Phân tích tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng) – Văn mẫu lớp 11
Phân tích tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng) – Văn mẫu lớp 11 Phân tích tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng) – Bài số 1 Số đỏ là cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm đã phát huy cao độ tài năng châm ...
Phân tích tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng) – Văn mẫu lớp 11
Phân tích tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng) – Bài số 1
Số đỏ là cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm đã phát huy cao độ tài năng châm biếm, đả kích sắc sảo của Vũ Trọng Phụng trước những thói xấu xa, giả dối của xã hội thực dân, phong kiến nửa đầu thế ki XX. Dưới ngòi bút kì tài của Vũ Trọng Phụng, chương nào, đoạn nào cũng thú vị, hấp dẫn như một màn hài kịch trọn vẹn. Đặc biệt gây ấn tượng là chương Hạnh phúc của một tang gia.
Ý nghĩa châm biếm gửi cả trong cái tên của chương truyện. Một gia đình có tang, thậm chí đại tang ắt phải tiếc thương, sầu não đến chừng náo, ấy vậy mà lại hạnh phúc. Mới nghe có vẻ ngược đời nhưng trong hoàn cảnh cụ thể của gia đình này thì điều ấy lại chân thực, hợp lí. Ở đám tang cụ Tổ, mọi người đều vui như Tết: con cái, cháu chắt, họ hàng thân thích, người quen biết… ai cũng thấy đây là một dịp may hiếm có để thoả mãn một nguyện vọng, một ý đồ nào đó.
Vũ Trọng Phụng vạch rõ chân tướng nhố nhăng, lố bịch của những hạng người mang danh là thượng lưu, quý phái, văn minh, tân tiến nhưng thực chất lại là những cặn bã, quái thai của cái xã hội dở Tây dở ta buổi ấy.
Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành công những tình huống điển hình để bộc lộ những tính cách đặc sắc. Trước hết, phải nói đến thái độ của những kẻ có quan hệ ruột rà với cụ Tổ.
Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, đứa cháu nào tiếc thương bởi đã từ lâu, họ mong cụ chết cho nhanh để chia gia tài. Thay vào sự tiếc thương, cái chết của cụ đã đem đến cho họ niềm vui to lớn không che giấu nổi – một “hạnh phúc”: Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm ai cũng vui sướng thoả thích… Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma… Tang gia ai cũng vui vẻ cả…
Cậu tú Tân, chậu nội cụ Tổ hào hứng, phấn khởi thật sự vì cậu có dịp trổ tài sử dụng cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Vợ Văn Minh (cháu dâu) mừng rỡ vì sẽ được mặc đồ xô gai tân thời và đội cái mũ mấn trắng viền đen… để quảng cáo cho một kiểu đồ tang mới lạ của cửa hàng Âu hoá vừa mới chế ra.
Còn người con trai cả của cụ Tổ thì sung sướng vì một lí do khác lớn hơn. Cụ cố Hồng mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ bình phẩm, ngợi khen: úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa. Văn Minh (cháu nội), đã từng du học tận bên Tây bao năm, về nước không có lấy một mảnh bằng, chỉ nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài thì thích thú ra mặt vì cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa. Riêng người cháu rể (Phán mọc sừng) lại khấp khởi, sướng rơn trong bụng vì đã được bố vợ nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho con gái và con rể thêm một số tiền vài nghìn đồng. Chính ông không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế!
Không khí của đám ma là không khí của một ngày hội. Đây cũng chính là mâu thuẫn trào phúng gây cười ra nước mắt xuyên suốt hoạt cảnh này. Đám ma rất to, to chưa từng thấy ở đất Hà Thành xưa nay., Có đủ cả kiệu bát cống, lợn quay… đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa phúng điếu, vài trăm người đưa đám nghiêm nghị, thành kính đi sát ngay sau linh cữu cụ Tổ, trong đủ thứ tiếng kèn huyên náo: kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu, có cả âm thanh chói tai, rộn rã của lốc bốc xoảng và bu-dích…
Đám ma cụ Tổ trở thành dịp may hiếm có để trưng bày và quảng cáo các mốt quần áo Âu hoá mới nhất của tiệm may vợ chồng Văn Minh – sản phẩm độc đáo của nhà thiết kế mĩ thuật Typn. Cô Tuyết cháu gái cụ Tổ với bộ y phục ngây thơ khá hở hang và nét mặt cố tạo ra một vẻ buồn lãng mạn, rất đúng mốt một nhà có đám, khiến cho bao nhiêu vị khách đàn ông khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết phải xúc động còn hơn nghe tiếng kèn… ai oán, não nùng. Bộ đồ tang đã được cách tân của vợ Văn Minh cũng làm cho mọi người phải xuýt xoa, trầm trồ…
Ngoài những thân nhân của người quá cố phải nói đến đám bạn bè, quan khách của tang chủ, đi đưa đám không phải để chia buồn mà là cốt khoe ngực đầy những huy chương như: Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn Tượng bội tinh…. trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loàn quản…Đám phụ nữ quý phái, đám trai thanh gái lịch đang theo đuổi, học đòi phong trào Âu hoá, vừa đi đưa ma vừa cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau… Và mỉa mai thay, họ làm tất cả những chuyện ấy bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma (!) Điều đó chứng tỏ họ hoàn toàn dửng dưng với người chết, tất cả đều thản nhiên, vui vẻ và dối trá.
