cuộc sống xa hoa ở phủ chúa, mà còn thể hiện rõ nét tâm hồn và nhân cách của vị lương y tài hoa đức độ này.
Vào Trịnh phủ là đoạn trích kể lại sự việc tác giả được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh cho Đông Cung Thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích, tác giả đã thể hiện chân thực bức tranh sinh động về cuộc sống kiêu sa, vương giả và hiện thực cuộc sông nơi phủ chúa. Vào Trịnh phủ là một phần của tập Thượng kinh kí sự, là tác phẩm thuộc thế kỉ. Vì vậy đoạn trích là lời kể mộc mạc và chân thực, có ghi rõ thời gian Mồng 1 tháng 2, sáng tinh mơ và có sự việc: Có thánh chỉ triệu vào cung. Song điều làm cho chúng ta chú ý đó là cảnh vàng son nơi phủ chúa hiện lẽn vô cùng rực rờ qua cái nhìn của tác giả. Ban đầu Lê Hữu Trác được hò chìm trong khung cảnh vườn phủ chúa: Tôi ngẩng đầu lên, đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đung đưa thoang thoảng mùi hương. Cảnh vật ấy khiến cho ta có cảm giác, nơi đây là một khu vườn địa đàng nào đó trên tiên giới trong các truyện cổ tích dân gian, chứ không phải cảnh ở hiện thực mà tác giả nhìn thấy. Tiếp đến tác giả ghi lại những sự việc minh nhìn thấy: Nlìững dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp, người qua lại như mắc cửi. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ những nét suy nghĩ chân thành khi có việc liên quan được đặt chân vào một nơi mà chính tác già cũng nghĩ mình đang ở trong mơ: Tôi nghĩ bụng: mình vốn con quan… Bước chân đến đây mới hay cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường. Điều này chứng tó thái độ ngỡ ngàng đến bất ngờ của tác giả. Khung cảnh giàu sang đó là ngoài sức tưởng tượng của ông. Đứng trước cảnh đẹp đệ nhất trời Nam ấy, tâm hồn người thầy thuốc tràn ngập một cảm xúc chân thành cứa một tâm hồn nhạy cảm:
Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt
Cả trời Nam sang nhất là đây…
… Khác gì ngư phủ đào nguyên thủa nào.
Bản thân vốn là một con người không màng danh lợi, nhưng đứng trước khung cảnh hoành tráng này, Lê Hữu Trác không tỏ ra miệt thị, phản diện trong cách nhìn nơi mà ông không hề muốn đến này. Trái lại ông vẫn ngợi ca, vẫn ngập tràn xúc cảm trước vẻ đẹp tuyệt vời nơi đây, có được điều này là do Lê Hữu Trác là nhà thơ có tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên, tạo vật, thế sự. Có một điều chúng ta nhận thấy rằng ông nhìn và cảm nhận bằng con mắt khách quan, đứng trước cảnh đẹp thì ông ngợi ca, nhưng không hoàn toán ngợi ca tất cả, dường như đằng sau những dòng thơ này vẫn ẩn chứa một nỗi niềm u hoài của tác giả:
Quê mùa cung cẩm chưa quen
Ông tự coi mình là kẻ quê mùa lạc vào chốn cung đình, có khác gì Đào nguyên lạc vào chốn thần tiên. Cảnh thì đẹp đấy, nhưng lòng người nào có vui gì.
