29/01/2018, 21:20

Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Văn mẫu lớp 9

Nội dung bài viết1 Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài số 1 2 Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài số 2 3 Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài số 3 4 Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài số 4 5 Phân ...

Nội dung bài viết1 Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài số 1 2 Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài số 2 3 Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài số 3 4 Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài số 4 5 Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài số 5 Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài số 1 Chuyện người con gái Nam Xương (Nam Xương nữ tử truyện) là một trong số hai mươi truyện li kì trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Câu chuyện bi thương về một người phụ nữ có thật ngoài đòi là Vũ Thị Thiết đã từng khiến một vị vua anh minh như Lê Thánh Tông, một nhà thơ lớn như Nguyễn Khuyến phải xót thương nhỏ lệ mà đề thơ. Còn Nguyễn Dữ, tiếng là ghi chép lại câu chuyện li kì trong dân gian song kì thực ông đã sáng tạo nên một câu chuyện độc đáo theo lối mượn chuyện xưa để nói chuyện nay. Trên lập trường nhân đạo, nhà văn đã tố cáo xã hội phong kiên tàn bạo, thông cảm với nỗi đau của con người, đề cao phẩm hạnh của người phụ nữ. Đó chính là lí do cơ bản để tác phẩm được xếp hạng vào hàng “thiên cổ kì bút”. Vũ Thị Thiết, theo như lời câu chuyện, là một người “thuỳ mị, nết na. lại có thêm tư dung tốt đẹp”. Chính vì đức hạnh vẹn toàn của nàng mà Trương Sinh nhất quyết cưới nàng làm vợ. Sống bên cạnh một người chồng “không có học” lại hay ghen. Vũ Thị Thiết biết giữ gìn khuôn phép nên vợ chồng êm ấm hòa thuận. Cái hạnh phúc bình dị ấy cứ tưởng sẽ dài lâu nếu không có chuyện đến một ngày kia, Trương Sinh bị bắt lính… Trong khi chồng vắng nhà, Vũ Thị đã thay chồng cáng đáng mọi việc trong gia đình, hiếu thảo với mẹ già, giữ tiết hạnh với Trương Sinh. Cái công ấy, cái phẩm hạnh ấy của nàng đã khiến mẹ chồng, trước khi chết khẳng định: “xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Ấy thế mà có người đã phụ nàng. Người ấy chẳng phải ai xa lạ mà chính là Trương Sinh. Nguyên nhân của cơn ghen này thật đơn giản: Trương Sinh tin vào con mình. Ngày Trương Sinh đi lính. Vũ Thị đã đùa con rằng, cái bóng mình trên vách chính là cha nó. Vì thế, khi được Trương Sinh hỏi, bé Đản ngạc nhiên vì mình có những hai người cha: “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít”. Không điều tra hư thực, lại vốn tính cả ghen do “trời định”, Trương “đinh ninh là vợ hư. mối nghi ngờ nàng ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được”. Những lời phân trần của nàng Thiết, rốt cuộc cũng trở thành vô nghĩa trước sự tàn nhẫn của Trương Sinh. Sau bao ngày đợi chồng, mong ngóng ngày đoàn tụ, thật không ngờ, ngày gặp mặt cũng là ngày nàng bắt đầu rơi vào bi kịch. Và thật oái oăm, bị kịch ấy lại do chính người thân của nàng đưa lại. Lời bênh vực và biện bạch của hàng xóm, những người từng chứng kiến đức hạnh của nàng cũng không lay chuyển được cái định kiến đã bám rất chắc vào Trương Sinh. Làm sao Trương có thể bỏ qua được một khi cứ văng vẳng bên tai lời con trẻ: “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Trong lời cậu bé, ít nhất có ba điểm “đáng ngờ”: hành tung của người đàn ông hết sức bí hiểm, (đêm nào cũng đi, ngồi cũng ngồi), là người lạ hoàn toàn (không bế con người khác). Đang lúc mù quáng vì ghen tuông, Trương “mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi”. Trong xã hội phong kiến, thất tiết là điều ô nhục. Thử hỏi một người nết na, đức hạnh như Vũ Thị làm sao có thể chịu được nỗi ô nhục, oan ức đó. Cái “nương tựa” cuối cùng là gia đình đã hết, nỗi oan lại không biết tỏ cùng ai, Vũ Thị chỉ còn sự lựa chọn duy nhất để chứng minh tiết hạnh của mình: tìm đến cái chết. Nhưng là một nhà văn nhân đạo, tác giả không muốn Vũ Thị chết. Dòng sông giải oan đã được lập nên “xanh” kia đã thấu, không phù hộ nàng ở cõi trần thì phù hộ nàng ở cõi âm (cũng là kiếp sau). Vũ Thị ở lại trong cung của Linh Phi vì nàng “vô tội”. Nhưng ở trong hoàn cảnh sung sướng nàng vẫn không quên được nỗi đau oan ức, không quen được gia đình. Cho hay, đến tận cùng, Vũ Thị vẫn là người hiếu nghĩa thuỷ chung. Vậy thì nguyên nhân gây ra bi kịch của Vũ Nương là từ đâu? Do sự vô tình của con trẻ? Do sự cả ghen của Trương Sinh? cả hai lí do ấy đều đúng và là nguyên nhân trực tiếp đẩy Vũ Thị vào cái chết. Nhưng nếu Trương Sinh không đi lính, nếu đứa trẻ lúc sinh đã có cha nó bên cạnh thì sao? Chắc chắn Vũ Thị sẽ có một gia đình yên ấm, “cuộc sum vầy” vẫn tiếp tục. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm cho gia dinh Trương Sinh tan nát; mẹ già vì nhớ con mà mang bệnh đến chết, vợ phải lo toan thay chồng nuôi mẹ, nuôi con. Chiến tranh cũng làm cho bao người khác chạy loạn, trốn ra bể đến nỗi đắm thuyền “chết đuối cả”. Vũ Thị không chỉ chịu khổ sở trong thời gian chiến tranh mà còn cả khi chiến tranh đã kết thúc, khi Trương Sinh đã trở về. Vậy ra, chính cuộc chiến tranh ấy, chính xã hội phong kiến tàn bạo ấy mới đích thực là nguyên nhân dẫn đến cái chết của nàng. Định kiến lễ giáo phong kiến ăn sâu vào Trương Sinh, khiến chàng không “điều tra”, “xét hỏi” mà ngay lập tức “làm ầm lên cho hả giận”, cho “vừa lòng” các định kiến phi nhân kia. Đúng là dưới chế độ phong kiến, người phụ nữ bao giờ cũng là nạn nhân, là người chịu nhiều bất công oan trái nhất. Chuyện người con gái Nam Xương vì thế, là một bản cáo trạng chế độ phong kiến suy vi, vô nhân đạo. Tuy nhiên, sự hấp dẫn lớn lao của thiên truyện này còn nằm ở tính nghệ thuật của tác phẩm. Tác giả đã xây dựng câu chuyện với một bố cục hết sức chặt chẽ, trong đó mỗi nhân vật có một tính cách riêng. Trương Sinh đa nghi, cả ghen, vô học nên cố chấp và mù quáng. Vũ Nương trong trắng, thủy chung, thảo hiền nhưng không chấp nhận sự buộc tội vô lí và oan ức. Các nhân vật bộc lộ một cách trọn vẹn mình qua sự dẫn dắt tình tiết, biến cố rất khéo của người dẫn chuyện. Chính câu nói của đứa trẻ ngây thơ đã khởi đầu cho bi kịch nổi sóng và cũng đứa trẻ ấy, trong một đêm khuya, giải oan cho mẹ nó. Đây có thể coi là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Dữ vì các truyện truyền kì của Nhật Bản, Trung Hoa, Triều Tiên dường như chưa một ai lấy hình tượng bóng người và lời nói ngây thơ của trẻ để đẩy chuyện đến đỉnh điểm và mở nút câu chuyện đau lòng này. Mặc dù rất ít nhân vật nhưng Chuyện người con gái Nam Xương khá đa nghĩa. Có người cho rằng thiếu phụ Nam Xương có lỗi một