Thuyết minh về Lễ hội đua voi ở Tây Nguyên – Văn mẫu lớp 12
Thuyết minh về Lễ hội đua voi ở Tây Nguyên – Văn mẫu lớp 12 Thuyết minh về Lễ hội đua voi ở Tây Nguyên – Bài số 1 Tháng ba âm lịch luôn được coi là tháng đẹp nhất trong năm ở Tây Nguvên: nắng dịu, đất rừng khô ráo, dọc bên các cánh rừng, khe suối, hoa đủ các màu đua nhau khoe sắc. ...
Thuyết minh về Lễ hội đua voi ở Tây Nguyên – Văn mẫu lớp 12
Thuyết minh về Lễ hội đua voi ở Tây Nguyên – Bài số 1
Tháng ba âm lịch luôn được coi là tháng đẹp nhất trong năm ở Tây Nguvên: nắng dịu, đất rừng khô ráo, dọc bên các cánh rừng, khe suối, hoa đủ các màu đua nhau khoe sắc. Và đây cũng là thời điểm diễn ra lễ hội đua voi đặc sắc và hùng tráng. Ngày hội truyền thống, dân dã, chứa đựng nhiều màu sắc, thể thao, thượng võ này phản ánh nếp sống mạnh mẽ của người dân núi rừng Tây Nguvên.
Với đồng bào dân tộc dọc theo dãy Trường Sơn, voi là vật quí hiếm nhâ't, là hiện thân của sức mạnh và sự giàu có của mỗi gia đinh, mỗi buôn làng. Từ một giống vật hoang dã, khi được bắt về và thuần dưỡng, voi đã trở thành người bạn thân thiết vơi con người trong đời sống hằng ngàyvận chuyển, đi lại, làm rẫy, kéo gỗ làm thúy lợi. Voi là loài vật có thân hình to lớn, nhưng cũng là con vật thông minh nhất trong quần thể động vật hoang dã, đồng thời cũng là con vật có tình nghĩa. Nhìn chung, trong cả nước, voi tập trung nhiều nhất ở tỉnh Đắc Lắc (hơn 400 con voi nhà), trong đó huyện Ea Súp có đàn voi đông nhất. Bản Đôn thuộc huyện Ea Súp, nơi quy tụ nhiều tộc người M’Nông, Êđê, Lào…không những nổi tiếng với đàn voi nhà hàng trăm con, mà còn là xứ sở nghề săn bắn và nuôi dạy voi từ lâu đời.
Hội đua voi thường diễn ra vào mùa Xuân, cụ thể hơn vào dịp tháng ba âm lịch, đó là tháng đẹp nhất trong năm ở đây. Người Tây Nguyên thường vi von đó là "mùa con ong đi lấy mật, mùa con voi xuống sông uống nước, mùa em phát rẫy, làm nương, anh đi vào rừng đặt bẫy, gài chông". Để chuẩn bị cho ngày hội, người quản tượng đưa voi đến những cụm rừng có nhiều cây cỏ để chúng được ăn uống no nê. Họ còn bồi dưỡng thêm chuối chín, đu đủ, mía cây, bắp ngô, khoai lang và hầu như không bắt voi phải làm những việc nặng để giữ sức. Đến ngày hội, những đàn voi từ các buôn làng xa gần nườm nượp kéo về buôn Đôn tập trung ở một số bãi, hoặc cánh rừng thưa ven sông Sêrêpôc. Cùng với những đàn voi, dân chúng khắp nơi đổ về dự hội với những bộ áo quần màu sắc rực rỡ. Bãi đua là một dải đất tương đối bằng phẳng, ngang đủ để 10 con voi giằng hàng đi cùng một lúc, bề dài từ 1 đến 2 km. Một hồi tù và rúc lên, đàn voi dưới sự điều khiển của những chàng mơgát lần lượt tiến vào nơi khoảng đất bằng, dàn thành hàng ngay ngắn. Theo lệnh người điều khiến, từng tốp voi đi vào đứng ở tuyến xuất phát. Con đầu đàn đứng lên phía trước, trong tư thế uy nghi, hai chân trước đứng thẳng, ngẩng cao, quay cái vòi mấy vòng rồi cúi đầu chào khán giả hai bên, xong lại lùi vào vị trí cũ Trên mỗi con voi có hai chàng mơgát dũng mãnh, trong bộ trang phục sặc sỡ kiểu tướng lĩnh ngày xưa đang trong tư thế sẵn sàng chờ lệnh. Một tiếng tù rúc to báo lệnh xuất phát. Những chú voi bật lên như những chiếc lò xo lao về phía trước trong tiếng hò reo, la hét của khán giả cùng tiêng chiêng, tiếng