Đoạn trích là những trang kí sự giàu cảm xúc về cảnh giàu sang nơi phủ chúa và bệnh tình của thế tử. Nhưng bên cạnh những dòng hiện thực ấy, người đọc vẫn thấy toát lên trên tất cả là một tâm hồn, một nhân cách cao đẹp của danh y Hải Thượng Lãn Ông. Vốn bản thân không màng công danh, ông đã chọn nơi rừng núi yên tĩnh để sống cuộc sống ẩn dật, lấy chim muông làm bầu bạn, hoa cỏ làm niềm vui. Bởi thế mà Lê Hữu Trác dường như xa lạ trước cuộc sống cung đình. Tuy xa lạ nhưng ông không hề ngơ ngác mà vẫn giữ được cái uy nghi, trầm tĩnh của một ẩn sĩ. Trước hàng ngũ quan lại không hề tỏ ra khúm núm, hay kiêu ngạo khi danh tiếng của mình được nhiều người biết đến. Ngôn ngữ ông dùng thật khiêm nhường: Tôi là kẻ nơi quê mùa, làm sao biết được các vị ở nơi triều đình đông đúc như thế này. Ông còn dũng cảm chỉ ra sự ngu dốt của các quan thái y trong triều, đó là việc ông không nghe theo lời ngụ ý của quan chánh đường mà vẫn hành động theo lương tâm nghề nghiệp của mình, trình đơn thuốc lên thánh thượng. Ông cũng là người thấy được căn bệnh thừa mứa, ngu dốt của bọn ở phù chúa một cách chính xác: Vì Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ… nên phủ tạng yếu đi. Chốn lầu son gác ngọc ấy đã làm cho con người trở nên hao mòn, mất hết nhuệ khí, lại chứa toàn bọn ngu dốt như quan chánh đường và các quan thái y chỉ lo dùng thuốc công phạt theo ý mình. Tỏ ta đây là hiểu biết nhưng chỉ làm cho thế tử ngày càng yếu đi. Thế tử chính là nạn nhân của sự ngu dốt, của sự thừa thãi quá mức nơi phủ chúa. Đó cũng chính là những biểu hiện rõ nét nhất của một triều đại suy đồi đã đến lúc mạt vận, diệt vong, là sản phẩm của một chôn chỉ biết xu nịnh, ăn chơi phè phỡn không lo cho cuộc sống của nhân dân lao động.
Lê Hữu Trác nhanh chóng nhận ra khuyết tật của phủ chúa, phán xét chính xác căn bệnh của thế tử, đồng thời cũng thấy được căn bệnh chung của nơi giàu sang này. Chính vì thế mà có lúc ông đã do dự: Nếu mình làm, sao về núi được nữa, chi bằng ta dùng phương thuốc hòa hoãn, nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu. Từ xưa đến nay, con người chỉ sợ thất bại, khổ đau. Còn với Lê Hữu Trác thì hoàn toàn ngược lại, ông sợ công danh, sợ uy quyền ràng buộc. Nhưng những suy nghĩ ấy nhanh chóng mất đi, nhường chỗ cho chữ trung, chữ đức cha ông mình đời đời… để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được. Là một nhà nho chân chính, dù lánh xa danh lợi, nhưng để giữ vững khí tiết của mình, ông vẫn đặt chữ trung lên hàng đầu, dù vị chúa mà ông thờ, triều đại mà ông sống là một xã hội thối nát, suy đồi. Ông có thể làm như suy nghĩ ban đầu, không hại ai, cũng không gây đau khổ cho ai, nhưng vì tấm lòng lương y như từ mẫu cứu người không phân biệt sang hèn, đẳng cấp, Lê Hữu Trác đã làm đúng tâm đức của một thầy thuốc. Tấm lòng ấy đáng được ca ngợi.
Phải có một cái nhìn tinh tế, một tâm hồn và nhân cách cao thượng, tác giả mới có cái nhìn sắc sảo và chân thực về cuộc sống xa hoa mà tàn tạ nơi phủ chúa.
Tóm lại, qua đoạn Vào Trịnh phủ chúng ta đã thấy được khung cảnh giàu có, xa hoa nơi phủ chúa, đồng thời cũng nhận thây một nhân cách cao thượng trong con người của danh y Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác.
Phân tích tác phẩm Vào phủ Chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự) – Bài số 2
Lê Hữu Trác là thầy thuốc cũng là nhà văn nổi tiếng của nước ta cuối thế kỉ XVIII. Suốt 40 năm sống thanh đạm, rũ bỏ mọi công danh, cụ vừa làm thuốc trị bệnh cứu người, vừa viết sách ý học, vừa sáng tác thơ văn, để lại cho đời một kho tàng quý báu về y học và những bức tranh thật chân xác về cuộc sống và con người thời ấy. Vì thế, đọc văn của Lê Hữu Trác, nhất là cuốn Thượng kinh kí sự (Kí sự lên kinh) chúng ta như được sống cùng thời, cùng nhìn ngắm, cùng suy nghĩ, xúc cảm với tác giả.
