29/01/2018, 21:20

Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ Chí Minh – Văn mẫu lớp 9

Nội dung bài viết1 Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ Chí Minh – Bài số 1 2 Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ Chí Minh – Bài số 2 3 Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ Chí Minh – Bài số 3 4 Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ Chí Minh – Bài số 4 Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ ...

Nội dung bài viết1 Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ Chí Minh – Bài số 1 2 Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ Chí Minh – Bài số 2 3 Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ Chí Minh – Bài số 3 4 Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ Chí Minh – Bài số 4 Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ Chí Minh – Bài số 1 Hồ Chí Minh không những là nhà thơ yêu nước, nhà cách mạng vĩ đại mà còn là danh nhân văn hóa thế giới. Những biểu hiện trong vẻ đẹp văn hóa của Người đã được Lê Anh Trà khái quát khá đầy đủ trong bài Phong cách Hồ Chí Minh, đó là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và nhân loại, vĩ đại và bình dị. Bài viết góp phần khẳng định tầm vóc văn hóa lớn lao của Người và càng làm cho ta tự hào, kính yêu, tự nguyện học tập theo gương của Người. Bài Phong cách Hồ Chí Minh có khuôn khổ ngắn, gọn, nhưng Lê Anh Trà đã giới thiệu đầy đủ những nét tiêu biểu của một nhà văn hóa lớn. Trước hết, Lê Anh Trà khẳng định Hồ Chí Minh có vốn tri thức văn hóa sâu rộng. Người đã đi qua nhiều nơi, tiếp xúc với văn hóa nhiều nước phương Đông và phương Tây. Trên nhừng con tàu vượt trùng dương, Người đã “ghé lại nhiễu hải cảng” đã thăm các nước châu Phi, châu Á, châu Mĩ. Người đã sống dài ngày ở Anh, ở Pháp. Đến đâu, Người cũng học hỏi, tìm hiểu văn hóa, nghệ thuật đến một mức khá uyên thâm. Người cũng chịu ảnh hưởng của tất cả các nền văn hóa, đã tiếp thu mọi cái đẹp, cái hay, đồng thời việc phê phán những tiêu cực. Người có vốn tri thức sâu rộng đó là vì Người nói thông viết thạo nhiều thứ tiếng; Pháp, Anh, Hoa, Nga., và Người đã làm nhiều nghề khác nhau. Đây cũng là dịp Người có điều kiện học hỏi và biết được thực tế về nền văn hóa các nước. “Tất cả những ảnh hướng quốc tế đó đã nhào nặn với các gốc văn hóa dân tộc không gì lay chuyển được ở Người”. Chính điều này đã làm nên “một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại” ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đoạn văn tạo nên sức thuyết phục lớn là nhờ ở chỗ, tác giả đan xen giữa những lời kế là lời bình luận trong một phong cách lập luận chặt chẽ và cách nêu luận cứ xác thực, tiêu biểu. Cũng với biện pháp nghệ thuật đó, ở đoạn văn tiếp theo, Lê Anh Trà nói về lối sống giản dị mà thanh cao của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và có lẽ cả thế giới, có một vị Chủ tịch nước lấy chiếc nhà sàn nho bằng gỗ bên cạnh chiếc ao làm “cung điện” của mình; quả như một câu chuyện thần thoại, như câu chuyện về một vị tiên, một con ngưò’i siêu phàm nào đó trong cổ tích. Để giải thích, chứng minh cho lối sống giản dị đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lê Anh Trà sử dụng một hệ thống luận cứ tiêu biểu xác thực. Đó là nơi ở, nơi làm việc đơn sơ với chiếc nhà sàn cũng chi vẻn vẹn có “vài phòng tiếp khách, họp Bộ Chính trị, làm việc và ngủ”. Trang phục của Người hết sức giản dị, với bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp “thô sơ như các chiến sĩ Trường Sơn đã dược một tác giả phương Tây ca ngợi như vật thần kì”. Việc ăn uống của Người cũng “rất đạm bạc” như cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa. Đó là những món ăn dân tộc không chút cầu kì. Cách sống giản dị, đạm bạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lại vô cùng thanh cao, sang trọng. Đây không phải là lối sống khắc khổ của những con người tự vui trong cảnh nghèo khó, lại càng không phải là “cách tự thần thánh hóa, tự làm cho khác đời, hơn đời”, mà là một cách sống có văn hóa đã trở thành một quan niệm thẩm mĩ: cái đẹp là sự giản dị, tự nhiên. Chính vì lẽ này mà Lê Anh Trà đã có nhận định: “Tôi dám chắc không có một vị lanh tụ nào, một vị tổng thống hay một vị vua nào ngày trước lại sống đến mức giản dị và tiết chê như vậy”. Lê Anh Trà rất có lí khi nghĩ về quan niệm sống của Chu tịch Hồ Chí Minh. Đến đây, Lê Anh Trà chợt liên tưởng đến các vị hiền triết ngày xưa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm: Nguyễn Trãi giản dị mà thanh cao trong cuộc sống: Ao cạn, vớt bèo cấy muống Đìa thanh, phát cỏ ươm sen. (Thuật hứng) hoặc: Cơm ăn dầu có dưa muối Áo mặc nài chi gấm thêu. (Ngôn chí – Bài thứ 3) và trong hình ảnh: Hài cỏ, đạp chân đi đủng đỉnh, Áo bô, quen cật vận xênh xang. (Tức sự – Bài thứ 4) Tuyết Giăng Phu tử – Nguyễn Bỉnh Khiêm, bất mãn với thời cuộc, lui về ở ẩn với những thú quê thuần đức: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Là một bậc danh nho, là hiền nhân quân tử, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi có một quan niệm thẩm mĩ về cuộc sống có khác gì Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dù là sống ở mỗi thời đại khác nhau, nhưng vẻ đẹp tâm hồn trong phong cách lớn có sự cộng hưởng sâu xa. Điều đó đã làm cho Lê Anh Trà bất giác phát hiện, liên tưởng từ những cuộc sống thanh cao, một cách di dưỡng tinh thần. Và chỉ có quan niệm về cuộc sống như vậy mới có khả năng đem lại hạnh phúc thanh cao cho tâm hồn và thế xác. Bài viết có lập luận chặt chẽ, đan xen giữa lời bình luận một cách tự nhiên, linh hoạt, chọn lọc được những chi tiết tiêu biêu… Lê Anh Trà góp phần vào tiếng nói ngợi ca về lãnh tụ Hồ Chí Minh kính yêu – Một tấm gương sáng chói, phản chiếu vào mọi ngõ ngách tâm hồn dân tộc và nhân loại, ở Bác, ta tìm thấy một bài học lớn ở đời. Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ Chí Minh – Bài số 2 Kể chuyện Hồ Chí Minh, đọc thơ văn của Người và thơ văn viết về Người ở đất nước ta, đối với mỗi người Việt Nam, dường như đã trở thành một nếp sống, một thói quen văn hoá thú vị đáng tự hào. Ở sách Ngữ văn 7, chúng ta đã được học bài Đức tính giản dị của Bác Hồ của Thủ tướng Phạm Văn Đồng – một chiến sĩ cách mạng, một nhà văn hoá lớn, từng được sống làm việc nhiều năm bên Người. Giờ đây, mở đầu sách Ngữ văn 9, chúng ta lại được học một văn bản nữa của Lê Anh Trà – một nhà khoa học thuộc thế hệ con cháu Hồ Chí Minh. Lần theo từ ngữ, câu văn, bắt đầu từ nhan đề đến dòng cuối cùng của văn bản, chúng ta lại được cùng nhau khám phá "Chuyện Bác Hồ", thú vị và bổ ích biết bao. Hình tượng nổi bật hiện lên từ bài Phong cách Hồ Chí Minh phải chăng là một nhân cách Việt Nam hài hoà vẻ đẹp của nền vãn hoá Việt Nam mang truyền thống lâu đời với nển văn hoá thế giới hiện đại? Phong cách Hồ Chí Minh được thể hiện trước hết là ở vốn tri thức văn hoá nhân loại mà Người đã tích luỹ được. Ông Lê Anh Trà kể: "Trên những con tàu vượt trùng dương, Người đã ghé lại nhiều hải cảng, đã thăm các nước châu Phi, châu Á, châu Mĩ,… đã từng sống dài ngày ở Pháp, ở Anh…". Hồ Chí Minh đã từng đi khắp năm châu bốn biển, lao động kiếm sống và học tập khắp mọi nơi trên trái đất, tiếp xúc với đủ mọi dân tộc, mọi chủng tộc của các màu da vàng, đen, trắng, đỏ… nhờ đó, "Người nói và viết thạo nhiều thứ tiếng ngoại quốc: Pháp, Anh, Hoa, Nga,…". Đi nhiều, tiếp xúc nhiều, biết nhiều ngoại ngữ, đó là điều kiện cần nhưng chưa đủ để mở mang hiểu biết, thu lượm tri thức. Dường như Hồ Chí Minh đã thấu hiểu quy luật ấy nên "Đến đâu Người cũng học hỏi, tìm hiểu vãn hoá, nghệ thuật đến một mức khá uyên thâm". Học hỏi, tìm hiểu để tiếp thu những cái hay, cái đẹp, đồng thời Người biết "phê phán những tiêu cực". Cách đi, cách sống và cách học tập như vậy thật đúng đắn, mang tính khoa học cao. Người đã kể một kỉ niệm trong thời kì tìm hiểu, học tập về lí tưởng cách mạng của mình rằng: "Tôi tham gia Đảng xã hội Pháp… Còn như Đảng là gì…, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu… Tôi dự rất nhiều các cuộc họp một tuần hai hoặc ba lần. Tôi chăm chú nghe những người phát biểu ý kiến. Lúc đầu, tôi không hiểu được hết. Tại sao người ta bàn cãi hăng như vậy?… Điều mà tôi muốn biết hơn cả là… vậy thì cái quốc tế nào bênh vực nhân dân các nước thuộc địa? Trong một cuộc họp, tôi đã nêu câu hỏi ấy lên… Và một đồng chí đã đưa cho tôi đọc Luận cương của Lê-nin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa… Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động,… Trước kia, trong các cuộc họp chi bộ tôi chỉ ngồi nghe người ta nói; tôi cảm thấy người nào cũng có lí cả, tôi không phân biệt được ai đúng và ai sai. Nhưng từ đó tôi cũng xông vào những cuộc tranh luận. Tôi tham gia thảo luận sôi nổi… Không chỉ tham gia các cuộc họp của chi bộ tôi mà thôi, tôi còn đến những chi bộ khác để bênh vực lập trường "của tôi"… Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lí luận Mác – Lê-nin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ…". Tuy câu chuyện chỉ là một trong muôn vàn kỉ niệm của cuộc đời cách mạng Hồ Chí Minh nhưng vẫn đủ cho chúng ta thấu hiểu một phong cách sống và học tập năng động, hết mình vì cuộc đấu tranh giải phóng đất nước, dân tộc mình và tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Nhờ đi nhiều nơi, hăng hái tích cực, thường xuyên tìm tòi, học hỏi, tranh luận, sống sôi nổi, hết mình, vừa nghiên cứu lí luận, vừa làm công tác thực tế, Người đã tích luỹ được một vốn tri thức sâu rộng. Sau vài ba sự việc được kể tóm tắt, nhằm gợi cho người đọc liên tưởng và suy ngẫm về tầm hiểu biết và cách tích luỹ vốn tri thức, tác giả Lê Anh Trà bình luận: "điều kì lạ là tất cả những ảnh hưởng quốc tế đó đã nhào nặn với cái gốc văn hoá dân tộc không gì lay chuyển được ở Người, để trở thành một nhân cách rất yiệt Nam, một lối sống rất bình dị… đồng thời rất mới, rất hiện đại". Đi nhiều nơi, học hỏi, tiếp thu mọi cái đẹp, cái hay của nhiều nền văn hoá thế giới không phải chỉ để cho riêng mình mà đấu tranh cho độc lập, tự do của Tổ quốc mình, dân tộc mình, đó là cách sống của Hồ Chí Minh. Chính vì biết cống hiến tất cả cho một lí tưởng cao đẹp như thế, nên Hồ Chí Minh đã trở thành một người Việt Nam đẹp nhất, tiêu biểu nhất của thời đại, một nhân cách Việt Nam mang truyền thống phương Đông, đồng thời rất mới, rất hiện đại. Tiếp đến đoạn văn thứ hai, tác giả Lê Anh Trà kể về cuộc sống hằng ngày của Hồ Chí Minh. Những câu chuyện cụ thể, những từ ngữ, câu văn giàu hình ảnh, điểm vài lời nhận xét, so sánh ý nhị dẫn dắt người đọc vào thâm nơi ăn, chốn ở của Người như vào một bảo tàng vừa bình dị vừa thiêng liêng. Này đây là chiếc nhà sàn bằng gỗ, bên cạnh chiếc ao đã trở thành "cung điện" của vị Chủ tịch nước. Chiếc nhà sàn chí vẻn vẹn vài phòng với những đổ đạc đơn sơ để ăn ngủ, tiếp khách, vừa để họp Bộ Chính trị bàn về vấn đề sinh tử của triệu triệu con người. Căn nhà sàn ấy tuy giản dị đơn sơ, nhưng luôn "lộng gió và ánh sáng", bởi vì chủ nhân của nó là "Một tâm hồn lộng gió thời đại". Căn nhà Người ở chẳng kém gì "cung điện" trong truyện thần thoại hay trong cổ tích! Tiếp đó là những trang phục, những vật dụng hằng ngày của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ như của các chiến sĩ Trường Sơn…". Ngỡ như tất cả những áo quần, trang phục tinh tuý nhất, tiêu biểu nhất ở mọi miền của đất nước, của dân tộc trong mọi công việc, lao động, chiến đấu đã được gạn lọc, lựa chọn về đây hợp thành trang phục của Người. Bộ trang phục ấy thật giản dị mà thanh cao thần kì biết mấy. Những bữa ăn, món ăn hằng ngày của Người: "cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa". Một vị Chủ tịch nước nhưng chỉ ăn, chỉ "hưởng thụ" như thế. Cá, rau, dưa, cà, cháo hoa… đó là những sản vật vừa thân quen, vừa tinh tuý của đất Việt tự ngàn năm xưa chắt lọc lại. "Anh đi anh nhớ quê nhà – Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương". Bài ca dao ấy luôn nhắc chúng ta nhớ những vật phẩm, thức ăn giản dị mà thân thương, đậm hương sắc quê nhà. Người thường dùng những món ăn đạm bạc như thế. Cách ăn uống đơn sơ, đạm bạc ấy cũng là một cách sống khoa học, tạo cho con người một thể chất lành mạnh, khoẻ khoắn. Chính Người, trong kháng chiến chống thực dân Pháp từng viết bài thơ nói về tuổi thọ, cách sống đẹp đẽ ấy như sau: Chưa năm mươi đã kêu già Sáu ba, mình nghĩ vẫn là đương trai Sống quen thanh đạm nhẹ người Việc làm tháng rộng, ngày dài ung dung. Tuy tác giả Lê Anh Trà kể ngắn gọn vể cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của Hồ Chí Minh nhưng chúng ta ngẫm ra được rất nhiều điều bổ ích, lớn lao. Chúng ta dễ dàng đồng tình với những ý kiến bình luận của tác giả, để thấm thìa sâu sắc hơn nữa về cách sống, phong cách Hồ Chí Minh. "Tôi dám chắc không có một vị lãnh tụ, một vị tổng thống, hay một vị vua hiền nào ngày trước lại sống đến mức giản dị và tiết chế như vậy. Bất giác ta nghĩ đến các vị hiền triết ngày