ầm vang cả núi rừng. Chàng mơgát ngồi phía trước đầu voi cúi rạp mình ngẩng đầu quan sát và điểu khiến voi bằng một thanh sắt nhọn dài độ một mét gọi là kreo (tiếng M’Nông là gậy điều khiển) dùng để đâm mạnh vào da, thúc voi tăng tốc độ, còn anh chàng mơgát thứ hai ngồi ở phía sau thì dùng chiếc búa gỗ Kốc nện mạnh vào mông con voi để voi chạy nhanh và thẳng đường, Khi bóng chàng mơgát ngồi trên lưng chú voi đi đầu vừa xuất hiện từ xa trong vòng quay trở về đích, thì tiếng reo hò của khán giả vang lên như sấm. Tiếng trống chiêng giục giả liên hồi. Tiếp theo là tiếng hoan hô những người thắng cuộc. Khi chú voi nào về đích thì tiếng reo hò của khán giả vang lên như sấm. Tiếng trống, tiếng chiêng giục giã liên hồi. Tiếp theo là tiêng hoan hô những người thắng cuộc. Những chú voi đoạt giải đưọc gắn hoa, mang đai đỏ cho người và voi. Voi thắng cuộc và các chàng mơgát được thưởng 1 con lọn và 7 ché rượu quý. Dân làng dự hội tặng cho chú voi thắng cuộc những cây mía hay ống đường. Sau cuộc đua, dân làng kéo nhau về nhà rông để ăn uống no say. Các chàng trai, cô gái ăn uống, nháy múa trong nhịp cồng chiêng cho tới sáng.
Hội đua voi là lễ hội đặc trưng, thể hiện tinh thần thượng võ của đồng bào Tây nguyên. Khung cảnh hùng vĩ của núi rừng Tây Nguyên càng tăng chất hùng tráng của ngày hội cổ truyền này. Cuộc đua voi kết thúc, những chú voi dự thi lần lượt trở lại các buôn làng xa xôi, mang theo tiếng hát, lời ca và không khí rộn ràng cua ngày hội.
Thuyết minh về Lễ hội đua voi ở Tây Nguyên – Bài số 2
Tháng 3, khi những sắc hoa rừng lan tỏa khắp nơi lôi cuốn những đàn ong rừng đi tìm mật, cũng là lúc các buôn làng của người dân Tây Nguyên chuẩn bị cho mùa vụ mới. Để cho mùa màng được bội thu, hạt lúa đầy nhà, mang lại ấm no cho buôn làng, người dân Bản Đôn bắt đầu tổ chức những lễ hội truyền thống, trong đó có lễ hội đua voi độc đáo.
Con voi một loài vật gần gũi với người dân Tây Nguyên, không những được thuần dưỡng để lấy sức kéo, chuyên chở hàng hòa mà còn được người dân Tây Nguyên xem như những người bạn hay thành viên trong mỗi gia đình. Bản Đôn được coi như thủ phủ của loài voi là nơi diễn ra lễ hội đua voi độc đáo với ý nghĩa tôn vinh sự mưu trí, sức mạnh, phản ánh những nét văn hóa đặc thù đặc sắc của những người con Tây Nguyên. Đến Bản Đôn du khách còn được trải nghiệm với hành trình cưỡi voi lội sông Sêrêpok, thưởng thức những ẩm thực lạ miệng mà đầy sức hấp dẫn của những con người Tây Nguyên.
Đến Bản Đôn vào những ngày đầu tháng 3, du khách sẽ bắt gặp sự nhộn nhịp, náo nức của người dân diễn ra khắp các buôn làng. Những chàng quản tượng nườm nượp đưa voi đến vùng cỏ xanh để chăm sóc, trong khi đó những cô gái Bản Đôn sắm sửa lễ vật để cầu cúng cho các lễ hội truyền thống cùng diễn ra với lễ hội đua voi.
Vào sáng sớm của ngày hội đua voi, đoàn người của buôn làng cùng già làng đến bến nước để làm lễ cúng, nhằm cảm tạ thần nước đã đem lại may mắn trong năm cũ và cầu cho mưa thuận gió hòa trong năm mới. Cúng xong mọi người sẽ lấy nước đựng trong quả bầu khô bỏ vào gùi mang về nhà để lấy khước cho năm mới. Sau đó, mọi người tập trung về ngôi nhà sàn cộng đồng để cùng ăn thịt, uống rượu cần, ca hát và nhảy múa với âm vang cồng chiêng rộn rã.