Đọc đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, cái cảm giác ấy càng rõ nét. Vào phủ chúa để chữa bệnh cho Thế Tử Trịnh Cán, bậc danh y tuổi cao, tài lớn đã nhìn thấy những gì? Bước chân đến đây mới hay các cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường! … những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy…, lầu son gác tía, rèm châu, hiên ngọc, sập vàng… Mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia. Cụ Lê Hữu Trác kể như thế. Chúng ta cũng thấy như thế. Song có lẽ điều chúng ta nhìn thấy rõ nhất là chân dung những con người, mà nổi bật nhất là Thế tử Trịnh Cán. Bậc danh y đã ghi chép sự thực theo thể văn kí sự đặc sắc. Văn kí sự đòi hỏi tính chính xác, khách quan. Song dòng chữ nhà khoa học chảy từ trái tim nghệ sĩ nên bức chân dung ở đây không khô khan, lạnh lẽo. Trái lại mỗi chữ, mỗi câu phập phồng bao tâm sự, vừa châm biếm sâu xa, vừa phê phán mạnh mẽ, vừa giận, vừa thương. Bức chân dung ông chúa Trịnh Cán được tái hiện thật rõ nét, vừa cụ thể, riêng biệt, vừa mang ý nghĩa khái quát điển hình.
Để tới nơi ở của chúa nhỏ, cụ Lê Hữu Trác phải đi trong tối om, đi qua độ năm sáu lần trướng gấm. Phòng chúa đặt sập vàng, cắm nến to trên giá đồng, bày ghế rồng sơn son thếp vàng, nệm gấm, ngót nghét chục người đứng hai bên sập hầu trực và sau tấm màn che ngang sân, cung nữ xúm xít… Đèn chiếu sáng, nổi bật màu mặt phấn và màu áo đỏ. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt. Chao ơi, chỉ mỗi một chúa nhỏ – thực chất là cậu bé chưa đến tuổi đi học – mà vây quanh bao nhiêu là vật dụng! Gấm vóc, lụa là, vàng ngọc, sập, ghế, đèn, nến, hương hoa, màn trướng… Đồ dùng và đồ dùng, báu vật và báu vật. Vật đã lấn át người như bủa vây, bao chặt lấy con người. Còn con người thì… tưởng như là có, có quá nhiều kia. Song đó cũng chỉ là… những đồ vật câm lặng. Cung tần, mĩ nữ, kẻ hầu người hạ của thế tử đứng ở gần, trực ở xa, tất cả đều chỉ như những cái bóng, vật vờ, mờ ảo. Phòng rộng nhưng chen chúc vật dụng, thành chật chội. Trong phòng đông người, nhưng đều im lặng thành ra lạnh lẽo, băng giá. Bao trùm tất cả là mùi vị phấn son, tuy ngào ngạt nhưng thiếu sinh khí. Trinh Cán – dù là “Đông Cung thế tử’ – cũng phải bắt đầu cuộc sống của đứa trẻ nhỏ, rất cần ánh nắng, khí trời. Vậy mà vị chúa nhỏ đêm ngày bị quây tròn, bọc kín trong cái tổ kén vàng son khác gì mầm non trong vỏ trứng.
Hình hài vóc dáng mầm non ấy ra sao? Cụ Lê Hữu Trác kể: “chúa mặc áo đỏ, ngồi trên sập vàng”. Khi thấy vị danh y – theo lệnh quan Chánh đường – lạy bốn lạy, thế tử cười khen: “Ông này lạy khéo!”. Kể cũng ra mặt con nhà chúa, đẹp áo quần, oai tư thế. Song, khi đã đứng dậy, cởi áo để thầy thuốc xem bệnh… thì than ôi, tính khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, chân tay gầy gò… nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức… mạch lại tế sác…, âm dương đều bị tổn hại. Cứ nhỏ nhẹ từng lời trò chuyện với quan Chánh đường, vừa thuật, vừa tả, vừa nhận xét khách quan, khoa học, vị danh y chẩn bệnh cho thế tử, đồng thời miêu tả chân dung con người. Thật đáng sợ! Toàn những đường nét chết: tinh khí khô, mặt khô, những khối hình kì dị: rốn lồi, chân tay gầy gò, mạch tế sác; những màu sắc lạnh người: gân xanh, âm dương, nguyên khí hao mòn tổn hại. Theo ý tôi, đó là vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi. Chỉ một lời chẩn bệnh, với nhịp điệu đối xứng màn che, trướng phủ, với điệp ngữ quá no, quá ấm, nhà khoa học có trái tim nghệ sĩ vừa chỉ đúng cội nguồn căn bệnh Trịnh Cán, vừa phê phán, vừa xót xa trước một lối sống trái với lẽ tự nhiên. Cái gì cũng quá: quá nhiều màn che, trướng phủ, quá no, quá ấm, được quá nhiều kẻ hầu hạ. Văn Lê Hữu Trác không có những dòng trữ tình ngoại đề như ở một số tác giả viết kí hiện đại. Cụ rất kiệm lời, nói ít, gợi nhiều. Mỗi câu, mỗi chữ trĩu nặng suy tư và cảm xúc. Hình ảnh thế tử Trịnh Cán chính xác từng chi tiết y học và hiện thực, sinh động, một điển hình văn chương.