phần vì lẽ ra nàng phải đùa khác đi. Có người lại cho rằng lời nói của đứa trẻ có khi do vô tình người ta có thể phá tan một lâu đài hạnh phúc. Tạo ra nhiều cách hiểu, cách tiếp cận, đó là một phương diện tài năng của Nguyễn Dữ. Trong tác phẩm này, ngôn ngữ nhân vật cũng rất đặc sắc. Trong khi ngôn ngữ Trương Sinh là ngôn ngữ gần gũi lời ăn tiếng nói bình thường thì ngôn ngữ Vũ Thị là ngôn ngữ cách điệu, thậm chí cách điệu hơn cả Linh Phi. Điều này cho thấy hình tượng Vũ Nương là hình tượng có tính lí tưởng. Cái chết của nàng là cái chết của một kiệt nữ, trong trắng và thủy chung. Có thể vì điều này mà mặc dù nàng đã có chồng, có con nhưng vẫn được gọi là người con gái Nam Xương đấy chăng? Pha trộn giữa thực và ảo, giữa sự thật cay đắng và sương khói giải oan, tác giả đã đem lại cho tác phẩm một màu sắc biến hóa. Dẫu cho Vũ Thị có trở về, nỗi oan đã được giải nhưng dòng sông ngăn cách vẫn còn đó. Từ mờ ảo, nàng dần biến mất. Nỗi đau, qua cái ảo của tác phẩm có phần nào được bù đắp, song cái bi kịch kia thì mãi còn đó. Nó như là một lời nhắc nhở, một hi vọng mọi người hãy nhớ hạnh phúc bao giờ cũng rất dễ bị phá hoại. Hãy nâng niu lấy hạnh phúc như nâng niu một cái đẹp để cái đẹp ấy được trường cửu. Vượt qua tư cách là một “bản kể” dân gian, Chuyện người con gái Nam Xương là một tác phẩm đặc sắc viết về người phụ nữ với bao nỗi khổ đau của họ. Nhưng trong cái xã hội phong kiến mục ruỗng ấy, họ vẫn hiện lên với vẻ đẹp cả về tư dung và phẩm hạnh. Càng thương cho Vũ Thị bao nhiêu người đọc càng căm giận xã hội phong kiến đã là nguyên nhân gây ra biết bao bi kịch đau lòng. Qua bi kịch Vũ Nương, Nguyễn Dữ cũng chuyển đến cho chúng ta một điều mà ông từng chiêm nghiệm: Hạnh phúc chỉ có được khi hai người biết thông hiểu và tin cậy lẫn nhau. Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài số 2 Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kì hoặc mang tính chất truyền kì, song được tôn vinh ”thiên cổ kì bút” thì đến nay chỉ có một Truyền Kì Mạn Lục của Nguyễn Dữ. Trong tác phẩm ấy đoạn trích Chuyện người con gái Nam Xương được xem như đặc sắc nhất vì đã khắc họa thành công số phận của người phụ nữ dưới chế độ xưa. Truyền Kì Mạn Lục là loại văn chuyên ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền. Trước đó Chuyện người con gái Nam Xương cũng đã được lưu truyền rộng rãi trong chốn dân gian. Hẳn không mấy ai không biết đến hai bài thơ viếng thăm nàng Vũ Thị trong Hồng Đức Quốc Âm thi tập. Hai bài thơ đó chứng tỏ rằng câu chuyện bi thảm về người đàn bà họ Vũ vợ chàng Trương là có thật. Dù truyện đã được dân gian lưu truyền, nhưng không phải Nguyễn Dữ chỉ có làm công việc đơn giản: biên chép lại cho đúng một chuyện kể đã có sẵn từ những năm tháng trước đó mà tác giả còn phải nhào nặn lại câu chuyện, làm cho nó gần gũi với người đọc, mang dấu ấn của thời đại mình. Truyện mở đầu bằng dòng chữ ”Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương …”. Tên tuổi, quê quán của nhân vật chính đã được giới thiệu rõ ràng, không giống như những nhân vật khác: chàng họ Trương, ông họ Phan. Vũ Thị Thiết là người duy nhất trong truyện được nêu đầy đủ họ tên, danh tính để lưu truyền cho hậu thế. Nhưng Vũ Thị Thiết chỉ là một người đàn bà bình thường, thuộc giới nghèo hèn ” vốn con kẻ khó“, dung mạo thì không có gì đặc biệt. Thế nhưng nàng đã là một nhân vật lưu truyền nơi hậu thế. Có lẽ Nguyễn Dữ đã có những nhận thức tiến bộ về xã hội. Những ràng buộc khuôn pháp đã không còn vững chắc trong tâm trí ông. Ông quan tâm đến đời sống của mọi người chứ không còn mải mê tìm cảm hứng văn chương trong đội ngũ những người quý phái hay tuyệt sắc giai nhân nữa. Chính từ quan niệm đó Nguyễn Dữ đã cho ra đời mẫu người phụ nữ lí tưởng, tuy không phải là giai nhân nhưng lại hội tụ những đức tính, phẩm chất tốt đẹp cần có ở người phụ nữ Vũ Thị Thiết: ” tính tình thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Tuy tác giả đã nói rằng hai yếu tố bên trong và bên ngoài của nàng đều vẹn tòan, chẳng khác nào Kiều xưa kia. Thế nhưng càng vào sâu trong tác phẩm ta mới nhận ra rằng chữ dung đã thua chữ tài . Sau mấy lời giới thiệu đầu tiên, thì trong toàn bộ truyện không còn những câu nào miêu tả vẻ đẹp bên ngòai của nàng Vũ Thị nữa. Vũ Nương đã chiếm được cảm tình của đọc giả không phải là do tư dung mà do chính phẩm hạnh của nàng. Phẩm chất ở đây không như cô gái hái dâu Ỷ Lan hay ả đào nương diệt giặc miền Tiên Lữ. Phẩm chất Vũ Nương là tấm lòng của người phụ nữ luôn hy sinh vì gia đình. Từ khi về nhà chồng, Vũ Nương luôn tỏ ra là một người con dâu hiểu thảo, đảm đang, hay lam hay làm, biết tính chồng hay ghen Vũ Nương luôn cố gắng không để cho vợ chồng thất hòa, rồi còn lo lắng thuốc than và ma chay tế lễ đầy đủ cho mẹ chồng nữa. Nàng đã làm tất cả để giữ gìn, vun vén cho hạnh phúc của gia đình. Thật là một người phụ nữ tiêu biểu cho công dung ngôn hạnh ở xã hội xưa. Trong xã hội xưa, vai vế người phụ nữ trong gia đình thường là thấp bé nhất. Mẹ chồng kiếm con dâu chỉ cốt để lo toan việc nhà, hay kiếm đứa cháu nối dõi tông đường. Vậy nên mối quan hệ mẹ chồng và con dâu xưa nay thường thất hòa. Nhưng trong tác phẩm ta lại thấy Vũ Nương được chính người mẹ chồng này ca ngợi phẩm giá của mình. Những lời khen này càng trở nên ý nghĩa hơn, có giá trị hơn gấp bội: “Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ“. Vũ Nương thật là một người con gái tài sắc vẹn toàn, luôn đối xử ân cần với mọi người. Vậy mà người con gái Nam Xương ấy đã bị phụ rẫy, chịu nhiều oan ức. Tai họa bỗng chốc ập đến. Thật đột ngột! Đến khó tin kì lạ. Mới ngày nào người con gái ấy còn thổn thức cùng chồng những lời nói thiết tha đẫm lệ: ”Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rũ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình thương người đất khách! Dù có thư nghìn hàng cũng không sợ cánh hồng bay bổng.” Mới ngày nào cuộc tiễn biết đầy vương vấn nhớ nhung: “Ngước mắt cảnh vật vẫn như cũ mà lòng người đã nhuộm mối tình muôn dặm quan san!” Những câu viết không vượt khỏi ước lệ văn chương một thuở nhưng lại có sức lay động lòng người lạ thường vì tình cảm của đôi vợ chồng son ấy rất mực chân thành. Vậy mà trời đã phụ lòng người, chỉ ” qua năm sau ” thôi tất cả đều tan nát. Thay cho “trang”, cho “liễu”, cho “cánh hồng bay bổng” và “mối tình muôn dặm quan san” chỉ còn là nỗi nghi ngờ, những lời máng nhiếc đánh đập đến thậm tệ. Công lao nuôi con dưỡng mẹ, làm tròn bổn phận con dâu đều đổ sông đổ bể, tới mức “không còn có thế lại lên núi Vọng Phu nữa”. Nhưng đáng buồn thay, tai họa này chỉ do một lí do không ai ngờ tới: do cái bóng. Vì nhớ chồng, con lại xa cách cha lâu ngày nên nàng chỉ còn biết