Để con voi luôn khỏe mạnh và thể hiện lòng yêu quý với chúng, lễ cúng sức khỏe cho voi luôn được thực hiện hàng năm. Lễ vật là 3 ché rượu cần, một con heo và một bầu nước. Lễ xong mọi người ca hát nhảy múa hân hoan để bắt đầu cuộc thi voi với những tiếng cồng chiêng thúc giục.
Một bãi đất trống bằng phẳng của buôn làng được sử dụng để đua voi, những con voi to lớn đứng giàn thành hàng ngang từ 5 đến10 con, trên lưng là 2 chàng quản tượng có nhiệm vụ điều khiển voi. Sau hiệu lệnh một hồi tù và ngân lên, đàn voi với sức mạnh phóng nhanh từng đàn về phía trước nghe rầm rập cả đất trời. Tiếng cồng chiêng thúc giục, hòa với tiếng vỗ tay, la hét cổ vũ inh ỏi của du khách tham quan làm cho lễ hội đua voi náo nhiệt, rộn rã đến lạ thường.
Những chàng quản tượng người Ê Đê, M’Nông trong trang phục rực rỡ của dân tộc ngồi trên lưng voi. Người cầm gậy ngồi trước thì điều khiển sao cho voi chạy thẳng đường, người ngồi sau thì cầm búa gỗ quất vào mông voi, thúc voi tăng tốc thật nhanh để băng băng về đích.
Người dân trai gái ở khắp các buôn làng Bản Đôn diện những trang phục màu sắc rực rỡ, độc đáo của dân tộc cùng đến cổ vũ náo nhiệt. Tiếng chiêng, tiếng trống gióng lên làm cho đàn voi như được tiếp thêm sức mạnh. Tiếng bước chân rầm rập của đàn voi làm xới tung cả bãi đất trống. Những cành lá khô bay xáo xác, tiếng gió rít mạnh cùng với tiếng cồng chiêng âm vang, làm vang vọng cả núi rừng cao nguyên bạt ngàn Bản Đôn.
Năm nay, lễ hội đua voi diễn ra trong hai ngày từ 12 đến 14/3 tại xã Krông Na, huyện Bản Đôn. Theo định kỳ 2 năm một lần lễ hội sẽ tái diễn những màn rượt đuổi ấn tượng của các con voi dũng mãnh. Xen kẽ với đua voi là những lễ hội truyền thống của buôn làng Tây Nguyên như lễ cúng bến nước, lễ cúng cơm mới, lễ đâm trâu… Những lễ hội tạo thành một dòng chảy văn hóa nối tiếp đa đạng đầy đủ những gam màu rực rỡ.
Đến Bản Đôn, du khách sẽ thỏa lòng với những cung bậc cảm xúc trước bề dày văn hóa độc đáo của người Tây Nguyên. Ngoài việc tham gia lễ hội du khách đừng quên thưởng thức cơm lam hay một ly rượu Ama Kông với gà nướng Bản Đôn chấm muối ớt.
Thuyết minh về Lễ hội đua voi ở Tây Nguyên – Bài số 3
Trước ngày lễ hội vài tháng, voi được đưa đến những cánh rừng nhiều cây cỏ để ăn uống no nê. Ngoài ra, voi còn được bồi dưỡng thêm chuối chín, đu đủ chín, mía cây, bắp ngô, khoai lang, cám gạo và hầu như không phải làm việc nặng để giữ sức.
Đến ngày hội, các đàn voi từ những buôn làng gần xa nườm nượp kéo nhau về buôn Đôn, tập trung ở một số bãi hoặc cánh rừng thưa ven sông Sêrêpốc. Dân làng cũng kéo nhau về dự lễ hội trong những bộ quần áo rực rỡ sắc màu. Bãi đua là một dải đất tương đối bằng phẳng (thường là khu rừng bằng, ít cây to) bề ngang khoảng 30-35 m, đủ để 10 con voi giăng hàng đi một lúc; bề dài từ một đến hai kilômét.Người ta tổ chức đua voi theo từng tốp một. Một hồi tù và rúc lên, đàn voi dưới sự điều khiển của những chàng mơgát lần lượt tiến vào khoảng đất bằng, dàn thành hàng ngang ngay ngắn. Nhiều con rống vang, như để báo hiệu rằng chúng sắp bước vào một cuộc thi tài quan trọng.