Chúng ta hãy đọc tiếp đơn thuốc của thế tử: “…sáu mạch tế sác và vô lực, hữu quan yếu, hữu xích càng yếu hơn. Ấy là tì tâm hư, vị hỏa quá thịnh, không giữ được khí dương, nên âm hỏa đi càn. Vì vậy, bên ngoài thì thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngoài thì phù, bên trong thì trống”. Ngôn từ vẫn là của y học, hình hài tinh khí vẫn là ở một con người. Nhưng từng câu, từng chữ cứ lung linh, rộng mở, hiện về rõ nét một chân dung ốm yếu, bệnh tật của giai cấp phong kiến Lê – Trịnh lúc bấy giờ.
Cái xã hội ấy không giữ được khí dương, nên âm hỏa đi càn – điều đúng, việc thiện, sự sống không còn, điều xấu, việc ác, cái chết hoành hành, quấy phá. Cái giai cấp ấy, bên ngoài thì cổ trướng… thì phù, trong thì trống. Nghĩa là cuộc sống vật chất đã phù nề, sưng tấy, quá mức giàu sang, phú quý. Trái lại, tinh thần, đạo đức, ý chí, nghị lực – những phần bên trong quan trọng – thì lại rỗng. Nếu đọc đoạn trước và thêm những phần sau của đoạn trích, chúng ta sẽ thấy tác giả Kí sự lên kinh ghi rõ những điều sưng tấy bên ngoài, trống rỗng bên trong của cả tập đoàn phong kiến bấy giờ. Từ chúa Trịnh Sâm, đến bà hoàng Đặng Thị Huệ, quan Chánh đường quận công Hoàng Đĩnh Bảo, các bà hoàng, các ông quan lớn nhỏ khác… người được tô đậm, có người chỉ thấp thoáng. Đó là những điển hình của giai cấp thống trị với bản chất ích kỉ và bạc nhược trên bước đường suy tàn của chúng. Trong những điển hình ấy, thế tử Trịnh Cán là một điển hình nổi bật.
Vào phủ chúa Trịnh để chữa bệnh cho chúa lớn, chúa nhỏ, danh y Lê Hữu Trác đã phải làm một công việc không mấy thú vị. Tấm lòng và lẽ sống của ông gửi ở nhân gian, gắn với quê hương, thôn dã. Tuy nhiên, nhờ chuyến đi này, người thầy thuốc, nhà văn ấy đã để lại cho đời một tác phẩm văn chương quý báu, quý báu chẳng kém gì một pho sách y học, những bài thuốc chẩn trị chính xác, hiệu quả. Tìm hiểu và suy nghĩ về hình tượng ông chúa nhỏ Trịnh Cán, qua lời kê đơn, nhận xét vừa y học vừa văn chương của tác giả, chúng ta hiểu ra bao nhiêu điều bổ ích về quy luật sống, về lịch sử, về tấm lòng nhân bản và thái độ nghiêm khắc của nhà khoa học, nhà văn. Căn bệnh của Trịnh Cán, cũng như của triều đại phong kiến Lê – Trịnh cuối thế kỉ XVIII, đã được chẩn rõ ràng. Lịch sử cũng đã tìm ra phương thuốc trị bệnh. Từ áng văn của danh y Lê Hữu Trác, lời chẩn trị của ông cứ theo mãi chúng ta, nhắc nhở chúng ta: “Chính khí ở trong mà thắng, thì bệnh ờ ngoài sẽ tự nó tiêu dần, không trị bệnh mà bệnh sẽ mất”.