xưa…". Đấy là cách so sánh, đối chiếu, liên tưởng chính xác, giúp cho bạn đọc mở rộng, khơi sâu trí tuộ và tâm hổn. Từ cách sống của Hồ Chí Minh, chúng ta nghĩ tới nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới, những nguyên thủ quốc gia, những vị tổng thống lừng danh về sự giàu có, sang trọng. Chúng ta nhớ lại cuộc đời các hiền triết phương Đông từng sống thanh cao giản dị. Và, nhờ câu chữ trong văn của Lê Anh Trà, chúng ta như thấy Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, hai danh nhân văn hoá của dân tộc hiện về. Thơ của của các cụ cũng theo đó hiện về: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao… (Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm) Như vậy, nếp sống thanh đạm của Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở chúng ta suy ngẫm vể tính hiện đại, tầm cỡ thế giới và tính truyền thống, màu sắc dân tộc. Nói cách khác, phong cách Hồ Chí Minh vừa kế thừa truyền thống dân tộc, vừa nâng cao, hoà hợp và vượt lên trên mọi ham muốn tầm thường của con người thời đại. Cách sống như vậy không phải là lập dị, khác thường mà là sự tích tụ những gì tinh tuý nhất của nhiều phương trời, nhiều thời đại, nhiều phong cách. Tác giả Lê Anh Trà khẳng định: "đây là lối sống thanh cao, một cách di dưỡng tinh thần, một quan niệm thẩm mĩ về cuộc sống, có khả năng đem lại hạnh phúc thanh cao cho tâm hồn và thể xác". Rõ ràng, cách sống của Hồ Chí Minh đã nêu một kinh nghiệm – như quy luật muôn đời – "Sống quen thanh đạm nhẹ người", một cách sống đẹp, giản dị mà cao thượng vô cùng. Trong bài Bác ơi!, nhà thơ Tố Hữu viết: Bác sống như trời đất của ta. Đọc bài Phong cách Hồ Chí Minh của nhà khoa học Lê Anh Trà, chúng ta hiểu rõ hơn, hiểu sâu thêm những đặc điểm tạo nên phong cách, cách sống của Người: Đó là sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, vĩ đại mà bình dị. Càng hiểu Hồ Chí Minh, chúng ta càng thêm tự hào, kính yêu Người, tự nguyện học tập theo gương Hồ Chí Minh. Và chúng ta tin rằng tấm gương Hồ Chí Minh – tấm gương nhân cách Việt Nam – sẽ muôn đời toả sáng. Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ Chí Minh – Bài số 3 Phong cách Hồ Chí Minh rút trong bài Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại gắn với cái giản dị của Lê Anh Trà in trong cuốn sách Hồ Chí Minh và văn hóa Việt Nam – năm 1990. Luận điểm thứ nhất mà người viết nêu lên là tầm sâu rộng vốn tri thức văn hóa của Hồ Chí Minh. Do đâu mà có vốn tri thức văn hóa ấy? Hồ Chí Minh có một cuộc sống phong phú, sôi nổi. Người "đã tiếp xúc" với văn hóa nhiều nước ở phương Đông và phương Tây. Người "đã ghé lại" nhiều hải cảng, "đã thăm" các nước châu Phi, châu Á, châu Mĩ. Người "đã sống dài ngày" ở Anh, ở Pháp. Lúc làm bồi, lúc cuốc tuyết, lúc làm nghề rửa ảnh… Chế Lan Viên cũng đã có lần viết: Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể, Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mĩ, châu Phi Những đất tự do, những trời nô lệ Những con đường cách mạng đang tìm đi. (Người đi tìm hình của nước) Người "nói và viết thạo" nhiều ngoại ngữ như Pháp, Anh, Hoa, Nga… Không phải là lắm tiền đi du lịch… mà trái lại cuộc đời Người "đầy truân chuyên", Người "đã làm nhiều nghề", và đặc biệt là "đến đâu Người cũng học hỏi, tìm hiểu văn hóa, nghệ thuật đến một mức khá uyên thâm". Hồ Chí Minh "đã tiếp thu" mọi cái hay cái đẹp của các nền văn hóa, và "đã nhào nặn" với cái gốc văn hóa dân tộc đã thấm sâu vào tâm hồn mình, máu thịt mình, nên đã trở thành "một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại". Cách lập luận chặt chẽ, cách nêu luận cứ xác đáng, lối diễn đạt tinh tế của Lê Anh Trà đã tạo nên sức thuyết phục lớn. Luận điểm thứ hai mà tác giả đưa ra là lối sống rất bình dị, rất phương Đông, rất Việt Nam của Hồ Chí Minh. Lê Anh Trà đã sử dụng 3 luận cứ (nơi ở, trang phục, cách ăn mặc) để giải thích và chứng minh cho luận điểm này. Cái "cung điện" của vị Chủ tịch nước là một chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh cái ao. Chỉ vẻn vẹn có vài phòng để "tiếp khách, họp Bộ Chính trị, làm việc và ngủ, đồ đạc "rất mộc mạc, đơn sơ". Trang phục của Người "hết sức giản dị" với bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp "thô sơ như của các chiến sĩ Trường Sơn". Cách ăn uống của Hồ Chí Minh "rất đạm bạc": cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa…, đó là "những món ăn dân tộc không chút cầu kì". Những luận cứ mà người viết nêu ra không có gì mới. Nhiều người đã nói, đã viết, nhiều hồi kí đã kể lại mà ta đã biết. Nhưng Lê Anh Trà đã viết một cách giản dị, thân mật, trân trọng và ngợi ca. Phần còn lại, tác giả đã bình luận phong cách Hồ Chí Minh. So sánh với cuộc sống của một vị lãnh tụ, một vị tổng thống, một vị vua hiền…, rồi ông ngạc nhiên khẳng định Hồ Chí Minh đã "sống đến mức giản dị và tiết chế như vậy". Lê Anh Trà "bất giác nghĩ đến", liên tưởng đến Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm, trích dẫn hai câu thơ của Trạng Trình: "Thu ăn măng trúc, đông ăn giá – Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao" để đi tới ca ngợi nếp sống giản dị và thanh đạm của Hồ Chí Minh, của các vị danh nho không phải là "tự thần thánh hóa, tự làm cho khác đời", mà là "lối sống thanh cao, một cách di dưỡng tinh thần, một quan niệm thẩm mĩ về cuộc sống, có khả năng đem lại hạnh phúc, thanh cao cho tâm hồn và thể xác". Tóm lại, Lê Anh Trà đã lập luận một cách chặt chẽ, nêu lên những luận cứ xác thực, chọn lọc, trình bày khúc chiết với tất cả tấm lòng ngưỡng mộ, ngợi ca "Nhà văn hóa lớn, nhà đạo đức lân, nhà cách mạng lớn, nhà chính trị lớn đã quyện chặt với nhau trong con người Hồ Chí Minh, một con người rất giản dị, một con người Việt Nam gần gũi với mọi người". Đọc bài viết của Lê Anh Trà, chúng ta học tập được bao điều tốt đẹp về phong cách Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ Chí Minh – Bài số 4 Văn bản Phong cách Hồ Chí Minh được trích trong bài Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại gắn với cái giản dị của Lê Anh Trà, in trong cuốn Hồ Chí Minh và văn hóa Việt Nam (Viện Văn hóa xuất bản, Hà Nội, 1990). Bài văn khẳng định nét nổi bật trong phong cách Hồ Chí Minh, đó chính là vẻ đẹp văn hóa với sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống văn hóa dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại, giữa sự vĩ đại và sự giản dị. Phần đầu của văn bản nói về vốn tri thức văn hóa nhân loại vô cùng sâu rộng của Hồ Chí