Theo lệnh điều khiển, từng tốp voi đi vào đứng ở tuyến xuất phát. Con đầu đàn bước lên phía trước, trong tư thế uy nghi, hai chân trước đứng thẳng, ngẩng cao, quay cái vòi mấy vòng rồi cúi đầu chào khán giả hai bên, xong lại lùi vào vị trí cũ. Tiếng hoan hô cùng những tràng vỗ tay cổ vũ vang dậy, trong khi tiếng chiêng, tiếng trống dóng lên từng hồi rộn rã như thúc, như giục. Không khí trường đua lúc này lặng im, căng thẳng, mọi người hồi hộp chờ đợi. Trên mỗi con voi cường tráng có hai chàng mơgát dũng mãnh, trong bộ trang phục sặc sỡ kiểu tướng lĩnh ngày xưa đang trong tư thế sẵn sàng chờ lệnh. Một tiếng tù và rúc to báo lệnh xuất phát. Đàn voi phóng về phía trước trong tiếng hò reo, la hét của khán giả cùng tiếng chiêng, tiếng trống âm vang cả núi rừng. Chàng mơgát ngồi phía trước đầu voi điều khiển voi bằng một thanh sắt nhọn, dài độ một mét gọi là kreo (tiếng M'nông là gậy điều khiển) dùng để đâm mạnh vào da, thúc voi tăng tốc độ. Anh chàng mơgát thứ hai ngồi ở phía sau thì dùng chiếc búa gỗ kốc nện mạnh vào mông voi để thúc voi chạy nhanh và thẳng đường.
Khi chú voi nào về đích thì tiếng reo hò của khán giả vang lên như sấm. Tiếng trống, tiếng chiêng giục giã liên hồi. Tiếp theo là tiếng hoan hô những người thắng cuộc. Những chú voi được giải được gắn hoa, mang đai đỏ cho người và voi. Voi thắng cuộc và các chàng mơgát được thưởng 1 con lợn và 7 ché rượu quý. Dân làng dự hội tặng cho chú voi thắng cuộc những cây mía hay ống đường. Sau cuộc đua, dân làng kéo nhau về nhà rông để ăn uống no say. Các chàng trai, cô gái ăn uống, nhảy múa trong nhịp cồng chiêng cho tới sáng.
Hội đua voi là lễ hội đặc trưng, thể hiện tinh thần thượng võ của đồng bào Tây Nguyên. Khung cảnh hùng vĩ của núi rừng Tây Nguyên càng tăng chất hùng tráng của ngày hội cổ truyền này.
Thuyết minh về Lễ hội đua voi ở Tây Nguyên – Bài số 4
Các dân tộc ở Tây Nguyên có rất nhiều lễ hội, tập trung vào thời điểm tháng Chạp năm trước đến tháng ba năm sau. Hội đua voi truyền thống của người M’nông ở Buôn Mê Thuột thường diễn ra vào tháng 3 âm lịch trước khi vào mùa vụ mới.
Lễ hội này nhằm tôn vinh tinh thần thượng võ và tài nghệ thuần dưỡng voi của người dân bản địa. Tuy nhiên, lễ hội không được quảng bá rộng rãi như lễ hội cồng chiêng nên rất ít du khách đến đây đúng vào thời điểm này. Điều đặc biệt của lễ hội là mang tính truyền thống cao, chưa bị thương mại hóa.
Lễ hội đua voi được tổ chức tại một khu đất trống, khá bằng phẳng, ít cây của vườn Quốc gia Yok Đôn hoặc một cánh rừng thưa ven sông Sê-rê-pốk. Voi dàn hàng ngang khoảng 10 con hoặc nhiều hơn. Trong sự reo hò, cổ vũ của khán giả, đàn voi đua như hăng hái hơn. Chúng đưa vòi lên cao rồi hạ xuống chào mọi người.