Người dân hai bên đường đổ xô ra xem đám ma như xem một sự lạ. Đám ma to đến nỗi những người trong tang gia cảm thấy hết sức sung sướng và hàng phố nhốn nháo cả lên khen đám ma to. Nhà văn lạnh lùng bình luận: Đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Thật là mỉa mai, chua chát!
Đằng sau sự phô trương, cố làm ra vẻ long trọng, danh giá ấy là sự rởm đời đến mức lố lăng, là thói háo danh đến trơ trẽn của bọn người giàu sang, hãnh tiến và bao trùm lên tất cả là thói đạo đức giả, tự lừa mình và lừa người.
Song song với việc mô tả hình thức đám ma với đủ các nghi thức trọng thể, Vũ Trọng Phụng không quên đi sâu thể hiện, phanh phui mặt trái của nó. Ngòi bút sắc sảo của nhà văn trưng lên liên tiếp những bức biếm hoạ trước mắt người đọc, để rồi giúp người đọc nhận ra rằng cái đám ma to tát ấy chỉ thiếu một cái duy nhất mà cũng quan trọng nhất của đám ma – đó là tình người. Thiếu lòng thương tiếc chân thành đối với người đã khuất thì tất cả những hình thức loè loẹt, om sòm kia đều trở thành vô nghĩa, thành trò cười cho thiên hạ. Những kẻ có mặt trong đám ma giống nhau ở chỗ đều giả dối và vô đạo đức.
Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, đẩy sự lố lăng, dị hợm của đám ma cụ Tổ lên tới đỉnh cao. Hắn chọn đúng lúc để có mặt, trước sự chú ý của mấy trăm con người và gây ấn tượng mạnh với hai vòng hoa đồ sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư, cùng loại sư của báo Gõ mõ. Điều này khiến cho bà cố Hồng càng thêm sung sướng: Ấy, giả không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi. Còn cô Tuyết, người yêu của Xuân Tóc Đỏ cũng phải cảm động mà liếc mắt đưa tình với hắn.
Mấy chi tiết đặc tả cảnh hạ huyệt càng mỉa mai, trào phúng. Vũ Trọng Phụng tả nó như một vở kịch mà bận tay dàn dựng của đạo diễn quá ư lộ liễu, trắng trợn: cậu Tú Tân bắt từng người phải chống gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt… để cậu chụp ảnh, trong khi bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chất bi hài của cảnh khiến người đọc cười ra nước mắt. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng: ông oặt người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt: Hức! Hức! Hức. Ông thương cho người đã khuất chăng? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mặt mọi người. Thực ra, cụ Tổ chết ông ta rất mừng vì được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà cô vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông Phán dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ một cái giấy bạc năm đồng gấp làm tư… để trả công hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước họ hàng nhà vợ, nhờ đó mà ông ta có thêm được một món tiền lớn.
Qua chương Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng bộc lộ xuất sắc tài kể chuyện của mình. Bút pháp của Vũ Trọng Phụng giỏi ở chỗ phóng đại mà như không phóng đại, làm cho mọi việc đều như thật và hơn thật, ông chú ý đến các mâu thuẫn giữa hiện tượng và bản chất, khai thác triệt để nhằm gây nên những tràng cười có ý nghĩa phê phán sâu sắc. Cảnh đám ma hiện ra như một màn hài kịch sinh động, một bức biếm hoạ khổng lồ và chi tiết về cái xã hội tự xưng là thượng lưu, sang trọng ở Hà Nội thời đó đang phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại trước mắt mọi người.
Phân tích tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng) – Bài số 2
Nhắc đến Vũ Trọng Phụng không ai không biết rằng ông là “ông vua phóng sự của đất Bắc Kì”. Đến với ông người đọc sẽ được chiêm ngưỡng một công trình đồ sộ về thể loại phóng sự và tiểu thuyết. Ông để lại cho đời nhiều kiệt tác bất hủ như: Cạm bẫy người( năm 1933), Giông tố ( năm 1936), Vỡ đê( năm 1936)….nhưng có lẽ đặc sắc hơn cả là tiểu thuyết “Số đỏ”, tiểu thuyết đã phơi bày được hiện thực lúc bấy giờ. Nổi bật hơn cả là tác phẩm” hạnh phúc của một tang gia” trích từ chương XV. Trong tác phẩm, tác giả đã nêu cao được nghệ thuật trào phúng đặc sắc của ngòi bút riêng mình.