nói cái bóng là Cha Đản. Thế là bé Đản ngây thơ nên đã tin cái bóng đó là cha ruột của mình và cứ lầm tưởng rằng cha mình đêm nào cũng đến “mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi”. Và khi qua tai Trương Sinh thì những lời nói hồn nhiên đó lại trở thành sự thật, cái bóng thành người, hại cho đời người con gái tài sắc. Bóng dần biến thành người. Cái thực lẫn lộn pha trộn cái hư, cái giả chập chờn trong cái thật. Không phải là người vô cùng thiết tha với hạnh phúc của một gia đình được sum vầy, đoan tụ Vũ Nương không thể nào nghĩ ra trò chơi này. Nào ngờ chính nó đã làm tan nát đời nàng. Khi chỉ cái bóng in trên vách chắc hẳn người thiếu phụ chỉ muốn nguôi đi cảm giác con mình đang sống vắng cha. Nhưng hóa ra chính vì thế mà nàng đã phải lìa xa cõi trần tục. Nếu truyện được kể thật đúng theo trình tự thời gian thì chi tiết chiếc bóng phải được kể trước khi Trương Sinh chờ về. Nhưng Nguyễn Dữ tài hoa đã để dành lại chi tiết “thắt nút” ấy để rồi đưa ra ở một vị trí thích hợp trong câu chuyện, gây ra bão giông, khuấy lên sóng gió. Không còn gì để ngăn được cơn tức tối của kẻ có tính hay ghen Trương Sinh khỏi nổ bùng.”Thú vui nghi gia nghi thất”, hạnh phúc duy nhất, niềm mong ước duy nhất của một đời Vũ Nương trong phút chốc hoàn toàn tan vỡ. “Bình đã rơi, trâm đã gãy, liễu đã tàn trước gió, sen đã rũ trong ao”, người thiếu phụ chung tình mà bạc mệnh chỉ còn có thể tìm đễn cái chết để giãi bày tấm lòng trong trắng của mình. Nàng đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Người đời sẽ lưu truyền thêm một tấm bi kịch về số phận người phụ nữ. Tấm bi kịch về cái đẹp bị chà đạp phũ phàng. Tấm bi kịch này là sự đầu hàng số phận nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tuông ích kỉ, sự hồ đồ vũ phu của gã đàn ông và luật lệ phong kiến hà khắc, dung túng cho sự độc ác hủ bại. Nàng đã gặp một người chồng tuy là con nhà hào phú, song ít học lại đa nghi đến mức ghen tuông mù quáng nên không thể nhận ra sự hoàn hảo trong phẩm hạnh của nàng. Rõ ràng sự khiếm khuyết trong tính cách của nhân vật Trương Sinh đã dồn nàng đến bước đường cùng. Giá như Trương Sinh bình tĩnh tìm hiểu một chút thôi thì tấm bi kịch chết người kia sẽ không thể xảy ra. Nhưng đó chỉ là giá như thôi vì Nguyễn Dữ đã đặt dấu chấm than cho mọi sự đã rồi. Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài số 3 Chuyện người con gái Nam Xương là một truyện hay trong Truyền kì mạn lục, một tác phẩm văn xuôi bằng chữ Hán ở Việt Nam thế kỉ XVI. Truyện được Nguyễn Dữ viết trên cơ sở một truyện dân gian Việt Nam, cốt truyện và nhân vật gắn liền với một không gian cụ thể, một chứng tích cụ thể để phản ánh một vấn đề bức thiết của xã hội đương thời, đó là thân phận con người nói chung, người phụ nữ nói riêng trong xã hội phong kiến. Truyện kể về cuộc đời và số phận bi đát của Vũ Nương, người con gái huyện Nam Xương nết na, thuỳ mị. Chồng nàng là Trương Sinh con nhà giàu có, nhưng ít học, vốn tính đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức. Khi chồng đi lính, nàng sinh con trai và hết lòng dạy con, chăm sóc mẹ chồng. Khi giặc tan, Trương Sinh trở về thì mẹ đã qua đời, con trai đang học nói. Đứa con nhất Định không chịu nhận chàng là bố vì bố nó "đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi". Nghe con nói, chàng ngờ vợ thất tiết, đánh đuổi nàng đi. Uất ức quá, nàng gieo mình xuống sông mà chết. Được các nàng tiên cứu, nàng sống thuỷ chung cùng vợ vua Nam Hải. Một lần gặp người làng là Phan Lang cũng được tiên cứu, nàng nhờ Phan Lang về nói với chồng lập đàn giải oan cho nàng. Trong lễ giải oan nàng hiện về và ngỏ lời từ biệt chàng vĩnh viễn. Câu chuyện chỉ là một vụ ghen tuông bình thường trong một gia đình cũng bình thường như trăm nghìn gia đình khác, nhưng có ý nghĩa tố cáo xã hội vô cùng sâu sắc. Một người phụ nữ nết na lấy phải một anh chồng hay ghen lại độc đoán. Và chỉ vì một chuyện bông đùa với con khi xa chồng, vì chồng nàng quá tin lời con trẻ, nghĩ oan cho nàng, tàn nhẫn đối với nàng khiên nàng phải tìm cái chết trên bến Hoàng Giang. Nỗi oan tày đình của nàng đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khốc trong xã hội vùi dập thân phận con người, nhất là người phụ nữ. Sống trong xã hội phong kiến đầy rẫy oan trái, bất công, quyền sống con người không được đảm bảo, người phụ nữ với số phận bèo dạt, mây trôi, có thể gặp bao nhiêu tai họa giáng xuống đầu mình vào bất cứ lúc nào vì những nguyên cớ vu vơ không thể tưởng tượng được. Rõ ràng xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những Trương Sinh đầu óc nam quyền độc đoán, đã là nguyên nhân sâu xa của những đau khổ của người phụ nữ. Vì vậy, khi sống ở thuỷ cung, nàng đã có lúc định trở về quê cũ. Nhưng tại lễ giải oan, mặc dù nặng lòng với quê hương, lỗi lầm xưa của chồng, nàng cũng đã tha thứ, nhưng nàng vẫn dứt áo ra đi, đánh phải sống ở cõi chết: "Đa tạ tình chàng, thiếp chàng thể trở về nhân gian được nữa". Chi tiết mang tính chất truyền kì này đã nói lên thái độ phủ định của Vũ Nương, của người phụ nữ đương thời đối với "nhân gian", đối với xã hội phong kiến thối nát vì ở đó họ không tìm thấy niềm vui, không tìm thấy hạnh phúc. Bên cạnh giá trị tố cáo xã hội phong kiến suy tàn, Chuyện người con gái Nam Xương còn đề cao phẩm chất giá trị của người phụ nữ. Khi còn sống, Vũ Nương là người vợ đảm dâu hiếu. Lúc sống bên chồng, nàng "giữ gìn khuôn phép", không lúc nào để vợ chồng thất hoà. Lúc chồng đi lính, một mình nàng quán xuyến mọi việc, nuôi con, phụng dưỡng mẹ chồng đau ốm và khi mẹ chồng mất, nàng lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình. Còn đối với chồng, nàng một dạ thuỷ chung. Sau khi chết, được sống ở thuỷ cung nguy nga, lộng lẫy, khi Phan Lang gợi đến quê hương, nàng xúc động "ứa nước mắt khóc". Nàng giãi bày tâm sự: "Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây mãi để mang tiếng xấu xa. Vả chăng, ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày". Đọc đến đây, không ai không xúc động được trước tấm lòng nặng nghĩa nặng tình với quê hương bản quán của nàng. Tuy vừa được cứu sống, tuy được sống trong nhung lụa, bên cạnh có những nàng tiên tốt bụng và là ân nhân của mình, nhưng lòng nàng lúc nào cũng nhớ đến quê cha đất cũ và tâm niệm sẽ có ngày tìm về. Vũ Nương dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ lúc sống ở trần thế với cuộc sống đời thường cũng như khi làm tiên ở thuỷ cung lộng lẫy đều là một người phụ nữ đẹp, đẹp cả về hình dáng, cả về phẩm giá, về tâm hồn. Người phụ nữ đó lẽ ra phải sống cuộc đời hạnh phúc. Nhưng tiếc thay xã hội phong kiến đã chà đạp lên cuộc đời nàng. Như phần trên đã nói, viết Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã lấy cốt truyện trong dân gian. Nhưng rõ ràng với tấm lòng yêu thương con người sâu nặng, bằng bút pháp kể chuyện già dặn, với tình tiết lúc thì chân thật đời thường, lúc thì kì ảo hoang đường, ông đã xây dựng được hình tượng nhân vật vô cùng sống động, mang ý nghĩa xã hội cao. Do đó tác phẩm của ông đã giáo dục chúng ta lòng yêu thương con người sâu sắc, lòng quyết tâm sống chiến đấu vì quyền sống và hạnh phúc con người. Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài số 4 Mấy thế kỉ qua, người đời tôn vinh Nguyễn Dữ là “đại gia” với Truyền kì mạn lục “thiên cổ kì bút”, không chỉ vì tác giả Truyền kì mạn lục đã phát huy công năng của thể loại một cách thần tình; mà có lẽ quan trọng hơn: bút lực của ông rất già dặn, vừa thông minh vừa tài hoa. Chuyện người con gái Nam Xương đã được cấu tạo tương tự một vở kịch cổ điển gồm có ba phần: khai đề – khúc thắt – giải đề. Phần khai đề giới thiệu khái quát tính cách nhân vật (Vũ Nương “nết na”, Trương Sinh “hay ghen”), tiếp đến là tình huống: chia li. Tới phần khúc thắt: mâu thuẫn gia đình ngày càng gay gắt bởi một tình tiết đột biến vừa ngẫu nhiên lại vừa tất yếu (vì khó tránh khỏi): câu nói của đứa con ngây thơ: “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến”; kết thúc mâu thuẫn là sự chấm dứt một sinh mệnh (dẫn dắt động tác truyện như vậy chẳng khác cách thức cấu trúc truyện ngắn hiện đại: tính cách khi lâm tình huống đã bộc lộ hết bản sắc, làm thỏa mãn sự chờ đợi của độc giả). Cuối cùng, ở đoạn giải đề: Đản giải oan được thiết lập – lại vẫn do câu nói vừa ngẫu nhiên vừa tất yếu của đứa trẻ: “Cha Đản lại đến kia kìa!”, chàng Trương Sinh ăn năn, hối hặn cũng đã muộn, Vũ Nương thay đổi thân phận: hóa thần, hiển linh và tha thứ… Truyện ngắn – kịch (cái trò diễn tả bằng ngôn từ) cấu tạo chặt chẽ gồm hai mạch: (mạch chính: Vũ Nương – Trương Sinh – Đản; mạch phụ: Phan Lang – Linh Phi; hai mạch hợp lưu ở phần giải đề) này không có đoạn nào thừa, cũng chẳng câu nào thiếu. Ví dụ: Nội dung truyện cần thiết một câu rất mấu chốt khiến sự diễn biến động tác truyện đảm bảo tính hợp lí; trong khi một số người khác kể không chú ý viết câu ấy, thì Nguyễn Dữ đã quan tâm rõ ràng; câu ấy là “nàng (Vũ Nương) hỏi chuyện kia (ngoại tình) là do ai nói ra, thì (Trương Sinh) lại giấu không kể lời con nói ( nghĩa là Vũ Nương thiếu điều kiện giải oan khi nàng còn sống). Tương tự văn tự sự trung đại, nội dung Chuyện người con gái Nam Xương nặng về động tác, nhẹ về khắc họa nội tâm và miêu tả chi tiết. Đối chiếu với yêu cầu nghệ thuật truyện ngắn hiện đại, tác phẩm như kém sức hấp dẫn; nhưng thực tế ngược lại. Đó là do “màng lưới ngôn từ” ở đây mang mã thẩm mĩ đặc thù sự việc là trọng tâm hứng thú – khác truyện ngắn hiện đại: hứng thú thường nhằm vào trạng thái tâm tưởng và sự “phong phú bề nổi”. Tuy vậy, xem xét thấu đáo, ta thấy bút pháp Nguyễn Dữ ít nhiều cũng đã cách tân: Không giống Việt điện u linh (thế kỉ XIV), Lĩnh Nam chích quái (thế kỉ XV); trong Chuyện người con gái Nam Xương, tác giả đã gia tăng mạnh mẽ những đoạn đối thoại cũng như gia tăng nhiều chi tiết chọn lọc được khắc họa đột xuất (đoạn miêu tả cung nước của rùa thần chẳng hạn). Có thể nói: từ hơn 400 năm trước ngòi bút truyền kì của Nguyễn Dữ đã bắt đầu ánh lên sắc màu phôi thai truyện ngắn Việt Nam hiện đại – Nguyễn Dữ: cây bút thể loại truyền kì Tiên phong. Giữa thế cục bất định, sử dụng thể loại truyền kì siêu điển tích. Nguyễn Dữ còn dễ dàng thầm kín gửi gắm vào tác phẩm “giấc chiêm bao” của bản thân (cũng là của dân gian): tích thiện phùng thiện… Vũ Nương khổ nhục, bất hạnh cùng cực, nhưng rồi nàng sẽ trở thành nữ thần cưỡi kiệu hoa giữa cờ quạt tán lọng rực rỡ bay về miền bất tử. Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài số 5 Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỷ XVI, một tập truyện văn xuôi bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam. Truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm đó được trích trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nam. Vốn là một người vợ đoan chính, đảm đang. Nàng giữ lòng chung thuỷ, hầu hạ mẹ chồng, chăm sóc con thơ trong suốt thời gian chồng đi lính ở phương xa. Khi trở về vì nghe lời ngây thơ của con trẻ, người chồng nghi ngờ nàng thất tiết nên đánh mắng đuổi đi. Không thể phân giải được oan tình, nàng trẫm mình ở sông Hoàng Giang. Cảm động vì lòng trung thực của nàng, Linh Phi (vợ vua biển) cứu vớt nàng và cho ở lại Long Cung. Người chồng biết vợ bị oan nên rất hối hận, lập đàn giải oan cho nàng. Vũ Nương hiện lên, ẩn hiện trong chốc lát rồi trở lại Long Cung. Chuyện ca ngợi một người phụ nữ có phẩm chất, có tâm hồn trong sáng, sáng ngời như ngọc lại bị nỗi oan tày trời vì một chuyện vờ ghen vớ vẩn của người chồng nông nổi. Cuối cùng nàng phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan tình. Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau, qua đó bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Vũ Nương vốn là người con gái có tư dung tốt đẹp, tính tình thuỳ mị, nết na. Khi lấy chồng, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng phải thất hoà dù Trương Sinh vốn có tính hay ghen. Khi chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy tiễn chồng. Lời của nàng thật xúc động, nói về niềm yêu thương, mong nhớ của mình đối với người chồng sẽ đi xa, rồi bày tỏ nỗi lo lắng trước những gian lao nguy hiểm mà người chồng sẽ trải qua, niềm mong ước được đoàn tụ … làm mọi người trong tiệc đều ứa hai hàng lệ. Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son sắt, thuỷ chung, “cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết”, mong đợi chồng về trong cô đơn mòn mỏi “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân trời không thể nào ngăn được”. Hơn nữa, nàng là một người con dâu hiếu kính, tận tuỵ chăm sóc khi mẹ chồng còn sống, chôn cất mẹ chồng khi mẹ qua đời (lo liệu như đối với mẹ đẻ mình). Rồi đằng đẵng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng bị nghi oan. Vũ Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình: “Thiếp vốn con kẻ khó … mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng đã nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định lòng chung thuỷ, hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Dù họ hàng, làng xóm có bênh vực và biện bạch, Trương Sinh vẫn không tin. Bất đắc dĩ Vũ Nương thống thiết: “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng … đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa!”