Minh: “Trong cuộc đời đầy truân chuyên của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với văn hóa nhiều nước, nhiều vùng trên thế giới, cả ở phương Đông và phương Tây. Trên những con tàu vượt trùng dương, Người đã ghé lại nhiều hải cảng, đã thăm các nước châu Phi, châu Á, châu Mỹ. Người đã từng sống dài ngày ở Pháp, ở Anh. Người nói và viết thạo nhiều thứ tiếng ngoại quốc: Pháp, Anh, Hoa, Nga., và Người đã làm nhiều nghề. Có thể nói ít có vị lãnh tụ nào lại am hiểu nhiều về các dân tộc và nhân dân thế giới, văn hóa thế giới sâu sắc như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến đâu Người cũng học hỏi, tìm hiểu văn hóa, nghệ thuật đến một mức khá uyên thâm”. Cha ông ngày xưa nói “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Bác đi nhiều nơi nên học hỏi được nhiều. Nhưng vấn đề là học bằng cách nào? Để có được vốn văn hóa sâu rộng ấy, trước hết, Bác phải nắm vững phương tiện giao tiếp là ngôn ngữ: “Người nói và viết thạo nhiều thứ tiếng ngoại quốc: Pháp, Anh, Hoa, Nga..”; nắm vững ngôn ngữ để học qua sách vở, qua giao tiếp. Bên cạnh đó, còn phải học hỏi qua lao động, qua công việc: “Người đã làm nhiều nghề”. Bằng những cách ấy, Bác đã có được một vốn tri thức đạt đến mức “sâu sắc”, “uyên thâm”. Điều đáng nói ở đây là Người đã tiếp thu một cách có chọn lọc tinh hoa văn hóa nước ngoài: “Người đã chịu ảnh hưởng tất cả các nền văn hóa, đã tiếp thu mọi cái đẹp và cái hay đồng thời với việc phê phán những tiêu cực của chủ nghĩa tư bản”. Bác tiếp thu trên nền tảng sâu vững của văn hóa dân tộc để tạo nên những giá trị độc đáo: “… Điều kì lạ là tất cả những ảnh hưởng quốc tế đó đã nhào nặn với cái gốc văn hóa dân tộc không gì lay chuyên được ở Người, để trở thành một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại”. Phần thứ hai của văn bản nói về lối sống giản dị mà thanh cao của Hồ Chí Minh. Tác giả đã giới thiệu lối sống ấy một cách cụ thể bằng những chi tiết tiêu biểu, từ ngôi nhà cho đến trang phục và cách ăn uống. Mở đầu là một lời bình luận đầy ấn tượng: “Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và có lẽ cả thế giới, có một vị chủ tịch nước lấy chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh chiếc ao làm “cung điện” của mình. Nghệ thuật đối lập đã làm nổi bật vẻ đẹp phong cách Hồ Chí Minh: vĩ nhân mà hết sức giản dị, gần gũi. Tác giả khiến người đọc hình dung trong sự đối chiếu các hình ảnh: cung điện của những ông vua ngày xưa, những tòa nhà nguy nga tráng lệ của các vị nguyên thủ quốc gia, và ngôi nhà sàn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. “Chiếc nhà sàn nhỏ băng gỗ bên cạnh chiếc ao”, có ai ngờ hình ảnh đơn sơ mang đậm hồn nông thôn như thế, “chỉ vẻn vẹn có vài phòng”, “với những đồ đạc rất mộc mạc đơn sơ” lại là nơi ở, nơi làm việc của một vị Chủ tịch nước. Trong bài Hồ Chứ tịch, hình ảnh của dân tộc, tinh hoa của thời đại, khi nói về đức tính giản dị của Bác Hồ, bác Phạm Văn Đồng cũng nhắc đến ngôi nhà sàn “luôn luôn lộng gió và ánh sáng, phảng phất hương thơm của hoa vườn”. Chủ nhân ngôi nhà sàn đơn sơ ấy “cũng trang phục hết sức giản dị, với bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ như của các chiến sĩ Trường Sơn”. Và “việc ăn uống của Người cũng rất đạm bạc, với những món ăn dân tộc không chút cầu kì, như cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa”. Am hiểu văn hóa nhân loại mà cách sống lại hết sức dân tộc, rất Việt Nam. Khép lại đoạn văn kể về lối sống của Bác cũng là một lời bình luận đầy thuyết phục: “Tôi dám chắc không có một vị lãnh tụ nào, một vị tổng thông hay một vị vua hiền nào ngày trước lại sống giản dị và tiết chế đến mức như vậy”. “Tiết chế” là hạn chế, là giữ không cho vượt qua mức. Tuy nhiên, không nên hiểu “tiết chế” là lối sống khắc khổ theo kiểu tu hành; cũng không nên hiểu là tự hạn chế mình để trở thành khác đời, hơn đời. Sống giản dị, đó không chỉ là một lối sống, thể hiện một quan niệm sống, mà còn gắn với một quan niệm thẩm Mỹ, quan niệm về cái đẹp: cái đẹp là sự giản dị tự nhiên. Cho nên, sống giản dị mà thanh cao chính là ở đó cái đẹp, cái thanh cao nằm ngay trong cái giản dị. Tác giả đối chiếu lối sống của Bác với lối sống của “các vị hiền triết ngày xưa như Nguyễn Trãi ở Côn Sơn hay Nguyễn Bỉnh Khiêm sống ở quê nhà với những thú quê thuần đức”. Bác đã từng tâm sự: Ước nguyện của Bác là sau khi hoàn thành tâm nguyện cứu nước dân, Bác sẽ “làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá trồng rau, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, không dính líu với vòng danh lợi”. Ta chợt nhận ra trong ước nguyện của Bác cái thú điền viên, thú lâm tuyền của những bậc triết nhân hiền giả ngày xưa gặp lúc thời thế nhiễu nhương không thể hành đạo giúp đời, đã từ bỏ công danh, tìm đến cuộc sống ẩn dật nơi núi rừng, bạn cùng hoa cỏ gió trăng, giữ tâm hồn trong sạch. Nguyễn Trãi xưa về lại Côn Sơn để làm bạn với suối chảy rì rầm, với bàn đá rêu phơi, với bóng mát của rừng thông, rừng trúc xanh mát một màu. Nguyễn Bỉnh Khiêm vui thú điền viên với cảnh sống nơi thôn dã “Một mai, một cuốc, một cần câu”, với cảnh thanh bần “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá – Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” để tịnh dường tinh thần. Nhưng có điều, Bác không phải là hiền triết ẩn dật, lánh đời. Lối sống của Bác là một lối sống rất dân tộc, in đậm nét đẹp của truyền thống, nhưng vẫn rất hiện đại. Bằng một lối viết giàu sức thuyết phục, tác giả Lê Anh Trà đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp văn hóa trong phong cách Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và nhân loại, giữa vĩ đại và giản dị. Bài văn có ý nghĩa bồi đắp tình cảm tự hào và kính yêu lãnh tụ. Nguyễn Tuyến tổng hợp Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ Chí Minh – Văn mẫu lớp 9Đánh giá bài viết Từ khóa tìm kiếmphan tich tac pham phong cach ho chi minh Có thể bạn quan tâm?Phân tích tác phẩm Đấu tranh cho một thế giới hòa bình – Văn mẫu lớp 9Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Văn mẫu lớp 9Bàn luận ý kiến sau: “Đúng giờ là một cử chỉ đẹp” – Văn mẫu lớp 9Phân tích tác phẩm Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em – Văn mẫu lớp 9Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – Văn mẫu lớp 9Phân tích tác phẩm Bàn về đọc sách – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về lễ hội đua thuyền – Văn mẫu lớp 9Soạn văn bài: Phong cách Hồ Chí Minh (Lê Anh Trà)

Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ Chí Minh – Bài số 1

Hồ Chí Minh không những là nhà thơ yêu nước, nhà cách mạng vĩ đại mà còn là danh nhân văn hóa thế giới. Những biểu hiện trong vẻ đẹp văn hóa của Người đã được Lê Anh Trà khái quát khá đầy đủ trong bài Phong cách Hồ Chí Minh, đó là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và nhân loại, vĩ đại và bình dị. Bài viết góp phần khẳng định tầm vóc văn hóa lớn lao của Người và càng làm cho ta tự hào, kính yêu, tự nguyện học tập theo gương của Người.

Bài Phong cách Hồ Chí Minh có khuôn khổ ngắn, gọn, nhưng Lê Anh Trà đã giới thiệu đầy đủ những nét tiêu biểu của một nhà văn hóa lớn. Trước hết, Lê Anh Trà khẳng định Hồ Chí Minh có vốn tri thức văn hóa sâu rộng. Người đã đi qua nhiều nơi, tiếp xúc với văn hóa nhiều nước phương Đông và phương Tây. Trên nhừng con tàu vượt trùng dương, Người đã “ghé lại nhiễu hải cảng” đã thăm các nước châu Phi, châu Á, châu Mĩ. Người đã sống dài ngày ở Anh, ở Pháp. Đến đâu, Người cũng học hỏi, tìm hiểu văn hóa, nghệ thuật đến một mức khá uyên thâm. Người cũng chịu ảnh hưởng của tất cả các nền văn hóa, đã tiếp thu mọi cái đẹp, cái hay, đồng thời việc phê phán những tiêu cực. Người có vốn tri thức sâu rộng đó là vì Người nói thông viết thạo nhiều thứ tiếng; Pháp, Anh, Hoa, Nga., và Người đã làm nhiều nghề khác nhau. Đây cũng là dịp Người có điều kiện học hỏi và biết được thực tế về nền văn hóa các nước. “Tất cả những ảnh hướng quốc tế đó đã nhào nặn với các gốc văn hóa dân tộc không gì lay chuyển được ở Người”. Chính điều này đã làm nên “một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại” ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đoạn văn tạo nên sức thuyết phục lớn là nhờ ở chỗ, tác giả đan xen giữa những lời kế là lời bình luận trong một phong cách lập luận chặt chẽ và cách nêu luận cứ xác thực, tiêu biểu.

Cũng với biện pháp nghệ thuật đó, ở đoạn văn tiếp theo, Lê Anh Trà nói về lối sống giản dị mà thanh cao của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và có lẽ cả thế giới, có một vị Chủ tịch nước lấy chiếc nhà sàn nho bằng gỗ bên cạnh chiếc ao làm “cung điện” của mình; quả như một câu chuyện thần thoại, như câu chuyện về một vị tiên, một con ngưò’i siêu phàm nào đó trong cổ tích.

Để giải thích, chứng minh cho lối sống giản dị đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lê Anh Trà sử dụng một hệ thống luận cứ tiêu biểu xác thực. Đó là nơi ở, nơi làm việc đơn sơ với chiếc nhà sàn cũng chi vẻn vẹn có “vài phòng tiếp khách, họp Bộ Chính trị, làm việc và ngủ”. Trang phục của Người hết sức giản dị, với bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp “thô sơ như các chiến sĩ Trường Sơn đã dược một tác giả phương Tây ca ngợi như vật thần kì”. Việc ăn uống của Người cũng “rất đạm bạc” như cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa. Đó là những món ăn dân tộc không chút cầu kì.

Cách sống giản dị, đạm bạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lại vô cùng thanh cao, sang trọng. Đây không phải là lối sống khắc khổ của những con người tự vui trong cảnh nghèo khó, lại càng không phải là “cách tự thần thánh hóa, tự làm cho khác đời, hơn đời”, mà là một cách sống có văn hóa đã trở thành một quan niệm thẩm mĩ: cái đẹp là sự giản dị, tự nhiên. Chính vì lẽ này mà Lê Anh Trà đã có nhận định: “Tôi dám chắc không có một vị lanh tụ nào, một vị tổng thống hay một vị vua nào ngày trước lại sống đến mức giản dị và tiết chê như vậy”. Lê Anh Trà rất có lí khi nghĩ về quan niệm sống của Chu tịch Hồ Chí Minh. Đến đây, Lê Anh Trà chợt liên tưởng đến các vị hiền triết ngày xưa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Nguyễn Trãi giản dị mà thanh cao trong cuộc sống:

Ao cạn, vớt bèo cấy muống

Đìa thanh, phát cỏ ươm sen.

(Thuật hứng)

hoặc:

Cơm ăn dầu có dưa muối

Áo mặc nài chi gấm thêu.

(Ngôn chí – Bài thứ 3)

và trong hình ảnh:

Hài cỏ, đạp chân đi đủng đỉnh,

Áo bô, quen cật vận xênh xang.