Trước hết nghệ thuật trào phúng đặc sắc được thể hiện ở tên tác phẩm ”Hạnh phúc của một tang gia”. Ngay ở tên tác phẩm đã là một điều không bình thường, tang gia và hạnh phúc là hai cặp từ đối nhau. Nếu như hạnh phúc là niềm vui sướng , sự thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người. Thì tang gia là nỗi buồn của một gia đình có người thân mất. Trong giây phút sinh ly từ biệt ấy thì bao chùm lên phải là không khí khổ đau sầu thương não nề. Vậy mà trong đám tang của một gia đình đại tư sản danh giá nhất đất Hà Thành những đứa con đứa cháu, không một đứa nào thương tiếc sầu não. Mà ngược lại cái chết của cụ tổ đã đem lại cho con cháu của cụ một niềm hạnh phúc vô bờ. Vậy tại sao tang gia lại hạnh phúc, nghe qua tưởng rằng nghịch lí của cuộc đời. Nhưng đó lại là sự thật diễn ra trong gia đình đại tư sản kia. Người mất là ông cụ tổ của một đại gia đình có gia tài kếch xù. Nhưng oái oăm thay di trúc mà cụ viết chỉ được chia cho con cháu khi cụ đã qua đời. Vì vậy đàn con cháu rất muốn cụ chết để được chia tài sản. Chúng đã cho cụ dùng thuốc thánh mà không chết. Mà cụ chỉ chết khi tên Xuân Tóc Đỏ nói ông phán cháu rể của cụ là một người chồng “mọc sừng”. Sau ba hôm cụ chết thật, nay cụ đã chết ước mơ chia gia tài đã trở thành hiện thực. Vì vậy cái chết của cụ đã khiến cho nhiều người sung sướng lắm. Thành thử ra tang gia ai cũng vui vẻ cả.
Thật vậy khi xây dựng mâu thuẫn trào phúng Vũ Trọng Phụng đã dựng lên một chân dung trào phúng vô cùng đặc sắc. Không phải những nhân vật này giờ mới xuất hiện mà ngay trong các chương khác, các nhân vật ấy vốn dĩ đã rất đốn mạc. Nay trong hoàn cảnh tang gia bản chất lừa lọc, thất đức, bốc biết càng có dịp bộc lộ rõ nét. Ta hãy xem những khuôn mặt nhăn nhó đau đớn như thế nào khi trong gia đình và ngoài gia đình đã mất đi một người thân?
Trước hết bản chất chó đểu ấy phải bắt đầu từ chân dung cụ cố Hồng- con trai cụ tổ. Trong lúc tang gia đang bối rối lo đủ thứ thì ông ta lại lên tầng trên tận hưởng những giây phút thư giãn. Mơ màng trong làn khói hút của nàng tiên nâu, ung dung hút thuốc phiện. Trong hoàn cảnh gia đình nhốn nháo, thằng bòi tiêm đã đếm được 1872 câu gắt “ biết rồi, khổ lắm, nói mãi” của cụ cố Hồng. Có lẽ tâm địa bất lương của cụ cố Hồng được thể hiện rõ nhất trong sự mong chờ cụ tổ chết để được mặc đồ xô gai và để người ta khen già :” cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừ ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: úi kìa, con giai lớn đã già đến kia kìa”. Vì chỉ có gia đình đại phúc mới có người sống thọ, chỉ nghĩ đến thể thôi đã làm cụ sung sướng lắm rồi. Còn bà cụ cố Hồng chẳng lo nghĩ gì đến đám tang mà lại lo cho đám cưới của Tuyết. Cụ cho người đi tìm đâu cũng không thấy Xuân Tóc Đỏ. Cụ không phải chăn chở cho người đã mất mà cho người đang sống.
Đến những đứa con cụ tổ dứt ruột đẻ ra nuôi trưởng thành mà còn như thế huống chi đám cháu chắt kia. Vẻ mặt đăm đăm chiêu chiêu của Văn Minh không phải buồn vì người đã mất mà không biết xử lí Xuân Tóc Đỏ ra sao cho hợp lí. Trước “ hai tội nhỏ và một ơn lớn”. Hai tội nhỏ là yêu Tuyết và đã chỉ được tội của Hoàng Hôn. Cả hai đều là em của Văn Minh. Còn cái ơn lớn kia là đã làm cho cụ già kia chết chỉ vì một câu nói. Hơn thế Văn Minh còn sung sướng vì “cái chúc thư kia sẽ đi vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa”. Đó chính là niềm vui niềm hạnh phúc bấy lâu nay của Văn Minh mong chờ. Còn bà Văn Minh thì sao? Bà “sốt cả ruột vì mãi không được mặc những đồ xô gai tân thời, cái mũ vân trắng viền đen dernires creations” và bà cũng rất sung sướng có dịp để “ lăng xê” những bộ mốt nhất của tiệm may Âu hóa trong đám tang. Việc lăng xê và trưng diện đồ mốt ấy theo bà nghĩ rằng ban cho ai có tang rất đau đớn vì kẻ đã chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời. Đó chính là niềm vui niềm hạnh phúc bà đang mong chờ. Trong hoàn cảnh ấy Tuyết buồn, khuôn mặt buồn đến lãng mạn trông nom giống cái buồn của một gia đình có người mất. Đó không phải nỗi buồn khi ông mất mà buồn vì chưa thấy bạn trai đâu cả. Tuyết ngơ ngác đặt ra từng câu hỏi dồn dập “tại sao Xuân lại không đến phúng viếng gì cả? Tại sao Xuân lại không đi đưa? Hay là Xuân khinh mình?” Tuyết cứ tìm kiếm mà không thấy đâu, Tuyết như bị kim châm vào lòng. Bên cạnh nỗi buồn vì không thấy bạn trai đâu thì còn niềm vui sướng vì Tuyết được mặc “ bộ y phục ngây thơ”. Đó là cơ hội để Tuyết chứng minh được “ mình chưa đánh mất cả chữ trinh”. Đọc lên người đọc thấy lực cười và buồn thay cho Tuyết, bản thân từ “cả” đã khẳng định rằng nó chưa mất hẳn nhưng đâu còn nguyên vẹn nữa. Còn đối với cậu Tú Tân điên người lên “vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu chưa được dùng đến”.