Sau một hồi tù và vang lên báo lệnh xuất phát, đàn voi bật dậy chạy thẳng về phía trước. Đường đua thường khoảng 400-500 mét, đua đường dài khoảng 1-2km. Hai anh nài voi, tiếng địa phương gọi là mơ-gát, ngồi trước và sau điều khiển voi chạy đúng đường và giữ sức bền, tăng tốc…
Khán giả phần đông là người bản địa ăn mặc thổ cẩm sặc sỡ hoa văn đứng hai bên đường hò hét tạo nên một không khí náo nhiệt. Theo người dân địa phương, trước khi vào cuộc đua, voi được đưa đến những đồng cỏ xanh tốt và tẩm bổ thêm bằng các loại củ. Trong thời gian này, voi không làm nặng để dưỡng sức. Vì vậy, khi vào đấu trường, con voi nào cũng rất khỏe mạnh, sung sức.
Người M’nông và một số dân tộc ở Tây Nguyên rất quý voi như người Khmer ở Nam bộ quý con bò. Theo truyền thống, con voi thể hiện sức mạnh của bộ tộc, sự sung túc của gia đình. Chỉ có những gia đình giàu có mới có voi được thuần dưỡng từ voi rừng. Hiện nay, chỉ có Tây Nguyên mới còn voi, nhưng số lượng cá thể đang bị giảm sút đáng kể.
Giới trẻ ở đây trở nên xa lạ với phương thức thuần voi của cha ông ngày xưa mà chủ yếu là chăm sóc và điều khiển voi. Những người thuần voi vì thế càng trở nên hiếm hoi theo thời gian. Hiện nay, công việc này chủ yếu là người lớn tuổi, có vài chục năm kinh nghiệm.
Huyền thoại về thuần dưỡng voi rừng là N’Thu K’Nul, ông sinh năm 1828, mất khi đã thọ được 110 tuổi, ông có danh hiệu là “Vua săn voi” (khun-ju-nốp) do Hoàng gia Thái Lan ban tặng. Ông được xem là người khai sinh nghề săn bắt và thuần dưỡng voi ở Buôn Đôn, một người tù trưởng đầy quyền lực và được nhiều dân tộc kính phục lúc bấy giờ. Theo người dân địa phương, trong đời ông đã thuần dưỡng khoảng 170 con voi rừng, có người lại nói ông thuần dưỡng đến hàng trăm con; trong đó, có một con bạch tượng-loài vật hiếm có. Hiện nay, khu mộ của ông được giữ gìn kỹ lưỡng. Mộ được kết hợp giữa kiến trúc của người M’Nông và người Lào-hai dân tộc chính ở địa phương vào thời điểm đó. Đó như một biểu tượng của truyền thống sức mạnh đoàn kết các dân tộc anh em.
Phần mộ là những chi tiết hình khối đơn giản, trang trí búp sen ở bốn góc và đỉnh. Cạnh mộ Vua săn voi là ngôi mộ hình tháp, có mái nhọn cách điệu nhà rông. Ngôi mộ này do vua Bảo Đại xây dựng cho hậu duệ của N’Thu K’Nul là R’Leo K’Nul, gọi ông bằng cậu. Người ta hay nhầm tưởng ngôi mộ hình tháp là của N’Thu K’Nul. Khu lăng mộ này được nhiều du khách đến chiêm ngưỡng để hiểu rõ hơn về những con người xuất chúng. Về sau, có một số hậu duệ khác của N’Thu K’Nul nối nghiệp, nhưng số lượng voi thuần dưỡng ít hơn và tay nghề kém hơn.
Quần thể du lịch Buôn Đôn là một không gian đặc trưng, là cái hồn của Tây Nguyên với những cánh rừng già, những con sông cuồn cuộn chảy và những hồ nước lưng chừng trời, lưu giữ nhiều chứng tích lịch sử hình thành vùng đất này. Buôn Đôn thuộc xã Krông Na, huyện Buôn Đôn, cách TP Buôn Mê Thuột khoảng 42km.
Đến đây, du khách có dịp thưởng thức cồng chiêng, cưỡi voi.Cá trên sông Sê-rê-pốk và hồ Lắk là những đặc sản quý của vùng này. Ai đến đây cũng phải tìm cho bằng được các loại cá bản địa để thưởng thức vì vị ngon và lạ bởi vị trí hiểm trở của nơi chúng sinh trưởng đã tạo sự khác biệt giữa cá sông, hồ Tây Nguyên với cá sông, hồ ở đồng bằng…
Vũ Hường tổng hợp
Từ khóa tìm kiếm
- https://xembaigiai com/thuyet-minh-ve-le-hoi-dua-voi-o-tay-nguyen-van-mau-lop-12-3967 html
- bai văn thuyết minh về hô lắc
- câu cá ở sêrêpôc
- thuyết minh về lễ hội đấu vật