. Đó là hạnh phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời nàng giờ đây tan vỡ. Tình yêu không còn, cả nỗi đau khổ chờ chồng giờ đây hoá đá…. Tuyệt vọng vì phải gánh chịu nỗi oan khuất tày trời không phương giải bày, cứu chữa nàng đành mượn cái chết để chứng tỏ tiết hạnh trong sáng của mình. lời khấn nguyện với thần linh vô cùng thảm thiết: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ. Nhựợc bằng lòng chim, dạ cá, lừa dối chồng con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ …” lời khấn nguyện đã làm cho người đọc xót xa – con người rơi cảnh ngộ bế tắc, không thể tiếp tục sống để tự giải oan tình mà phải tìm đến cái chết để thần linh chứng dám. Sau một năm ở thuỷ cung, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước mắt khóc, nghĩ đến câu “ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam” rồi hiện về trên dòng nước cho thoả lòng nhớ chồng, con. Qua những hoàn cảnh khác nhau của vũ Nương, với những lời tự thoại của nàng, truyện đã khẳng định những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam – một người phụ nữ đẹp người, lại nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, rất mực hiếu kính với mẹ chồng, giữ vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình, …. lẽ ra phải được hạnh phúc trọn vẹn thế mà phải chết một cách oan uổng, đau đớn. Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ hiện thực nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với chế độ “nam quyền”, coi rẻ thân phận của người phụ nữ, rồi tính đa nghi, ghen tuông của chồng, thói hung bạo, gia trưởng của chồng đã làm khổ đau bao cuộc đời những người phụ nữ. Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng (thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng “nam quyền”, hơn nữa Trương Linh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa quá mức. Những chi tiết này chuẩn bị cho những hành động độc đoán của Trương Sinh sau này. Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng nặng nề: mẹ qua đời, con vừa học nói, lòng buồn bã. Trong hoàn cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ kích động tính hay ghen của Trương Sinh: “trước đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến…” Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương Sinh khi ấy. Không đủ bình tĩnh để tìm hiểu vấn đề, chàng bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ, những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, không chịu nói ra duyên cớ ghen hờn. Cuối cùng, Sinh lại mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái độ và hành động của Trương Sinh vô hình dung dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương. Hành động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của Vũ Nương phản ánh một thực trạng về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc chặt trong khuôn khổ khắt khe của lễ giáo, bị đối xử bất công, bị áp bức và chịu nhiều khổ đau, bất hạnh. Đó cũng chính là giá trị tố cáo hiện thực của tác phẩm. Đằng sau nỗi oan của người thiếu phụ Nam xương, còn bao nhiêu oan tình bất hạnh mà người phụ nữ ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều trong “Truyện Kiề”u của Nguyễn Du, người cung nữ trong “cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ lỡ duyên tình trong thơ Hồ Xuân Hương, … Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ Hán, Nguyễn Dữ đã có những mặt thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng những đoạn đối thoại. Cách kể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình tiết, thắt nút và gỡ nút thật bất ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật hiện ra với tất cả nét thảm khốc. “Thắt nút” truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ nghe như thật của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong một đầu óc nam quyền độc đoán, thiếu trí tuệ ; bão tố bất hoà dữ dội phá tan hạnh phúc của một gia đình êm ấm. Bão tố oan khiên phá nát cuộc đời của một người con gái trong trắng, phải kết thúc bi thảm trêm một dòng sông. “Gỡ nút” cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái bóng của chàng Trương trên vách: “cha Đản lại đến kia kìa” thì bao nhiêu oan khiên gây thảm kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ.) Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm tình của nhân vật được sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc hoạ diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật; lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng trải; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lí, có tình – lời của người phụ nữ hiền thục, đoan chính; lời của Bé Đản hồn nhiên, ngây thơ, thật thà. Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn “gỡ nút” truyện, chàng Trương Sinh tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ Nương trở về dương thế, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện lên những giá trị tư tưởng và thẩm mĩ mới. Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn của truyện và hoàn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn ước mơ của nhân dân là “ở hiền gặp lành”, ngưởi tốt sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những yếu tố truyền kì tập trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang cứu, Vũ Nương được ở lại Thuỷ Cung, rồi hiện về với kiệu hoa rực rỡ trên sông… đó là những tình tiết kì ảo, không có thực nhưng đã tạo ra một thế giới nghệ thuật lung linh huyền ảo. Số phận và cuộc đời thực sự vẫn là thực xưa nay. Yếu tố hoang đường truyền kì không thể cứu được cuộc đời Vũ nương với số phận bi thảm của nàng. Vũ Nương muốn sống lại mà không được sống, muốn trở về với chồng con và quê hương mà không thể trở về được. Truyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị hiện thực tố cáo và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến được phản ánh trong các tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy rõ giá trị cuộc sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp hôm nay. Họ đang vươn lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng con và được đề cao nhân phẩm trong xã hộ, xã hội của thời đại mới. Nguyễn Tuyến tổng hợp Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Văn mẫu lớp 9Đánh giá bài viết Có thể bạn quan tâm?Bàn luận ý kiến sau: “Đúng giờ là một cử chỉ đẹp” – Văn mẫu lớp 9Phân tích tác phẩm: Phong cách Hồ Chí Minh – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về lễ hội Hùng Vương – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về một làng cổ hay phố cổ – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về lễ hội đua thuyền – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về Rừng Sác – Cần Giờ – Văn mẫu lớp 9Phân tích tác phẩm Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về một cảnh đẹp quê hương em – Văn mẫu lớp 9

Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài số 1

Chuyện người con gái Nam Xương (Nam Xương nữ tử truyện) là một trong số hai mươi truyện li kì trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Câu chuyện bi thương về một người phụ nữ có thật ngoài đòi là Vũ Thị Thiết đã từng khiến một vị vua anh minh như Lê Thánh Tông, một nhà thơ lớn như Nguyễn Khuyến phải xót thương nhỏ lệ mà đề thơ. Còn Nguyễn Dữ, tiếng là ghi chép lại câu chuyện li kì trong dân gian song kì thực ông đã sáng tạo nên một câu chuyện độc đáo theo lối mượn chuyện xưa để nói chuyện nay. Trên lập trường nhân đạo, nhà văn đã tố cáo xã hội phong kiên tàn bạo, thông cảm với nỗi đau của con người, đề cao phẩm hạnh của người phụ nữ. Đó chính là lí do cơ bản để tác phẩm được xếp hạng vào hàng “thiên cổ kì bút”.

Vũ Thị Thiết, theo như lời câu chuyện, là một người “thuỳ mị, nết na. lại có thêm tư dung tốt đẹp”. Chính vì đức hạnh vẹn toàn của nàng mà Trương Sinh nhất quyết cưới nàng làm vợ. Sống bên cạnh một người chồng “không có học” lại hay ghen. Vũ Thị Thiết biết giữ gìn khuôn phép nên vợ chồng êm ấm hòa thuận. Cái hạnh phúc bình dị ấy cứ tưởng sẽ dài lâu nếu không có chuyện đến một ngày kia, Trương Sinh bị bắt lính…

Trong khi chồng vắng nhà, Vũ Thị đã thay chồng cáng đáng mọi việc trong gia đình, hiếu thảo với mẹ già, giữ tiết hạnh với Trương Sinh. Cái công ấy, cái phẩm hạnh ấy của nàng đã khiến mẹ chồng, trước khi chết khẳng định: “xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.

Ấy thế mà có người đã phụ nàng. Người ấy chẳng phải ai xa lạ mà chính là Trương Sinh. Nguyên nhân của cơn ghen này thật đơn giản: Trương Sinh tin vào con mình. Ngày Trương Sinh đi lính. Vũ Thị đã đùa con rằng, cái bóng mình trên vách chính là cha nó. Vì thế, khi được Trương Sinh hỏi, bé Đản ngạc nhiên vì mình có những hai người cha: “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít”. Không điều tra hư thực, lại vốn tính cả ghen do “trời định”, Trương “đinh ninh là vợ hư. mối nghi ngờ nàng ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được”. Những lời phân trần của nàng Thiết, rốt cuộc cũng trở thành vô nghĩa trước sự tàn nhẫn của Trương Sinh. Sau bao ngày đợi chồng, mong ngóng ngày đoàn tụ, thật không ngờ, ngày gặp mặt cũng là ngày nàng bắt đầu rơi vào bi kịch. Và thật oái oăm, bị kịch ấy lại do chính người thân của nàng đưa lại. Lời bênh vực và biện bạch của hàng xóm, những người từng chứng kiến đức hạnh của nàng cũng không lay chuyển được cái định kiến đã bám rất chắc vào Trương Sinh. Làm sao Trương có thể bỏ qua được một khi cứ văng vẳng bên tai lời con trẻ: “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Trong lời cậu bé, ít nhất có ba điểm “đáng ngờ”: hành tung của người đàn ông hết sức bí hiểm, (đêm nào cũng đi, ngồi cũng ngồi), là người lạ hoàn toàn (không bế con người khác). Đang lúc mù quáng vì ghen tuông, Trương “mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi”. Trong xã hội phong kiến, thất tiết là điều ô nhục. Thử hỏi một người nết na, đức hạnh như Vũ Thị làm sao có thể chịu được nỗi ô nhục, oan ức đó. Cái “nương tựa” cuối cùng là gia đình đã hết, nỗi oan lại không biết tỏ cùng ai, Vũ Thị chỉ còn sự lựa chọn duy nhất để chứng minh tiết hạnh của mình: tìm đến cái chết.

Nhưng là một nhà văn nhân đạo, tác giả không muốn Vũ Thị chết. Dòng sông giải oan đã được lập nên “xanh” kia đã thấu, không phù hộ nàng ở cõi trần thì phù hộ nàng ở cõi âm (cũng là kiếp sau). Vũ Thị ở lại trong cung của Linh Phi vì nàng “vô tội”. Nhưng ở trong hoàn cảnh sung sướng nàng vẫn không quên được nỗi đau oan ức, không quen được gia đình. Cho hay, đến tận cùng, Vũ Thị vẫn là người hiếu nghĩa thuỷ chung.