Cậu sung sướng vì đây là dịp thể hiệ tài đạo diễn đội quân chụp ảnh của mình. Cậu bắt bẻ, uốn éo từng người trong đám tang. Trong cái đám tang ấy ai cũng có vẻ mặt buồn nhưng không một tiếng khóc nào bật lên. Chỉ duy nhất có tiếng khóc lớn “hứt, hứt, hứt…” của đứa cháu rể Phán mọc sừng vang lên. Tiếng khốc ấy rất lớn nhưng đằng sau là niềm vui sướng vô bờ vì “ai cũng để ý đến ông cháu rể quý hóa ấy”. Ông ta bán danh dự của mình khi cho mọi người biết vợ mình đi ngoại tình để được hưởng lợi về tiền bạc. Phải chăng ông Phán mọc sừng ấy chỉ là một thằng đàn ông hèn hạ? Trong lúc đoàn đám tang đang đi thì Xuân ở đâu bỗng xuất hiện cùng với “hai vòng hoa đồ sộ, một của báo gõ mõ, một của Xuân, cũng len vào đầu hàng”. Vẻ mặt hắn vênh váo vì nhờ hắn mà cụ tổ lăn đùng ra chết.
Không chỉ có những người trong gia đình cụ tổ được hưởng niềm vui sướng mà những người ngoài gia đình tang chủ cũng được thừa hưởng niềm vui sướng ấy. Hai viên cảnh sát Min Đơ và Min Toa đang không có ai đáng phạt mà phạt, lại còn thất nghiệp “buồn rầu như những nhà buôn sắp vỡ nợ”. Trong hoàn cảnh ấy anh ta sung sướng cực điểm khi được thuê giữ trật tự cho đám ma, nên đã trông nom hết mình. Đó đúng là cảnh nghịch lí mà buồn cười, đám tang người mất ai cũng buồn rầu, tôn trọng lẫn nhau thì làm sao có mất trật tự mà giữ. Những ông bạn thân của cụ cố Hồng ngực đầy huy chương “Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Men bội tinh, Vạn Tượng bội tinh,… trên mép và cằm đều có đủ loại râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen đen hoặc hung hung, hoặc lúc phún hay rầm rậm, lăn quăn những ông tai to mặt tướng thì đi sát ngay với linh cữu”. Bản chất khoe khoang , thể hiện bản lĩnh danh giá của người đàn ông. Hơn thế họ đến đám tang chỉ để ngắm “làn da trắng thập thò trong nàn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết, ai nấy đều cảm động hơn những khi nghe tiếng khèn Xuân nữ ai oán, não nùng”, điều đó thể hiện sự thỏa mãn dâm dục của chúng.
Bạn cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà phó Đoan “thật là đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma”. Những hình ảnh, hành động này không phù hợp với hoàn cảnh đám tang. Đúng chỉ có những con người vô học, mất hết tính người, còn người hàng phố thì được chứng kiến một đám ma to. Đặc biệt khi miêu tả những bức chân dung này nhà văn Vũ Trọng Phụng không đi sâu và miêu tả những bộ râu, huân chương và những tiếng thì thầm nhưng qua đó tác giả đã gợi cho người đọc thấy cả một xã hội háo danh khoe mẽ, trụy lạc, lẳng lơ. Một xã hội nhố nhăng “khốn nạn chó đểu” nhưng bề ngoài thì có vẻ sang trọng “âu hóa”,”văn minh”,”tiến bộ”. Đó chính là bộ mặt của cả một xã hội thượng lưu.
Mâu thuẫn trào phúng không chỉ được thể hiện những bức chân dung của mọi người trong gia đình, ngoài gia đình và mọi người xung quanh mà còn được thể hiện ở nghệ thuật dựng cảnh-khung cảnh đám tang. Trước hết người đọc phải nhìn nhận được cảnh chuẩn bị tang lễ. Cảnh cười đau xót được toát lên trong tình tiết bất ngờ, chì hoãn việc chuẩn bị tang lễ. Nhà văn nén chốt lại để tiếng cười bung ra mạnh hơn. Tất cả mọi người trong gia đình đều lo lắng vì chưa được phát phục, vì chuyện của Tuyết. Phái trẻ “bọn dâu con đã bắt đầu la ó lên rằng phái già chậm chạp”. Cậu Tú Tân thì điên lên, bà Văn Minh thì sốt ruột, TYPN thì bực mình. Nhưng khốn nỗi ở đây người ta bực bội không phải vì thương xót một ông cụ già đã chết phải đem đi chôn mà người ta mong chôn cái xác ý đi để được hưởng hạnh phúc, đó là chia tài sản và mỗi người sẽ được hưởng một hạnh phúc riêng. Vũ Trọng Phụng viết người ta tưng bừng đi báo mọi người, nếu như không có từ cáo phó thì người ta sẽ nhầm rằng đây là đám cưới mất. Mà thậm chí có những từ gợi nỗi đau buồn ấy thì cũng không lấn áp đi hết được sự tươi vui, rộn dã tưng bừng của ngày hội.
