Phân tích tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Văn mẫu lớp 12
Nội dung bài viết1 Phân tích tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Bài số 1 2 Phân tích tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Bài số 2 3 Phân tích tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Bài số 3 4 Phân tích tác phẩm Hồn Trương Ba, da ...
Nội dung bài viết1 Phân tích tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Bài số 1 2 Phân tích tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Bài số 2 3 Phân tích tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Bài số 3 4 Phân tích tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Bài số 4 Phân tích tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Bài số 1 “Hồn Trương Ba da hàng thịt” là một vở kịch nổi tiếng được Lưu Quang Vũ xây dựng dựa trên một câu chuyện dân gian về nhân vật Trương Ba giỏi chơi cờ và cái chết oan ức của ông. Thế nhưng điểm mới của vở kịch này chính là một kết thúc hoàn toàn khác với kết thúc truyện dân gian. Thông qua vở kịch, Lưu Quang Vũ đã gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, đồng thời kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống đương thời. Dựa trên cốt truyện dân gian, vở kịch cũng xây dựng nhân vật Trương Ba là một lão nông làm vườn hiền lành, được mọi người yêu quý và rất giỏi chơi cờ. Nam Tào vì tắc trách trong công việc cho nên bắt chết nhầm Trương Ba. Đế Thích – một vị tiên cờ và cũng là bạn của Trương Ba – đã giúp hồn Trường Ba nhập vào xác anh hàng thịt cũng vừa mới chết. Trong truyện dân gian, kịch tính được xây dựng là cảnh hai bà vợ cùng tranh chồng trên quan nha. Và sau thì vợ Trương Ba thắng kiện và đưa chồng mình về nhà. Không dừng lại ở một kết thúc đẹp như vậy, Lưu Quang Vũ đã tiếp tục khai thác kết thúc của tích truyện dân gian. Khi hồn Trương Ba được sống trong xác anh hàng thịt thì cuộc sống của ông lại trở nên éo le, khập khiễng. Quá đau khổ và tuyệt vọng, cuối cùng Trương Ba đã xin Đế Thích cho mình được chết hẳn, vì “không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”. Xây dựng tình huống đầy kịch tính và cách giải quyết tình huống như vậy, Lưu Quang Vũ muốn thể hiện một triết lý về lẽ sống: cuộc sống thật đáng quý, nhưng không phải sống thế nào cũng được. Nếu sống vay mượn, chắp vá, không có sự hòa hợp về tâm hồn và thể xác thì con người chỉ gặp những bi kịch mà thôi. Cuộc sống chỉ thực sự hạnh phúc khi chúng ta được sống là chính mình, được hài hòa cả về thể chất lẫn tinh thần. Đây cũng chính là nội dung tư tưởng chủ đạo mà tác phẩm muốn hướng đến. Để làm nổi bật tư tưởng này, Lưu Quang Vũ đã xây dựng những xung đột xung quanh nhân vật Trương Ba để cho người đọc người xem thấy được sự khập khiễng giữa “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Trước hết là xung đột thể hiện qua màn đối thoại giữa hồn và xác. Đây cũng là xung đột chính, xung đột có tính quan trọng nhất trong vở kịch. Trương Ba trước kia vốn nhân hậu, nhưng từ khi nhập vào xác anh hàng thịt bỗng dần đổi khác: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt, không còn mặn mà với thú vui thanh cao trí tuệ. Điều ấy làm cho hồn Trương Ba vô cùng đau khổ và ghê tởm thân xác kềnh càng, thô lỗ mà mình đang mang. Chính vì thế mà hồn Trương Ba muốn được sống là một ông Trương Ba chăm chỉ hiền lành nhưng lại bị cái xác chế giễu, bị ép phải thoải mãn những yêu cầu phàm tục. Những lý lẽ mà hồn Trương Ba đưa ra dần đuối