Vậy thì nguyên nhân gây ra bi kịch của Vũ Nương là từ đâu? Do sự vô tình của con trẻ? Do sự cả ghen của Trương Sinh? cả hai lí do ấy đều đúng và là nguyên nhân trực tiếp đẩy Vũ Thị vào cái chết. Nhưng nếu Trương Sinh không đi lính, nếu đứa trẻ lúc sinh đã có cha nó bên cạnh thì sao? Chắc chắn Vũ Thị sẽ có một gia đình yên ấm, “cuộc sum vầy” vẫn tiếp tục. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm cho gia dinh Trương Sinh tan nát; mẹ già vì nhớ con mà mang bệnh đến chết, vợ phải lo toan thay chồng nuôi mẹ, nuôi con. Chiến tranh cũng làm cho bao người khác chạy loạn, trốn ra bể đến nỗi đắm thuyền “chết đuối cả”. Vũ Thị không chỉ chịu khổ sở trong thời gian chiến tranh mà còn cả khi chiến tranh đã kết thúc, khi Trương Sinh đã trở về. Vậy ra, chính cuộc chiến tranh ấy, chính xã hội phong kiến tàn bạo ấy mới đích thực là nguyên nhân dẫn đến cái chết của nàng. Định kiến lễ giáo phong kiến ăn sâu vào Trương Sinh, khiến chàng không “điều tra”, “xét hỏi” mà ngay lập tức “làm ầm lên cho hả giận”, cho “vừa lòng” các định kiến phi nhân kia. Đúng là dưới chế độ phong kiến, người phụ nữ bao giờ cũng là nạn nhân, là người chịu nhiều bất công oan trái nhất. Chuyện người con gái Nam Xương vì thế, là một bản cáo trạng chế độ phong kiến suy vi, vô nhân đạo.

Tuy nhiên, sự hấp dẫn lớn lao của thiên truyện này còn nằm ở tính nghệ thuật của tác phẩm. Tác giả đã xây dựng câu chuyện với một bố cục hết sức chặt chẽ, trong đó mỗi nhân vật có một tính cách riêng. Trương Sinh đa nghi, cả ghen, vô học nên cố chấp và mù quáng. Vũ Nương trong trắng, thủy chung, thảo hiền nhưng không chấp nhận sự buộc tội vô lí và oan ức. Các nhân vật bộc lộ một cách trọn vẹn mình qua sự dẫn dắt tình tiết, biến cố rất khéo của người dẫn chuyện. Chính câu nói của đứa trẻ ngây thơ đã khởi đầu cho bi kịch nổi sóng và cũng đứa trẻ ấy, trong một đêm khuya, giải oan cho mẹ nó. Đây có thể coi là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Dữ vì các truyện truyền kì của Nhật Bản, Trung Hoa, Triều Tiên dường như chưa một ai lấy hình tượng bóng người và lời nói ngây thơ của trẻ để đẩy chuyện đến đỉnh điểm và mở nút câu chuyện đau lòng này. Mặc dù rất ít nhân vật nhưng Chuyện người con gái Nam Xương khá đa nghĩa. Có người cho rằng thiếu phụ Nam Xương có lỗi một phần vì lẽ ra nàng phải đùa khác đi. Có người lại cho rằng lời nói của đứa trẻ có khi do vô tình người ta có thể phá tan một lâu đài hạnh phúc. Tạo ra nhiều cách hiểu, cách tiếp cận, đó là một phương diện tài năng của Nguyễn Dữ. Trong tác phẩm này, ngôn ngữ nhân vật cũng rất đặc sắc. Trong khi ngôn ngữ Trương Sinh là ngôn ngữ gần gũi lời ăn tiếng nói bình thường thì ngôn ngữ Vũ Thị là ngôn ngữ cách điệu, thậm chí cách điệu hơn cả Linh Phi. Điều này cho thấy hình tượng Vũ Nương là hình tượng có tính lí tưởng. Cái chết của nàng là cái chết của một kiệt nữ, trong trắng và thủy chung. Có thể vì điều này mà mặc dù nàng đã có chồng, có con nhưng vẫn được gọi là người con gái Nam Xương đấy chăng?

Pha trộn giữa thực và ảo, giữa sự thật cay đắng và sương khói giải oan, tác giả đã đem lại cho tác phẩm một màu sắc biến hóa. Dẫu cho Vũ Thị có trở về, nỗi oan đã được giải nhưng dòng sông ngăn cách vẫn còn đó. Từ mờ ảo, nàng dần biến mất. Nỗi đau, qua cái ảo của tác phẩm có phần nào được bù đắp, song cái bi kịch kia thì mãi còn đó. Nó như là một lời nhắc nhở, một hi vọng mọi người hãy nhớ hạnh phúc bao giờ cũng rất dễ bị phá hoại. Hãy nâng niu lấy hạnh phúc như nâng niu một cái đẹp để cái đẹp ấy được trường cửu.

Vượt qua tư cách là một “bản kể” dân gian, Chuyện người con gái Nam Xương là một tác phẩm đặc sắc viết về người phụ nữ với bao nỗi khổ đau của họ. Nhưng trong cái xã hội phong kiến mục ruỗng ấy, họ vẫn hiện lên với vẻ đẹp cả về tư dung và phẩm hạnh. Càng thương cho Vũ Thị bao nhiêu người đọc càng căm giận xã hội phong kiến đã là nguyên nhân gây ra biết bao bi kịch đau lòng. Qua bi kịch Vũ Nương, Nguyễn Dữ cũng chuyển đến cho chúng ta một điều mà ông từng chiêm nghiệm: Hạnh phúc chỉ có được khi hai người biết thông hiểu và tin cậy lẫn nhau.

Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài số 2

Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kì hoặc mang tính chất truyền kì, song được tôn vinh ”thiên cổ kì bút” thì đến nay chỉ có một Truyền Kì Mạn Lục của Nguyễn Dữ. Trong tác phẩm ấy đoạn trích Chuyện người con gái Nam Xương được xem như đặc sắc nhất vì đã khắc họa thành công số phận của người phụ nữ dưới chế độ xưa.

Truyền Kì Mạn Lục là loại văn chuyên ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền. Trước đó Chuyện người con gái Nam Xương cũng đã được lưu truyền rộng rãi trong chốn dân gian. Hẳn không mấy ai không biết đến hai bài thơ viếng thăm nàng Vũ Thị trong Hồng Đức Quốc Âm thi tập. Hai bài thơ đó chứng tỏ rằng câu chuyện bi thảm về người đàn bà họ Vũ vợ chàng Trương là có thật. Dù truyện đã được dân gian lưu truyền, nhưng không phải Nguyễn Dữ chỉ có làm công việc đơn giản: biên chép lại cho đúng một chuyện kể đã có sẵn từ những năm tháng trước đó mà tác giả còn phải nhào nặn lại câu chuyện, làm cho nó gần gũi với người đọc, mang dấu ấn của thời đại mình.