Nếu như cảnh chuẩn bị tang lễ đã đông vui náo nhiệt mà nhố nhăng thì đến với cảnh đưa tang bản chất ấy càng được thể hiện rõ nét hơn. Bao chùm lên cảnh đưa tang là không khí tưng bừng, náo nhiệt, dộn dàng. Những âm thanh thường thấy ở đám tang là những thứ âm thanh buồn tẻ, nghe mà não lòng người càng tiếc nuối cho người đã khuất. Nhưng ở đây lại là thứ âm thanh hỗn tạp của tất cả những thứ khèn pha chộn “có cả lối ta, tàu, tây có kiểu bát cống, lợn quay đi lọng cho đến lốc bốc xoảng và bú dích và vòng hoa, có đến 300 câu đối, vài trăm người đi đưa”. Tất cả đều muốn thể hiên sự giàu sang, khoe khoang của gia đình và bản thân mình. Nhưng họ không nhận ra được rằng nó càng thể hiện họ là con người thiếu thẩm mỹ. Âm thanh dầu dĩ của đám ma có buồn đến đâu hay những thứ âm thanh Tây, Tàu kia có vang vọng lớn tới mấy cũng không lấn áp được tiếng mọi người. Tiếng thì thầm to nhỏ quanh linh cữu của người đã mất. Nó càng thể hiện sự vô tâm, bất nhẫn, vô học của những con người đã mất đi tính người. Câu khẳng định của Vũ Trọng Phụng “thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…” lại càng tố cáo mạnh mẽ cái bộ mặt ngoài thì sang trọng nhưng trong thì mất hết tình người. Trong lúc TYPN và bà vợ, bà phó Đoan và ông Joseph Thiết và mấy người nữa đang lào xào phê bình thái độ của Xuân thì Xuân bỗng xuất hiện làm đám tang đang đi phải ngừng lại. Cùng với Xuân là hai vòng hoa đồ sộ, ta cứ tưởng với thái độ bất kính vênh váo của một kẻ vô học như hắn, cùng với hành động như vậy thì sẽ bị mọi người lên án trách mắng. Nhưng hành động ấy không những không bị tảy chay mà ngược lại còn làm cho bà cố Hồng “hớt hải chạy lên, rồi cảm động hết sức nói”,” ấy giá mà không có món ấy thì thiếu to may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi”. Không một lời trách mắng không có một tiếng phê phán mà còn cảm động trước hành động đó. Đúng chỉ có mất hết tình người vô học mới có thể sống trong cuộc sống dơ bẩn ấy. Cùng với sự xuất hiện của Xuân thì “sư cụ Tăng Phú thì sung sướng và vênh váo ngồi trên một chiếc xe” rồi kể lể chắc ai cũng biết rằng sự cụ đã đánh đổ được hội phật giáo. Vậy mà đám tang cứ đi, hình ảnh ấy xuất hiện hai lần. Nó càng cho ta thấy rõ được sự mâu thuẫn giữa bản chất và hình thức. Tưởng đám tang bình thường kia nhưng ẩn sau nó là sự nhối nhăng đồi bại mất tính người của người sống với người đá mất. Đám tang thì to tát, tiếng khóc thảm thiết ở cạnh hạ huyệt nhưng lòng người thì rỗng tuếch. Vũ Trọng Phụng không quên kể lại và thêm vào những lời bình “thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng hải mỉm cười sung sướng, nếu không cũng phải gật gù cái đầu”. Đây là cách nói mỉa mai. Nếu như người chết biết, hẳn cụ đau lòng lắm vì không ai để ý đến cụ cả. Có người vui, có người buồn đến lãng mạn, có người đăm chiêu cảm động. Nhưng tất cả lại chẳng phải cho người chết. Nó chỉ là cái vỏ che đậy cho bản chất thờ ơ, cặn bã của mọi người trong đám tang này.