(Tức sự – Bài thứ 4)

Tuyết Giăng Phu tử – Nguyễn Bỉnh Khiêm, bất mãn với thời cuộc, lui về ở ẩn với những thú quê thuần đức:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Là một bậc danh nho, là hiền nhân quân tử, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi có một quan niệm thẩm mĩ về cuộc sống có khác gì Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dù là sống ở mỗi thời đại khác nhau, nhưng vẻ đẹp tâm hồn trong phong cách lớn có sự cộng hưởng sâu xa. Điều đó đã làm cho Lê Anh Trà bất giác phát hiện, liên tưởng từ những cuộc sống thanh cao, một cách di dưỡng tinh thần. Và chỉ có quan niệm về cuộc sống như vậy mới có khả năng đem lại hạnh phúc thanh cao cho tâm hồn và thế xác.

Bài viết có lập luận chặt chẽ, đan xen giữa lời bình luận một cách tự nhiên, linh hoạt, chọn lọc được những chi tiết tiêu biêu… Lê Anh Trà góp phần vào tiếng nói ngợi ca về lãnh tụ Hồ Chí Minh kính yêu – Một tấm gương sáng chói, phản chiếu vào mọi ngõ ngách tâm hồn dân tộc và nhân loại, ở Bác, ta tìm thấy một bài học lớn ở đời.

Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ Chí Minh – Bài số 2

Kể chuyện Hồ Chí Minh, đọc thơ văn của Người và thơ văn viết về Người ở đất nước ta, đối với mỗi người Việt Nam, dường như đã trở thành một nếp sống, một thói quen văn hoá thú vị đáng tự hào. Ở sách Ngữ văn 7, chúng ta đã được học bài Đức tính giản dị của Bác Hồ của Thủ tướng Phạm Văn Đồng – một chiến sĩ cách mạng, một nhà văn hoá lớn, từng được sống làm việc nhiều năm bên Người. Giờ đây, mở đầu sách Ngữ văn 9, chúng ta lại được học một văn bản nữa của Lê Anh Trà – một nhà khoa học thuộc thế hệ con cháu Hồ Chí Minh. Lần theo từ ngữ, câu văn, bắt đầu từ nhan đề đến dòng cuối cùng của văn bản, chúng ta lại được cùng nhau khám phá "Chuyện Bác Hồ", thú vị và bổ ích biết bao. Hình tượng nổi bật hiện lên từ bài Phong cách Hồ Chí Minh phải chăng là một nhân cách Việt Nam hài hoà vẻ đẹp của nền vãn hoá Việt Nam mang truyền thống lâu đời với nển văn hoá thế giới hiện đại?

Phong cách Hồ Chí Minh được thể hiện trước hết là ở vốn tri thức văn hoá nhân loại mà Người đã tích luỹ được. Ông Lê Anh Trà kể: "Trên những con tàu vượt trùng dương, Người đã ghé lại nhiều hải cảng, đã thăm các nước châu Phi, châu Á, châu Mĩ,… đã từng sống dài ngày ở Pháp, ở Anh…". Hồ Chí Minh đã từng đi khắp năm châu bốn biển, lao động kiếm sống và học tập khắp mọi nơi trên trái đất, tiếp xúc với đủ mọi dân tộc, mọi chủng tộc của các màu da vàng, đen, trắng, đỏ… nhờ đó, "Người nói và viết thạo nhiều thứ tiếng ngoại quốc: Pháp, Anh, Hoa, Nga,…". Đi nhiều, tiếp xúc nhiều, biết nhiều ngoại ngữ, đó là điều kiện cần nhưng chưa đủ để mở mang hiểu biết, thu lượm tri thức. Dường như Hồ Chí Minh đã thấu hiểu quy luật ấy nên "Đến đâu Người cũng học hỏi, tìm hiểu vãn hoá, nghệ thuật đến một mức khá uyên thâm". Học hỏi, tìm hiểu để tiếp thu những cái hay, cái đẹp, đồng thời Người biết "phê phán những tiêu cực". Cách đi, cách sống và cách học tập như vậy thật đúng đắn, mang tính khoa học cao. Người đã kể một kỉ niệm trong thời kì tìm hiểu, học tập về lí tưởng cách mạng của mình rằng: "Tôi tham gia Đảng xã hội Pháp… Còn như Đảng là gì…, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu… Tôi dự rất nhiều các cuộc họp một tuần hai hoặc ba lần. Tôi chăm chú nghe những người phát biểu ý kiến. Lúc đầu, tôi không hiểu được hết. Tại sao người ta bàn cãi hăng như vậy?… Điều mà tôi muốn biết hơn cả là… vậy thì cái quốc tế nào bênh vực nhân dân các nước thuộc địa? Trong một cuộc họp, tôi đã nêu câu hỏi ấy lên… Và một đồng chí đã đưa cho tôi đọc Luận cương của Lê-nin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa… Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động,… Trước kia, trong các cuộc họp chi bộ tôi chỉ ngồi nghe người ta nói; tôi cảm thấy người nào cũng có lí cả, tôi không phân biệt được ai đúng và ai sai. Nhưng từ đó tôi cũng xông vào những cuộc tranh luận. Tôi tham gia thảo luận sôi nổi… Không chỉ tham gia các cuộc họp của chi bộ tôi mà thôi, tôi còn đến những chi bộ khác để bênh vực lập trường "của tôi"… Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lí luận Mác – Lê-nin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ…". Tuy câu chuyện chỉ là một trong muôn vàn kỉ niệm của cuộc đời cách mạng Hồ Chí Minh nhưng vẫn đủ cho chúng ta thấu hiểu một phong cách sống và học tập năng động, hết mình vì cuộc đấu tranh giải phóng đất nước, dân tộc mình và tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Nhờ đi nhiều nơi, hăng hái tích cực, thường xuyên tìm tòi, học hỏi, tranh luận, sống sôi nổi, hết mình, vừa nghiên cứu lí luận, vừa làm công tác thực tế, Người đã tích luỹ được một vốn tri thức sâu rộng. Sau vài ba sự việc được kể tóm tắt, nhằm gợi cho người đọc liên tưởng và suy ngẫm về tầm hiểu biết và cách tích luỹ vốn tri thức, tác giả Lê Anh Trà bình luận: "điều kì lạ là tất cả những ảnh hưởng quốc tế đó đã nhào nặn với cái gốc văn hoá dân tộc không gì lay chuyển được ở Người, để trở thành một nhân cách rất yiệt Nam, một lối sống rất bình dị… đồng thời rất mới, rất hiện đại". Đi nhiều nơi, học hỏi, tiếp thu mọi cái đẹp, cái hay của nhiều nền văn hoá thế giới không phải chỉ để cho riêng mình mà đấu tranh cho độc lập, tự do của Tổ quốc mình, dân tộc mình, đó là cách sống của Hồ Chí Minh. Chính vì biết cống hiến tất cả cho một lí tưởng cao đẹp như thế, nên Hồ Chí Minh đã trở thành một người Việt Nam đẹp nhất, tiêu biểu nhất của thời đại, một nhân cách Việt Nam mang truyền thống phương Đông, đồng thời rất mới, rất hiện đại.