Phân tích tác phẩm Vào phủ Chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự) – Bài số 3
Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác không chỉ là một danh y nổi tiếng, mà còn là một tác giả có nhiều tác phẩm văn học có giá trị thời trung đại. Lê Hữu Trác để lại cho đời một sự nghiệp y học đồ sộ, nổi bật hơn cả là bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh được coi là bách khoa toàn thư về y học thế kỉ XVIII. Các tác phẩm của ông không chỉ có giá trị về y học mà còn mang nhiều giá trị văn học sâu sắc vì đã ghi lại cảm xúc chân thật cùng như bộc lộ tâm huyết, đức độ của người thầy thuốc. Thượng kinh kí sự là tập kí sự nổi tiếng trong cuộc đời Lê Hữu Trác. Tác phẩm kể về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy thế lực nhà chúa cũng như những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh. Đoạn trích vào Trịnh phủ không chỉ miêu tả cuộc sống xa hoa ở phủ chúa, mà còn thể hiện rõ nét tâm hồn và nhân cách của vị lương y tài hoa đức độ nà
“ Vào phủ chúa Trịnh” là một đoạn trích được rút ra từ “ Thượng thư kí sự” của tác giả Hải Thượng Lãn Ông –Lê Hữu Trác. Tác phẩm kể về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh cũng như quyền uy thế lực nhà chúa cũng như những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh. Đoạn trích vào Trịnh phủ không chỉ miêu tả cuộc sống xa hoa ở phủ chúa, mà còn thể hiện rõ nét tâm hồn và nhân cách của vị lương y tài hoa đức độ này.
Tác phẩm viết trong bối cảnh khi những vị quan thanh liêm đều tìm cách lui về ở ẩn giữ được lối sống thanh cao của mình. Chính vì những người tài giỏi thì thường chúa ghét vòng danh lợi họ chỉ giúp vua một thời gian rồi về ở ẩn với nhân dân giúp đỡ nhân dân trong cuộc sống hàng ngày. Bao nhiêu bậc nho sĩ, người tài. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác cũng vậy, chúng ta được biết đến ông là một người lười làm quan, biếng danh lợi. Về ở ẩn ông không những là một người thầy thuốc giỏi mà còn là một nhà văn. Trong tác phẩm “ Vào phủ chúa Trịnh” này Lê Hữu Trác đã phê phán những thói ăn chơi xã đọa của bậc vua chúa. Nơi đây không khác gì cho những bậc thánh ở.
Đoạn trích “Vào phủ chúa trịnh ghi lại thời điểm:” Sau khi Hải Thượng Lãn Ông vào kinh, đang tá túc tại nhà Quận Huy Hoàng Đình Bảo thì ông được mời vào phủ chúa Trịnh để xem bệnh cho Thế tử Cán. Đây là lần đầu tiên ông bước chân vào chốn thâm nghiêm này. Qua đây tác giả có cơ hôi chiêm ngưỡng và chứng kiến sự giàu có xa hoa và cung cách làm việc nơi phủ chúa. Trước hết là quang cảnh trong phủ chúa Trịnh, đập ngay vào mắt tác giả là những quang cảnh của cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm. quả thật đây là một nơi sang trọng bậc nhất thiên hạ. Bên cạnh đó vào phủ chúa phải trải qua biết bao nhiêu là cửa sự trang nghiêm nơi đây thật sự khiến cho người ta rụt rè chân bước “ Hậu mã quân thúc trực” để cho chúa sai việc. Không chỉ dừng lại đó bên trong cửa phủ thì có những “đại đường”, “quyền bổng”, “gác tía” với kiệu son, võng nghi lộng lẫy, tất cả mọi thứ đều được mạ vàng. Từ những chiếc cột cho đến những mâm bát chén cũng đều như được dát vàng. Cuộc sống ở đây quả thực xa hoa bậc nhất .
Sự sang trọng mà hiển diện trong phủ chúa được tác giả miêu tả và nhận xét là “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”. Khi tác giả bước chân đến nội cung của thế tử thì phải bước qua mấy lần trướng gấm. Trong căn phòng của thế tử cũng có nhiều thứ rất sang trọng mà người đời mấy ai được xem qua. Trướng gấm, những sập cũng sơn son thiếp vàng, ghế rồng hương hoa bay ngào ngạt. Sự giàu có của phủ chúa không thể nói hết trong một hai câu, có thể những gì viết ra chỉ lột tả hết một phần của sự nguy nga tráng lệ nơi đây. Cảnh tượng ấy thật sự là khiến cho người ta đau lòng vì khi nhân dân thì đang khổ sở với cuộc sống thì chúa cái người mà đứng ra cai quản lại có thể ăn chơi xa đọa trước những vất vả của nhân dân như vậy.