Đám tang đã có sự chuẩn bị, đã có khung cảnh giả tạo đi đưa. Giờ đến cảnh hạ huyệt sau cùng. Đây có lẽ là cảnh mà để cậu Tú Tân thể hiện cái tài của mình. Mặc trên người mình mặc gì, mọi người nghĩ sao cậu vẫn lao vào chụp “ lúc hạ quan tài, cậu Tú Tân luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng đã bắt bẻ từng người một hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng hoặc lau nước mắt như thế này như thế nọ”. Chẳng lúc nào buồn hơn đau lòng hơn khi người thân của mình bắt đầu chôn cất. Cái giây phút ấy nào ai còn nghĩ được gì khác mà chỉ biết đau xót cho người đã khuất. Vậy mà cậu Tú Tân còn chụp ảnh kỉ niệm lúc hạ huyệt. Người ta nó hổ dữ không ăn thịt con vậy mà cùng là con người lại là người thân trong gia đình mà có thái độ như vậy. Trong lúc cụ Hồng ho khạc mếu máo và ngất đi thì ông Phán mọc sừng lại khóc to “hứt….hứt….hứt” tiếng khóc ấy không phải thể hiện nỗi buồn đau lòng khi mất đi một người thân mà khoe khoang cho bàn dân thiên hạ biết. Khi Xuân muốn bỏ quách ra thì chợt thấy ông Phán mọc sừng dúi vào tay nó một giấy bạc năm đồng gấp tư. Ông mua cái hình thức ấy bằng tiền, tiền ngự trị cả con người và xã hội ấy. Mong cụ tổ chết cũng vì gia tài tiền bạc, thuê người hại cụ chết cũng vì tiền bạc, vì tiền bạc mà bán danh dự của một người đàn ông một người chồng
Bằng ngôn ngữ châm biếm đả kích sâu sắc Vũ Trọng Phụng đã làm nổi bật được nghệ thuật trào phúng. Tác giả đã lột tả được bản chất của từng nhân vật trong từng tình huống rồi gây ra tiếng cười cùng một lúc bởi hình ảnh giọng điệu diễn tả quá đạt. Truyện ngắn “hạnh phúc của một tang gia” đa chửi thẳng vào xã hội thượng lưu thối nát xưa. Xã hội sống với nhau bằng sự lừa lọc, giả dối với những ngón đòn sảo trá bất nhẫn. Tác giả không khỏi xót xa khi tạo nên nhưng tiếng cười dài và chỉ có những tiếng cười ấy mới phanh phui được hết những xấu xa của hiện thực. Cái bi của người chết và cái hài của xã hội, cái vô phúc của con người giàu sang nhưng thiếu mất tình người đạo lí. Cốt lõi của tinh thần phê phán và những tiếng cười trào phúng có lẽ cũng vì điều đó.
Phân tích tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng) – Bài số 4
Mỗi khi nhắc tới Vũ Trọng Phụng người ta đều nhớ tới ông là “ông vua phóng sự của đất Bắc Kì”. Đúng vậy, ông có một công trình đồ sộ về phóng sự và tiểu thuyết, với các tác phẩm bất hủ như: Cạm Bẫy Người (1993), Giông tố(1936)…Nhưng có lẽ bạn đọc nhớ nhất đến tiểu thuyết “Số Đỏ” của ông. Với những sự thật xã hội bấy giờ được tác giả thêu dệt lại qua lăng kính của mình. Đặc biệt đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” đã nêu lên được những nét chủ đạo của câu chuyện và thấy được bút pháp trào phúng đặc sắc của Vũ Trọng Phụng.
Trong đoạn trích này chủ yếu nói về cái chết và đám tang Cụ tổ được tái hiện lên như một màn hài kịch. Có rất nhiều tình tiết và các bộ mặt khác nhau trong đám ma điều này dẫn đến một đám ma đau thương trở thành một đám ma đáng cười xót xa. Chính cái chết của cụ tổ cho thấy đây là một cái chết vừa đáng cười vừa đáng khóc. Vì sao lại vậy? Khóc vì đạo đức của một bộ phận con người suy đồi đến cực độ, cha chết, ông chết mà “bọn con cháu vô tâm ai cũng sung sướng thỏa thích”. “Cái chết của ông già hơn 80 tuổi” đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”. Ai cũng nghĩ đến cái lợi cho mình, như vậy, đúng với cái nhan đề của đoạn trích tưởng như lố bịch của cuộc sống đời thường, nhưng không “Hạnh phúc của một tang gia” lại đúng khi cụ tổ mất. Những tiếng khóc, sự “báo hiếu” của con cháu thực chất là sự khoe giàu sang với thiên hạ. Bằng ngòi bút trào phúc, châm biếm, đả kích của tác giả, làm cho đoạn trích các nhân vật được hiện lên rất đáng cười, những tiếng cười ra nước mắt.
Để thấy được hạnh phúc của gia đình khi cụ tổ mất tác giả đã đi vào từng nhân vật để thấy được họ đang xót thương đau buồn hay biến đám ma của cụ cố tổ vào mục đích của bản thân?
Cụ cố Hồng – con trai cả của cụ tổ thì rất sung sướng vì cái chết của cha mình và cho đây là một cơ hội để tỏ ra già yếu khi lo cho cái chết của cha mình. Nhân vật này đã làm nổi bật được những sự lố lăng mà ngu dốt ham danh trong xã hội phong kiến.
Bên cạnh cụ cố Hồng là Văn Minh và ông TYPN lại tỏ ra vui mừng khôn xiết trước cái chết của ông nội và đây cũng là một cơ hội để ông đưa nền văn minh Á-Âu vào quảng cáo ở đám tang. Thật đau lòng thay, một đám ma hay là mọt phiên chợ để con cái mang ra quảng cáo, kinh doanh. Hay chính bà văn Minh thì lại vui mừng vì đây là dịp để chưng diện đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng, viền đen. Đúng là sự vô ơn bạc nghĩa của những kẻ vô học thức.
Trong đoạn trích tác giả còn nói về cô Tuyết, đến đám ma nhưng lại mặc bộ y phục gây thơ “Cái áo voan mỏng trong cooc-sê, hở cả nách cả vú” tưởng như tác giả tả hơi quá, nhưng không chỉ ở cách ăn mặc mà cô Tuyết này còn thể hiện ở cả tính cách, sự lẳng lơ, tưởng như vẻ mặt buồn vì đám tang, nhưng đây là nỗi buồn nhớ người tình.