Tiếp đến đoạn văn thứ hai, tác giả Lê Anh Trà kể về cuộc sống hằng ngày của Hồ Chí Minh. Những câu chuyện cụ thể, những từ ngữ, câu văn giàu hình ảnh, điểm vài lời nhận xét, so sánh ý nhị dẫn dắt người đọc vào thâm nơi ăn, chốn ở của Người như vào một bảo tàng vừa bình dị vừa thiêng liêng. Này đây là chiếc nhà sàn bằng gỗ, bên cạnh chiếc ao đã trở thành "cung điện" của vị Chủ tịch nước. Chiếc nhà sàn chí vẻn vẹn vài phòng với những đổ đạc đơn sơ để ăn ngủ, tiếp khách, vừa để họp Bộ Chính trị bàn về vấn đề sinh tử của triệu triệu con người. Căn nhà sàn ấy tuy giản dị đơn sơ, nhưng luôn "lộng gió và ánh sáng", bởi vì chủ nhân của nó là "Một tâm hồn lộng gió thời đại". Căn nhà Người ở chẳng kém gì "cung điện" trong truyện thần thoại hay trong cổ tích! Tiếp đó là những trang phục, những vật dụng hằng ngày của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ như của các chiến sĩ Trường Sơn…". Ngỡ như tất cả những áo quần, trang phục tinh tuý nhất, tiêu biểu nhất ở mọi miền của đất nước, của dân tộc trong mọi công việc, lao động, chiến đấu đã được gạn lọc, lựa chọn về đây hợp thành trang phục của Người. Bộ trang phục ấy thật giản dị mà thanh cao thần kì biết mấy. Những bữa ăn, món ăn hằng ngày của Người: "cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa". Một vị Chủ tịch nước nhưng chỉ ăn, chỉ "hưởng thụ" như thế. Cá, rau, dưa, cà, cháo hoa… đó là những sản vật vừa thân quen, vừa tinh tuý của đất Việt tự ngàn năm xưa chắt lọc lại. "Anh đi anh nhớ quê nhà – Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương". Bài ca dao ấy luôn nhắc chúng ta nhớ những vật phẩm, thức ăn giản dị mà thân thương, đậm hương sắc quê nhà. Người thường dùng những món ăn đạm bạc như thế. Cách ăn uống đơn sơ, đạm bạc ấy cũng là một cách sống khoa học, tạo cho con người một thể chất lành mạnh, khoẻ khoắn. Chính Người, trong kháng chiến chống thực dân Pháp từng viết bài thơ nói về tuổi thọ, cách sống đẹp đẽ ấy như sau:

Chưa năm mươi đã kêu già

Sáu ba, mình nghĩ vẫn là đương trai

Sống quen thanh đạm nhẹ người

Việc làm tháng rộng, ngày dài ung dung.

Tuy tác giả Lê Anh Trà kể ngắn gọn vể cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của Hồ Chí Minh nhưng chúng ta ngẫm ra được rất nhiều điều bổ ích, lớn lao.

Chúng ta dễ dàng đồng tình với những ý kiến bình luận của tác giả, để thấm thìa sâu sắc hơn nữa về cách sống, phong cách Hồ Chí Minh. "Tôi dám chắc không có một vị lãnh tụ, một vị tổng thống, hay một vị vua hiền nào ngày trước lại sống đến mức giản dị và tiết chế như vậy. Bất giác ta nghĩ đến các vị hiền triết ngày xưa…". Đấy là cách so sánh, đối chiếu, liên tưởng chính xác, giúp cho bạn đọc mở rộng, khơi sâu trí tuộ và tâm hổn. Từ cách sống của Hồ Chí Minh, chúng ta nghĩ tới nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới, những nguyên thủ quốc gia, những vị tổng thống lừng danh về sự giàu có, sang trọng. Chúng ta nhớ lại cuộc đời các hiền triết phương Đông từng sống thanh cao giản dị. Và, nhờ câu chữ trong văn của Lê Anh Trà, chúng ta như thấy Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, hai danh nhân văn hoá của dân tộc hiện về. Thơ của của các cụ cũng theo đó hiện về:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…

(Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Như vậy, nếp sống thanh đạm của Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở chúng ta suy ngẫm vể tính hiện đại, tầm cỡ thế giới và tính truyền thống, màu sắc dân tộc. Nói cách khác, phong cách Hồ Chí Minh vừa kế thừa truyền thống dân tộc, vừa nâng cao, hoà hợp và vượt lên trên mọi ham muốn tầm thường của con người thời đại. Cách sống như vậy không phải là lập dị, khác thường mà là sự tích tụ những gì tinh tuý nhất của nhiều phương trời, nhiều thời đại, nhiều phong cách. Tác giả Lê Anh Trà khẳng định: "đây là lối sống thanh cao, một cách di dưỡng tinh thần, một quan niệm thẩm mĩ về cuộc sống, có khả năng đem lại hạnh phúc thanh cao cho tâm hồn và thể xác". Rõ ràng, cách sống của Hồ Chí Minh đã nêu một kinh nghiệm – như quy luật muôn đời – "Sống quen thanh đạm nhẹ người", một cách sống đẹp, giản dị mà cao thượng vô cùng. Trong bài Bác ơi!, nhà thơ Tố Hữu viết:

Bác sống như trời đất của ta.

Đọc bài Phong cách Hồ Chí Minh của nhà khoa học Lê Anh Trà, chúng ta hiểu rõ hơn, hiểu sâu thêm những đặc điểm tạo nên phong cách, cách sống của Người: Đó là sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, vĩ đại mà bình dị. Càng hiểu Hồ Chí Minh, chúng ta càng thêm tự hào, kính yêu Người, tự nguyện học tập theo gương Hồ Chí Minh. Và chúng ta tin rằng tấm gương Hồ Chí Minh – tấm gương nhân cách Việt Nam – sẽ muôn đời toả sáng.

Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ Chí Minh – Bài số 3

Phong cách Hồ Chí Minh rút trong bài Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại gắn với cái giản dị của Lê Anh Trà in trong cuốn sách Hồ Chí Minh và văn hóa Việt Nam – năm 1990.

Luận điểm thứ nhất mà người viết nêu lên là tầm sâu rộng vốn tri thức văn hóa của Hồ Chí Minh. Do đâu mà có vốn tri thức văn hóa ấy? Hồ Chí Minh có một cuộc sống phong phú, sôi nổi. Người "đã tiếp xúc" với văn hóa nhiều nước ở phương Đông và phương Tây. Người "đã ghé lại" nhiều hải cảng, "đã thăm" các nước châu Phi, châu Á, châu Mĩ. Người "đã sống dài ngày" ở Anh, ở Pháp. Lúc làm bồi, lúc cuốc tuyết, lúc làm nghề rửa ảnh… Chế Lan Viên cũng đã có lần viết:

Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể,

Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mĩ, châu Phi

Những đất tự do, những trời nô lệ

Những con đường cách mạng đang tìm đi.

(Người đi tìm hình của nước)

Người "nói và viết thạo" nhiều ngoại ngữ như Pháp, Anh, Hoa, Nga… Không phải là lắm tiền đi du lịch… mà trái lại cuộc đời Người "đầy truân chuyên", Người "đã làm nhiều nghề", và đặc biệt là "đến đâu Người cũng học hỏi, tìm hiểu văn hóa, nghệ thuật đến một mức khá uyên thâm". Hồ Chí Minh "đã tiếp thu" mọi cái hay cái đẹp của các nền văn hóa, và "đã nhào nặn" với cái gốc văn hóa dân tộc đã thấm sâu vào tâm hồn mình, máu thịt mình, nên đã trở thành "một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại". Cách lập luận chặt chẽ, cách nêu luận cứ xác đáng, lối diễn đạt tinh tế của Lê Anh Trà đã tạo nên sức thuyết phục lớn.