Không chỉ có quang cảnh ở đây lộ vẻ xa hoa mà ngay cả tới người hầu kẻ hạ cũng ra vào tấp lâp “đầy tớ chạy trước hết đường”, rồi lại đến “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”. Lời nói của mọi người khi nhắc đến thế chúa và thế tử đều rất cung kính, lễ độ. Riêng với chúa Trịnh lúc nào cũng có những cung tần mĩ nữ xung quanh để hầu hạ. Chúa giống như những bậc thánh khiến cho tác giả cũng khó mà gặp mặt chúa mà chỉ làm theo chỉ dẫn để vào cung thăm bệnh cho thế tử Trịnh Cán mà thôi. Khi xem bệnh xong thì không được trao đổi với chúa mà phải viết giấy khai đưa lên. Còn riêng phần thế tử thì khi bị bệnh lại có rất nhiều tầm bảy, tám ngự y thúc tục vây quanh. Cung cách khám bênh ở phủ chúa , những ngự y ở đây, muốn khám bệnh cho con chúa thì đều phải quỳ lạy dưới chân của một đứa bé. Không chỉ vậy mà người gọi chúa Trịnh là thánh thượng, các chữ “thánh” ấy phải chăng chúa Trịnh đang quá lạm dụng quyền hành của mình.
Những quan điểm của tác giả cũng được bộc bạch qua cách miêu tả quang cảnh và cung cách ở trong phủ chúa Trịnh. Những câu văn của tác giả như dửng dưng trước sự quyến rũ của giàu ó xa hoa nơi đây và giọng điệu trong đoạn trích thể hiện thái độ không đồng tình mà lớn hơ là trái ngược với những gì lẽ ra một người cận thần mong muốn nhận bổng lộc nên làm. Qua cách nói mỉa mai châm biếm của tác giả, ta thấy : Sự lộng quyền của nhà chúa với quyền uy tối thượng và nếp sống hưởng thụ cực kỳ xa hoa của chúa Trịnh cùng gia đình; sự thật bù nhìn của vua Lê khi ấy.
Qua đoạn trích “ Vào phủ chúa Trịnh Qua tác giả đã phơi bày cuộc sống xa hoa ở đây cũng như cung cách của con người trong phủ chúa. Sự xa hoa ấy không phải là một lời khen ngợi , ca ngợi sự nguy nga ở đây mà chính là nói lên sự thực sự tráng lệ đó là chính nhân dân khổ cực bị chúa bóc lột đến tận xương hay không.
Phân tích tác phẩm Vào phủ Chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự) – Bài số 4
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một danh y tài năng, giàu y đức, sống vào cuối thế kỉ XVIII, thời vua Lê – chúa Trịnh. Ông còn là một nhà văn, nhà thơ đáng kính. Trong cuốn “Thượng kinh kí sự (viết năm 1782), với ngòi bút kí sự chân thực và sắc sảo, ông đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, về quyền uy, thế lực của nhà chúa, miêu tả kinh đô Thăng Long lúc bấy giờ nhân dịp ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một trong những đoạn thể hiện tập trung giá trị của tác phẩm kí sự này. Cũng qua đoạn trích, ta thấy được đôi nét về tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn ông.
Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh cũng như tập Thượng kinh kí sự khắc họa chân thực những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp Lãn Ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Qua doạn trích, ta còn thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của ông: đó là sự coi thường danh lợi, giữa cho nhân cách được trong sạch.
Lê Hữu Trác ngỡ ngàng trước quang cảnh kinh đô. Đó là bởi “cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường” (!). Cảnh giàu sang ở đây khác quá. Lê Hữu Trác, vốn con quan, sinh trường ở chôn phồn hoa cũng phải thốt lên rằng: “Cả trời Nam sang nhất là đây!” Bao nhiêu giàu sang phú quý đều tập trung ở phủ chúa. Những người dân bình thường có bao giờ được biết đến cái cảnh sang giàu này. Nhưng đó cũng mới chỉ là cái biểu hiện ban đầu. Bài thơ mà cụ Lê Hữu Trác ngâm đọc đường đi được kết thúc bằng câu:
“Quê mùa, cung cấm chưa quen
Khúc gì ngư phủ đào nguyên thủa nào!”