Hết đến cô Tuyết lại đến cậu Tú Tấn, vui mừng vì cái máy ảnh đã được đem ra sử dụng vì Cậu mua đã lâu mà không dùng, thật ngỗ nghịch khi đám ma mà lại giẫm lên các ngôi mộ để chụp ảnh, tạo kiểu như một nhà nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp.
Hay chính ông Phán Mọc Sừng vui mừng vì cái sừng trên đầu mình được hưởng thêm tiền sau khi đám ma xong. Trong khi đó Xuân Tóc Đỏ thì danh tiếng lại càng nhiều hơn và càng được nhiều người tôn trọng vì đã có công trong cái chết của cụ Tổ.
Không chỉ có những người nhà của cụ cố tổ sung sướng ra mặt mà còn những người ở ngoài cũng góp một phần vào niềm hạnh phúc của gia đình khi đang có tang. Là đám ma nhưng lại có kiệu bát cống, có lợn quay che lọng như thế khác nào một đám rước? Hay có cả kèn ta, kèn tây sự lố lăng của sự “âu hóa”. Hay tại chính đám ma này cũng là cơ hội cho những “nam thanh nữ tú” “chim cò” nhau. Thật đáng lên án thay.
Qua việc thêu dệt lại các nhân vật bằng lăng kích của tác giả đã thể hiện rõ được sự lố bịch, tây-ta lẫn lộn của những học giả đòi làm sang. Bằng ngòi bút châm biếm trào phúng cay độc. Lúc thì phóng đại lúc thì biếm họa. Lúc tưởng như đáng đau buồn đau thương nhất nhưng lại là những niềm hạnh phúc được vỡ ào của những con cháu bất nhân, bất hiếu. Hay đáng lẽ là sự đau thương, đau buồn, thì lại là sự phô của, sự tình tứ nhau…Từ trang chủ, bọn con cháu, hay chính những người quan khách đến viếng đều là những vai hề. Không phải tự nhiên mà Vũ Trọng Phụng lại viết “Người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu.” Đây là một chi tiết nhỏ nhưng cũng để cho người đọc thấy được giọng điệu mỉa mai của tác giả.
Như vậy, qua đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” cho người đọc thấy hiện thực xã hội lúc đương thời, sự đáng cười nhưng cũng chính là sự đáng thương của một bộ phận con người trong xã hội lúc bấy giờ. Những tiếng cười ra nước mắt vì đạo đức con người bị suy thoái, sự ấu hóa tây ta lẫn lộn làm nên sự lố bịch. Từ đó, đáng lên án, phê phán gay gắt bộ phận này trong xã hội. Đồng thời, cũng qua đây cho ta thấy được sự tinh tế, đặc sắc trong việc lột tả hiện thực xã hội của Vũ Trọng Phụng bằng ngòi bút trào phúng sắc sảo.
Phân tích tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng) – Bài số 5
Năm 1939, Vũ Trọng Phụng bước sang tuổi 24. Ông vua phóng sự đất Bắc liền cho ra đời năm tác phẩm lừng danh: "Giông tố", "Số đỏ". "Làm đĩ", “ Vỡ đê”. “Hạnh phúc của một tang gia” là đoạn trích nằm trong tác phẩm “Số đỏ”.
Tang gia là gia đình đau thương buồn thảm. Ấy vậy mà lại hạnh phúc. Khi cụ Tổ hơn 80 tuổi phải chết đã “sướng lắm".
Tác giả đã xây dựng thành công một tình huống điển hình để phơi bày sự đồi bại trong cái gia đình trưởng giả này, vạch trần những quái thai của cái xã hội dở Ta dở Tây buổi ấy. Bố chết, ông chết "bọn con cháu vô tâm cũng sung sướng thỏa thích". Đây là dịp hiếm có để khoe của, kheo giàu, phô cái sang ra cho thiên hạ biết. "Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma, vân vân… Niềm vui tràn ngập:” tang gia ai cũng vui vẻ cả”.
Người con trai cả – cụ cố Hồng – hút liền một chập 60 điếu thuốc phiện, hả hê lim dim đôi mắt. Bữa nay, cha chết, cụ vui vẻ lắm, nhưng thằng bồi tiêm vẫn còn đếm được 1872 cậu gắt: "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Trong cái dư vị êm ái của thuốc phiện, cụ "nhắm nghiền mắt lại để mơ màng " đến cái giờ phút hạnh
phúc "hạnh phúc nhất: mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu” để cho thiên hạ phải trầm trồ::" một cái đám ma như thế một cái gậy như thế”, rồi ngạc nhiên chỉ trỏ: úi giời, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa.,.". Con trai đã "báo hiếu" cha như vậy! Đó là một nét biếm họa thần tình. Tâm hồn sa đọa, đạo lí suy đồi đến cùng cực, từ cha đến con.
Hai đứa cháu nội của cụ Tổ xuất hiện giữa đám tang với bao nét kệch cỡm lố lăng, Văn Minh đi Tây du học 6-7 năm mà chẳng có môt "mảnh bằng nào cả" về nước hắn mở hiệu may để cổ vũ cho cái trò "Âu hóa" nhằm "phô ra những bộ phận kín đáo của phái đẹp". Ông nội chết, đứa cháu quý hóa này nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài, thích thú ra mặt vì "cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuvết viển vông nữa". Cậu Tú Tân thì mở cờ trong bụng, được dịp trổ tài bấm lách tách "mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến". Lúc đưa tang, cậu lăng xăng chạy lên chạy xuống, cậu dàn cảnh, cậu đạo diễn lúc hạ huyệt bắt bẻ từng người cách "chống gậy", "gục đầu", "cong lưng”, "lau mắt", như thế này, thế nọ để cậu bấm máy. Y "luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng" như một tên hề!