Truyện mở đầu bằng dòng chữ ”Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương …”.  Tên tuổi, quê quán của nhân vật chính đã được giới thiệu rõ ràng, không giống như những nhân vật khác: chàng họ Trương, ông họ Phan. Vũ Thị Thiết là người duy nhất trong truyện được nêu đầy đủ họ tên, danh tính để lưu truyền cho hậu thế. Nhưng Vũ Thị Thiết chỉ là một người đàn bà bình thường, thuộc giới nghèo hèn ” vốn con kẻ khó“, dung mạo thì không có gì đặc biệt. Thế nhưng nàng đã là một nhân vật lưu truyền nơi hậu thế. Có lẽ Nguyễn Dữ đã có những nhận thức tiến bộ về xã hội. Những ràng buộc khuôn pháp đã không còn vững chắc trong tâm trí ông. Ông quan tâm đến đời sống của mọi người chứ không còn mải mê tìm cảm hứng văn chương trong đội ngũ những người quý phái hay tuyệt sắc giai nhân nữa.

Chính từ quan niệm đó Nguyễn Dữ đã cho ra đời mẫu người phụ nữ lí tưởng, tuy không phải là giai nhân nhưng lại hội tụ những đức tính, phẩm chất tốt đẹp cần có ở người phụ nữ Vũ Thị Thiết: ” tính tình thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Tuy tác giả đã nói rằng hai yếu tố bên trong và bên ngoài của nàng đều vẹn tòan, chẳng khác nào Kiều xưa kia. Thế nhưng càng vào sâu trong tác phẩm ta mới nhận ra rằng chữ dung đã thua chữ tài . Sau mấy lời giới thiệu đầu tiên, thì trong toàn bộ truyện không còn những câu nào miêu tả vẻ đẹp bên ngòai của nàng Vũ Thị nữa. Vũ Nương đã chiếm được cảm tình của đọc giả không phải là do tư dung mà do chính phẩm hạnh của nàng. Phẩm chất ở đây không như cô gái hái dâu Ỷ Lan hay ả đào nương diệt giặc miền Tiên Lữ. Phẩm chất Vũ Nương là tấm lòng của người phụ nữ luôn hy sinh vì gia đình. Từ khi về nhà chồng, Vũ Nương luôn tỏ ra là một người con dâu hiểu thảo, đảm đang, hay lam hay làm, biết tính chồng hay ghen Vũ Nương luôn cố gắng không để cho vợ chồng thất hòa, rồi còn lo lắng thuốc than và ma chay tế lễ đầy đủ cho mẹ chồng nữa. Nàng đã làm tất cả để giữ gìn, vun vén cho hạnh phúc của gia đình. Thật là một người phụ nữ tiêu biểu cho công dung ngôn hạnh ở xã hội xưa.

Trong xã hội xưa, vai vế người phụ nữ trong gia đình thường là thấp bé nhất. Mẹ chồng kiếm con dâu chỉ cốt để lo toan việc nhà, hay kiếm đứa cháu nối dõi tông đường. Vậy nên mối quan hệ mẹ chồng và con dâu xưa nay thường thất hòa. Nhưng trong tác phẩm ta lại thấy Vũ Nương được chính người mẹ chồng này ca ngợi phẩm giá của mình. Những lời khen này càng trở nên ý nghĩa hơn, có giá trị hơn gấp bội: “Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ“.

Vũ Nương thật là một người con gái tài sắc vẹn toàn, luôn đối xử ân cần với mọi người. Vậy mà người con gái Nam Xương ấy đã bị phụ rẫy, chịu nhiều oan ức. Tai họa bỗng chốc ập đến. Thật đột ngột! Đến khó tin kì lạ. Mới ngày nào người con gái ấy còn thổn thức cùng chồng những lời nói thiết tha đẫm lệ: ”Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rũ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình thương người đất khách! Dù có thư nghìn hàng cũng không sợ cánh hồng bay bổng.” Mới ngày nào cuộc tiễn biết đầy vương vấn nhớ nhung: “Ngước mắt cảnh vật vẫn như cũ mà lòng người đã nhuộm mối tình muôn dặm quan san!” Những câu viết không vượt khỏi ước lệ văn chương một thuở nhưng lại có sức lay động lòng người lạ thường vì tình cảm của đôi vợ chồng son ấy rất mực chân thành. Vậy mà trời đã phụ lòng người, chỉ ” qua năm sau ” thôi tất cả đều tan nát. Thay cho “trang”, cho “liễu”, cho “cánh hồng bay bổng” và “mối tình muôn dặm quan san” chỉ còn là nỗi nghi ngờ, những lời máng nhiếc đánh đập đến thậm tệ. Công lao nuôi con dưỡng mẹ, làm tròn bổn phận con dâu đều đổ sông đổ bể, tới mức “không còn có thế lại lên núi Vọng Phu nữa”.  Nhưng đáng buồn thay, tai họa này chỉ do một lí do không ai ngờ tới: do cái bóng. Vì nhớ chồng, con lại xa cách cha lâu ngày nên nàng chỉ còn biết nói cái bóng là Cha Đản. Thế là bé Đản ngây thơ nên đã tin cái bóng đó là cha ruột của mình và cứ lầm tưởng rằng cha mình đêm nào cũng đến “mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi”. Và khi qua tai Trương Sinh thì những lời nói hồn nhiên đó lại trở thành sự thật, cái bóng thành người, hại cho đời người con gái tài sắc.

Bóng dần biến thành người. Cái thực lẫn lộn pha trộn cái hư, cái giả chập chờn trong cái thật. Không phải là người vô cùng thiết tha với hạnh phúc của một gia đình được sum vầy, đoan tụ Vũ Nương không thể nào nghĩ ra trò chơi này. Nào ngờ chính nó đã làm tan nát đời nàng. Khi chỉ cái bóng in trên vách chắc hẳn người thiếu phụ chỉ muốn nguôi đi cảm giác con mình đang sống vắng cha. Nhưng hóa ra chính vì thế mà nàng đã phải lìa xa cõi trần tục. Nếu truyện được kể thật đúng theo trình tự thời gian thì chi tiết chiếc bóng phải được kể trước khi Trương Sinh chờ về. Nhưng Nguyễn Dữ tài hoa đã để dành lại chi tiết “thắt nút” ấy để rồi đưa ra ở một vị trí thích hợp trong câu chuyện, gây ra bão giông, khuấy lên sóng gió. Không còn gì để ngăn được cơn tức tối của kẻ có tính hay ghen Trương Sinh khỏi nổ bùng.”Thú vui nghi gia nghi thất”, hạnh phúc duy nhất, niềm mong ước duy nhất của một đời Vũ Nương trong phút chốc hoàn toàn tan vỡ. “Bình đã rơi, trâm đã gãy, liễu đã tàn trước gió, sen đã rũ trong ao”, người thiếu phụ chung tình mà bạc mệnh chỉ còn có thể tìm đễn cái chết để giãi bày tấm lòng trong trắng của mình.

Nàng đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Người đời sẽ lưu truyền thêm một tấm bi kịch về số phận người phụ nữ. Tấm bi kịch về cái đẹp bị chà đạp phũ phàng. Tấm bi kịch này là sự đầu hàng số phận nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tuông ích kỉ, sự hồ đồ vũ phu của gã đàn ông và luật lệ phong kiến hà khắc, dung túng cho sự độc ác hủ bại. Nàng đã gặp một người chồng tuy là con nhà hào phú, song ít học lại đa nghi đến mức ghen tuông mù quáng nên không thể nhận ra sự hoàn hảo trong phẩm hạnh của nàng. Rõ ràng sự khiếm khuyết trong tính cách của nhân vật Trương Sinh đã dồn nàng đến bước đườ

0