Câu kết thúc ấy đã phần nào phản ánh tâm tư của cụ. Cuộc sống bên ngoài và bên trong phủ chúa thật là khác nhau. Giống như người ngư phủ năm xưa lạc vào chốn thần tiên, huyền ảo, thơ mộng. Có một cảm giác xót xa lần quất ở đâu đây. Một sự phân vân, trăn trở trong tâm hồn người làm nghề y. Không phải ngẫu nhiên cụ Trác có hứng ngâm thơ chơi, mà đó là để ghi nhớ cái sự giàu sang khác thường trong phủ chúa. “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương.” Được ngồi trên cáng để vào phủ mà “khổ không nói hết”. Chỉ với chi tiết ấy đã cho thấy tâm hồn Lê Hữu Trác không hợp với chốn này. Ông sinh ra không phải để dành cho những chốn “rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào”.
Sự ngỡ ngàng ngạc nhiên cũng được tăng dần qua từng nơi cụ đặt chân đến. “Những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ” chưa bao giờ thấy được đặt trong cái điểm ven hồ. Rồi những đồ dùng trong phủ chúa đều được sơn son thếp vàng, từ cái kiệu để vua chúa đi, đến các đồ nghi tượng, từ cái sập đến những cây cột… Bàn ghế thì toàn những đồ đạc “nhân gian chưa từng thấy”. Tác giả chỉ dám “ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cái cử chỉ cúi đầu đi ấy chứng tỏ rằng Lê Hữu Trác không phải là người đam mê vinh hoa phú quý, ham tiền bạc hay lợi lộc. Đó là một nét đẹp trong nhân cách con người ông. Ông cảm thấy lạ lẫm và lạc lõng giữa cuộc sống xa hoa trong phủ chúa. Tất cả những điều đó đều bộc lộ qua ngòi bút kí sự đặc sắc, chân thực.
Nhân cách và tâm hồn danh y họ Lê còn được bộc lộ ngay trong suy nghĩ của ông khi kê đơn thuốc cho thế tử Trịnh Cán. Một đấu tranh quyết liệt trước tòa án lương tâm. Một bên là sự trói buộc của công danh, một bên là cái tâm của người thầy thuốc, cái đạo làm người, cái phận làm bề tôi. “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không làm sao về núi được (…). Nhưng rồi lại nghĩ: “Cha ông mình đời đời yêu nước, ta phải dốc hết lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Có thể thấy Lê Hữu Trác là người không màng công danh, không ham bổng lộc. Ngược lại ông còn đấu tranh với chính mình để thoát khỏi sự ràng buộc ấy, để được sống tự do cùng núi non để tâm hồn thanh thản. Mặt khác ông cũng là người thầy thuốc có tâm huyết và giàu đức độ. Vì thế mà ông đã kê cho thế tử “phương thuốc hòa hoãn nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu”, vì lương tâm không cho phép. Nếu làm sai thì sẽ phải phỉ báng cái nghề y của mình, sẽ có lỗi với lòng mình; nếu làm đúng và tốt thì sẽ bị danh lợi ràng buộc. Dù thế nào cũng phải giữ được cho tâm hồn trong sạch, giữ cho nhân cách được trọn vẹn. Cách lí giải về bệnh tình của Trịnh Cán cũng như diễn biến suy nghĩ, tâm trạng của ông khi kê đơn cho thấy Lê Hữu Trác là người thầy thuốc có lương tâm.
Như vậy, từ cách nhìn của Lê Hữu Trác đối với đời sống nơi phủ chúa, đến sự suy nghĩ cân nhắc khi kê đơn cho thế tử đều cho thấy ông là người có tâm huyết với nghề và có nhân cách, giàu đức dộ, coi thường công danh, bình thường danh lợi và một chút đau xót trước cảnh sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh.
Tài năng ấy, tâm hồn ấy, nhân cách ấy của Lê Hữu Trác đã giúp cho ông sống mãi trong lòng người thầy thuốc nói riêng, người dân đất Việt nói chung. Ông xứng đáng được phong tặng danh hiệu ông tổ của nghề thuốc và được người đời sau nhắc đến với lòng thành kính nhất.
Vũ hường tổng hợp