Vũ Trọng Phụng đã tả đám ma cụ Tổ bằng nhiều nét hoạt kê, châm biếm sâu cay cái rởm đời của bọn thượng lưu tha hóa. Một đám ma to tát "một đám ma gương mẫu" nhưng chẳng qua là một đám rước xách. Có kiệu bát cống lợn quay đi lọng. Có lốc bốc xoẻng và bu dích. Có nhiều vòng hoa, 300 câu đối, vài ba trăm người đi đưa. Đúng là một đám ma tạp pí-lù "theo cái lối Ta Tàu, Tây”. Bởi thế nên bầy con cháu thì hạnh phúc, còn "người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật cái đầu…". Lấy cái phi lí để vạch trần cái lố lăng, đồi bại là một nét vẽ cực kì sắc sảo, độc đáo trong nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng.
"Có bao đám quan khách" quý phái và “ sang trọng" đến đưa ma cụ cố Tổ. Phụ nữ chiếm một nửa, là '"giai thanh gái lịch", là bạn của Tuyết và bà Phó Đoan… Họ đến đưa ma là để "cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau…". Bọn mày râu, bạn của cụ cố Hồng đến đưa tang để khoe mẽ "ngực đầy những huy chương" của "nước mẹ" hay của bọn bù nhìn ban phát cho. Khi tả bộ râu của đám quan khách này, tác giả "Số đỏ" đã sáng tạo nên những chi tiết, những ngôn từ và giọng điệu trào phúng chua cay. Một lối nói nhạo, chế giễu thần tình. Trên mép và cằm các ông trưởng giả khoe tài khoe đức ấy "đếm đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung hoặc lún phún hay rầm rạp, loăn quăn,…". Người đọc phải ôm bụng mà cười khi đọc đoạn văn tả những bộ râu ấy. Đằng sau bộ râu kia là những mặt người tha hóa vô luân!
Vũ Trọng Phụng đã dùng thủ pháp "phục bút" khi tả sự xuất hiện của Xuân Tóc Đỏ. Tuyết mặc bộ “ ngây thơ” để đi mời trầu và thuốc lá quan khách với "vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám". Cô vô cùng sung sướng khi thấy "anh Xuân" đã đến bèn "liếc mắt đưa tình … để tỏ ý cảm ơn” Xuân Tóc Đỏ đã đến đưa đám một cách sang trọng cực kì, với 6 chiếc xe, với sư chùa Bà Banh, với sư cụ Tăng Phú, hai vòng hoa lớn… đã làm cho cụ bà sung sướng kêu lên: "Ấy, gía mà không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi!". Xuân chẳng giận lại còn đến phúng viếng rất to, làm cho đám ma cụ cố Tổ trở nên "danh giá nhất tất cả”.
Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, ông Phán "mọc sừng" vốn đã nhờ "đôi sừng hươu" ấy mà được bố vợ chia cho thêm vài nghìn đồng bạc, trong lúc khóc thật to: "Hứt!… Hứt!.. Hứtỉ…" để báo hiếu vẫn không quên giữ chứ "tín" với ân nhân. Ông ta đã "dúi vào tay" Xuân “ một cái giấy bạc 5 đồng gấp tư". Cuộc mua bán hay trả nghĩa diễn ra song phẳng và kín đáo quá! Xuân và ông Phán "mọc sừng" như một cặp bài trùng, hai diễn viên hài siêu hạng. Chính cảnh này là tột đỉnh của sự trào lộng trong màn hài kịch "đám ma gương mẫu". Chính ở cảnh này, sự bịp bợm, giả dối và thô bỉ của bọn "thượng lưu", đã lên tới độ vô liêm sỉ quá ghê tởm. Những con người ‘ chó đểu" trong cái xã hội “chó đểu" là như thế đó!
Tóm lại. qua chương "Hạnh phúc của một tang gia", Vũ Trọng Phụng thể hiện xuất sắc tài kể chuyện và nghệ thuật hoạt kê trong miêu tả. Cái tài của tác giả "Số đỏ" là đã phóng đại những bức chân dung biếm họa, những cảnh đời lố lăng theo thủ pháp của nghệ thuật trào phúng làm cho người ta cười mà thấy được bao sự thật chứa đựng ở trong đó. Chuyện kể đầy kịch tính với bao sự phi lí đến ghê người đã lật tung cái mặt nạ của bọn đạo đức giả !
Tiếng cười trong "Số đỏ" là tiếng cười châm biếm có giá trị tố cáo và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đám ma cụ cố Tổ đích thực là một màn hài kịch, diễn viên là bầy con cháu và lũ quan khách, đã phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại của xã hội nhuốm màu sắc "Âu hóa” kệch cỡm.
Vũ Hường tổng hợp
Từ khóa tìm kiếm
- Phân tích bức chân dung biếm hoạ trong hạnh phúc của một tang gia ngữ văn lớp 11