Luận điểm thứ hai mà tác giả đưa ra là lối sống rất bình dị, rất phương Đông, rất Việt Nam của Hồ Chí Minh. Lê Anh Trà đã sử dụng 3 luận cứ (nơi ở, trang phục, cách ăn mặc) để giải thích và chứng minh cho luận điểm này. Cái "cung điện" của vị Chủ tịch nước là một chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh cái ao. Chỉ vẻn vẹn có vài phòng để "tiếp khách, họp Bộ Chính trị, làm việc và ngủ, đồ đạc "rất mộc mạc, đơn sơ". Trang phục của Người "hết sức giản dị" với bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp "thô sơ như của các chiến sĩ Trường Sơn". Cách ăn uống của Hồ Chí Minh "rất đạm bạc": cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa…, đó là "những món ăn dân tộc không chút cầu kì".

Những luận cứ mà người viết nêu ra không có gì mới. Nhiều người đã nói, đã viết, nhiều hồi kí đã kể lại mà ta đã biết. Nhưng Lê Anh Trà đã viết một cách giản dị, thân mật, trân trọng và ngợi ca.

Phần còn lại, tác giả đã bình luận phong cách Hồ Chí Minh. So sánh với cuộc sống của một vị lãnh tụ, một vị tổng thống, một vị vua hiền…, rồi ông ngạc nhiên khẳng định Hồ Chí Minh đã "sống đến mức giản dị và tiết chế như vậy". Lê Anh Trà "bất giác nghĩ đến", liên tưởng đến Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm, trích dẫn hai câu thơ của Trạng Trình: "Thu ăn măng trúc, đông ăn giá – Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao" để đi tới ca ngợi nếp sống giản dị và thanh đạm của Hồ Chí Minh, của các vị danh nho không phải là "tự thần thánh hóa, tự làm cho khác đời", mà là "lối sống thanh cao, một cách di dưỡng tinh thần, một quan niệm thẩm mĩ về cuộc sống, có khả năng đem lại hạnh phúc, thanh cao cho tâm hồn và thể xác".

Tóm lại, Lê Anh Trà đã lập luận một cách chặt chẽ, nêu lên những luận cứ xác thực, chọn lọc, trình bày khúc chiết với tất cả tấm lòng ngưỡng mộ, ngợi ca "Nhà văn hóa lớn, nhà đạo đức lân, nhà cách mạng lớn, nhà chính trị lớn đã quyện chặt với nhau trong con người Hồ Chí Minh, một con người rất giản dị, một con người Việt Nam gần gũi với mọi người". Đọc bài viết của Lê Anh Trà, chúng ta học tập được bao điều tốt đẹp về phong cách Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.

Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ Chí Minh – Bài số 4

Văn bản Phong cách Hồ Chí Minh được trích trong bài Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại gắn với cái giản dị của Lê Anh Trà, in trong cuốn Hồ Chí Minh và văn hóa Việt Nam (Viện Văn hóa xuất bản, Hà Nội, 1990). Bài văn khẳng định nét nổi bật trong phong cách Hồ Chí Minh, đó chính là vẻ đẹp văn hóa với sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống văn hóa dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại, giữa sự vĩ đại và sự giản dị.

Phần đầu của văn bản nói về vốn tri thức văn hóa nhân loại vô cùng sâu rộng của Hồ Chí Minh: “Trong cuộc đời đầy truân chuyên của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với văn hóa nhiều nước, nhiều vùng trên thế giới, cả ở phương Đông và phương Tây. Trên những con tàu vượt trùng dương, Người đã ghé lại nhiều hải cảng, đã thăm các nước châu Phi, châu Á, châu Mỹ. Người đã từng sống dài ngày ở Pháp, ở Anh. Người nói và viết thạo nhiều thứ tiếng ngoại quốc: Pháp, Anh, Hoa, Nga., và Người đã làm nhiều nghề. Có thể nói ít có vị lãnh tụ nào lại am hiểu nhiều về các dân tộc và nhân dân thế giới, văn hóa thế giới sâu sắc như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến đâu Người cũng học hỏi, tìm hiểu văn hóa, nghệ thuật đến một mức khá uyên thâm”.

Cha ông ngày xưa nói “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Bác đi nhiều nơi nên học hỏi được nhiều. Nhưng vấn đề là học bằng cách nào? Để có được vốn văn hóa sâu rộng ấy, trước hết, Bác phải nắm vững phương tiện giao tiếp là ngôn ngữ: “Người nói và viết thạo nhiều thứ tiếng ngoại quốc: Pháp, Anh, Hoa, Nga..”; nắm vững ngôn ngữ để học qua sách vở, qua giao tiếp. Bên cạnh đó, còn phải học hỏi qua lao động, qua công việc: “Người đã làm nhiều nghề”. Bằng những cách ấy, Bác đã có được một vốn tri thức đạt đến mức “sâu sắc”, “uyên thâm”. Điều đáng nói ở đây là Người đã tiếp thu một cách có chọn lọc tinh hoa văn hóa nước ngoài: “Người đã chịu ảnh hưởng tất cả các nền văn hóa, đã tiếp thu mọi cái đẹp và cái hay đồng thời với việc phê phán những tiêu cực của chủ nghĩa tư bản”. Bác tiếp thu trên nền tảng sâu vững của văn hóa dân tộc để tạo nên những giá trị độc đáo: “… Điều kì lạ là tất cả những ảnh hưởng quốc tế đó đã nhào nặn với cái gốc văn hóa dân tộc không gì lay chuyên được ở Người, để trở thành một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại”.

Phần thứ hai của văn bản nói về lối sống giản dị mà thanh cao của Hồ Chí Minh. Tác giả đã giới thiệu lối sống ấy một cách cụ thể bằng những chi tiết tiêu biểu, từ ngôi nhà cho đến trang phục và cách ăn uống. Mở đầu là một lời bình luận đầy ấn tượng: “Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và có lẽ cả thế giới, có một vị chủ tịch nước lấy chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh chiếc ao làm “cung điện” của mình. Nghệ thuật đối lập đã làm nổi bật vẻ đẹp phong cách Hồ Chí Minh: vĩ nhân mà hết sức giản dị, gần gũi. Tác giả khiến người đọc hình dung trong sự đối chiếu các hình ảnh: cung điện của những ông vua ngày xưa, những tòa nhà nguy nga tráng lệ của các vị nguyên thủ quốc gia, và ngôi nhà sàn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. “Chiếc nhà sàn nhỏ băng gỗ bên cạnh chiếc ao”, có ai ngờ hình ảnh đơn sơ mang đậm hồn nông thôn như thế, “chỉ vẻn vẹn có vài phòng”, “với những đồ đạc rất mộc mạc đơn sơ” lại là nơi ở, nơi làm việc của một vị Chủ tịch nước. Trong bài Hồ Chứ tịch, hình ảnh của dân tộc, tinh hoa của thời đại, khi nói về đức tính giản dị của Bác Hồ, bác Phạm Văn Đồng cũng nhắc đến ngôi nhà sàn “luôn luôn lộng gió và ánh sáng, phảng phất hương thơm của hoa vườn”. Chủ nhân ngôi nhà sàn đơn sơ ấy “cũng trang phục hết sức giản dị, với bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ như của các chiến sĩ Trư

0