lý và ngày càng nhận trở nên bất lực, chỉ biết thở dài buông ra những lời tuyệt vọng bởi hồn đang ngày càng bị xác chi phối mạnh mẽ. Cuộc xung đột này đã cho thấy, thể xác cũng có tiếng nói bản năng, cũng có những nhu cầu đòi hỏi phải được đáp ứng. Chính vì thế, ý thức của con người cũng chịu một phần sự chi phối của thể xác. Nhưng con người, cần phải biết hòa hợp, luôn phải đấu tranh và tự đấu tranh với chính mình để vượt lên những đòi hỏi sai lệch của thể xác và những dung tục đời thường. Sự khập khiễng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” không chỉ khiến cho bản thân Trương Ba cảm thấy khổ đâu mà còn gây nỗi muộn phiền cho người thân. Những lời đối thoại của hồn Trương Ba với những người thân trong gia đình đã cho thấy một Trương Ba rất khác. Vợ ông cảm thấy đau khổ và buồn bã hơn cả khi ông mất. Cháu gái của ông còn xua đuổi ông vì bàn tay to bè, chân như cái xẻng đã thô lô giẫm chết mấy chồi non mà ông nội Trương Ba của nó trồng. Chị con dâu vốn là người hiểu biết và rất mực thông cảm cho ông cũng phải thừa nhận: “có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”. Có thể thấy rằng trong mắt những người thân của mình, Trương Ba đã biến thành một con người khác. Dù ông có cố gắng thế nào thì cũng không thể trở lại hình ảnh một ông lão làm vườn chăm chỉ, hiền lành được mọi người yêu quý. Dù Trương Ba có sống lại nhưng trong xác anh hàng thịt, mọi người thân đều không thể cảm thấy được đây là chồng, là cha, là ông của mình. Bi kịch ấy chính là bi kịch sống mà không được thừa nhận. của hồn Trương Ba lúc này là bi kịch không được thừa nhận. Bản thân mình không chấp nhận được mình và gia đình cũng không thể chấp nhận được con người mình, hồn Trương Ba trở nên vô cùng đau khổ và tuyệt vọng. Chính vì thế mà Trương Ba đã có một quyết định dứt khoát: “Tôi không muốn nhập vào hình thù của ai hết. Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!”. Ngay cả khi Đế Thích thuyết phục hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tỵ nhưng ông vẫn quả quyết: “cứ để cho tôi được chết hẳn”. Bởi lẽ, “không thể bên trong 1 đằng, bên ngoài 1 nẻo được” và sống nhờ vào thân xác của người khác thì không còn là chính mình, như thế thì cuộc sống không phải là sống mà chỉ là một chuỗi bi kịch mà thôi. Đây có thể nói là một tư tưởng, một lẽ sống hết sức lớn lao. Vì ý nghĩa đích thực của cuộc sống là con người được sống với chính mình. Mọi sự giả tạo, chắp vá đều không thể đem lại sự thoải mái và hạnh phúc. Kết thúc vở kịch, hồn Trương Ba đã rời khỏi xác anh hàng thịt tưởng chừng như là một cái kết không có hậu nhưng đó lại là cái kết đẹp nhất. Lưu Quang Vũ đã để một cái kết khiến người đọc vừa thở phào vừa phải trăn trở suy nghĩ. Cu Tỵ sống lại, còn hồn Trương Ba vẫn sống trong ánh lửa nấu cơm, trong vườn cây, trong những điều tốt lành xung quanh mọi người. Đó chính là một cái kết viên mãn nhất, trong đó con người cần phải sống cho ra sống, sống là đích thực chính mình. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đã cho chúng ta thấy những bài học về lẽ sống, về cái chết và về hạnh phúc của con người. Qua vở kịch, Lưu Quang Vũ cũng thể hiện sự phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Con người sống mà chỉ biết đến thỏa mãn những đòi hỏi tầm thường mà dần đánh mất mình. Cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi mà được sống là chính mình, được hòa nhập với cộng đồng, với xã hội. Phân tích tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Bài số 2 Lưu Quang Vũ – một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 của thế kỉ XX. Ông là nhà sọan kịch, nhà thơ, nhà văn hiện đại của việt Nam. Ông sinh ra tại huyện Hạ Hòa tỉnh Phú Thọ nhưng quê gốc ở thành phố Đà Nẵng. Ông đã để lại nhiều tác phẩm đồ sộ. Các tác phẩm của ông đã để lại một dấu ấn đáng kể trong lòng công chúng Việt Nam. Các vở kịch, truyện ngắn, thơ của Lưu Quang Vũ giàu tính hiện thực và nhân văn cũng như in đậm dấu ấn của từng giai đoạn trong cuộc sống của ông. Rất nhiều các tác phẩm của ông đã làm sôi động sân khấu Việt Nam thời kỳ đó. “Hồn Trương Ba da hàng thịt” là minh chứng cho điều đó. Hồn Trương Ba da hàng thịt là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981. Vở kịch kể về Trương Ba một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của “tiên cờ” Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu “sửa sai” bằng cách cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba và một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú và người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quy định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác giả dần tạo nên một mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương Ba. Đoạn trích là đoạn kết, tập trung phản ánh tư tưởng chủ đề của vở kịch: Bi kịch của con người khi bị đặt vào nghịch cảnh phải sống nhờ, sống tạm và trái tự nhiên khiến tâm hồn nhân hậu bị tha hóa trước sự lấn át của thể xác phàm tục, thô lỗ. Vẻ đẹp tâm hồn của người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách. Mở đầu là cảnh hồn Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi đứng vụt dậy, nói những câu đầy bực bội, bức xúc: Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tiếp sau đó, hồn Trương Ba tách khỏi thân xác anh hàng thịt và cuộc đối thoại giữa hồn và xác bắt đầu. Hồn bức bối bởi không thể nào thóat khỏi các thân xác mà hồn ghê tởm. Xác hàng thịt thì cười nhạo, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê ghớm của mình, dồn hồn vào thế đuối lí, thỏa hiệp với Hồn Trương Ba “chẳng còn cách nào khác đâu vì cả hai đã hòa vào làm một rồi”. “Tôi thông cảm với những "trò chơi tâm hồn của ông Nghĩa là: Những lúc một mình một bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh, vì để sống mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong điều xấu gì ông cứ việc đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản. Tôi biết: Cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện, Hà hà, miễn là… ông vẫn làm đủ mọi việc để thỏa mãn những thèm khát của tôi. Hồn Trương Ba tuy vẫn khăng khăng phủ nhận lí lẽ của xác hàng thịt: Lí lẽ của anh thật ti tiện, nhưng rõ ràng là đã lâm vào tình thế tuyệt vọng và chỉ biết than: Trời!” Trước lí lẽ đó, Trương Ba đã mắng mỏ xác thịt, nhưng cũng tuyệt vọng đành phải nhập trở lại vào xác thịt trong tuyệt vọng. Màn đối thọai giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt là ẩn dụ về cuộc đấu tranh giữa tâm hồn và thể xác trong một con người. Linh hồn luôn đấu tranh để vượt lên những đòi hỏi không chính đáng của thể xác. Qua đó, Lưu Quang Vũ cũng cảnh báo khi con người chung sống với dung tục sẽ bị dung tục lấn át thắng thế và tàn phá những điều tốt đẹp cao quý trong con người. Màn đối thọai giữa Trương Ba và người thân. Cuộc đối thọai với vợ, con dâu và cháu gái càng khiến Trương Ba đau khổ hơn. Vợ Trương Ba buồn bã trách móc chồng: “ông bây còn biết đến ai nữa ! Cu Tị ốm thập tử nhất sinh, từ đêm qua tới giờ bắt đầu mê man, mẹ nó khóc đỏ con mắt. Khổ! Thằng bé ngoan là thế ! Cái Gái thương bạn, ngơ ngẩn cả người… Không hiểu thằng bé có qua khỏi được không, khéo mà… Cái thân tôi thì sao trời lại không bắt đi cho rảnh ! “ Bà nhường Trương Ba cho cô vợ anh hàng thịt “Để ông được thảnh thơi… với cô vợ người hàng thịt.. Còn hơn là thế này…” Với cô con dâu là người thương ông, hiểu ông nhất ban đầu chấp nhận nhưng cũng không thể khiến ông đau lòng về thực tại phũ phàng với sự thật ông đang đột lốt xác hàng thịt thô kệch. “Con càng thương thầy, nhưng thầy ơi, làm sao, làm sao giờ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia ? Làm thế nào, thầy ơi” Chị con dâu đã nhận xét rất đúng, rất đầy đủ về tình cảnh nan giải của Trương Ba lúc này. Bi kịch được đẩy lên đến đỉnh điểm buộc nhân vật phải đứng trước sự lựa chọn. Lời độc thọai nội tâm của Trương Ba là những câu mang tính chất tự vấn bộc lộ thái độ quyết liệt trong đấu tranh “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm đủ mọi cách để lấn át ta… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác”. Mày nói như thế hả? Nhưng có thật ta không còn cách nào khác? Không cần cái đời sống do mày mang đến. Không cần!” Để củng cố thêm quyết tâm, Trương Ba thắp nhang cầu khẩn sự giúp đỡ của vị tiên cờ Đế Thích và thổ lộ nỗi khổ tâm của mình: “Ông Đế Thích ạ! Tôi không thể tiếp tục mang thân xác anh hàng thịt được nữa, không thể được.. Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” Nhưng Đế Thích khuyên Trương Ba chấp nhận vì thế giới không tòan vẹn, thể hiện cái nhìn quan lieu hời hợt về cuộc sống con người. Con người là một thể thống nhất, hồn xác phải đồng thuận. Sống phải là chính mình. Mâu thuẫn kịch được đẩy lên cao hơn với chi tiết cu Tị con chị Lụa hàng xóm sắp chết. Cu Tị là bạn thận của cái Gái! cháu nội ông Trương Ba. Đế Thích nhân cơ Hội này đề nghị Trương Ba nhập hồn vào xác cu Tị. Trương Ba suy nghĩ rất nhanh, hình dung rất nhanh về hậu quả của sự việc đó để rồi từ chối, bởi những rắc rối mà ông đang phải chịu đựng đã khiến ông vô cùng khổ sở, khổ sở hơn là chết. Nhưng Trương Ba đã kiên quyết từ chối, không chấp nhận cái cảnh sống giả tạo, mà theo ông là chỉ có lợi cho đám chức sắc, tức lão lí trưởng và đám trương tuần, không chấp nhận cái cuộc sống mà theo ông là còn khổ hơn là cái chết. Trương Ba kêu gọi Đế Thích hay sửa sai bằng một việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho bé Tị. Đế Thích cuối cùng cũng đã thuận theo đề nghị của Trương Ba với lời nhận xét: “Con người hạ giới các ông thật kì lạ”. Với màn kết Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch và hoá thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của mình. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật của muôn đời. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan đồng thời truyền đi thông điệp về sự chiến thắng của cái Thiện, cái Đẹp và của sự sống đích thực. Tóm lại, Hồn Trương Ba da hàng thịt là một vở kịch xuất sắc của Lưu Quang Vũ hấp dẫn lôi cuốn người đọc bởi sự giằng xé nội tâm nhân vật mãnh liệt. Qua đó, ông cũng phê phán tình trạng con người sống giả tạo, không sống thật với bản thân mình là điều không đúng đắn. Vở kịch cũng đã thức tỉnh giới trẻ cũng như để lại trong lòng độc giả một dấu ấn khó phai. Phân tích tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Bài số 3 Lưu Quang Vũ thoạt đầu được nhiều người biết đến với tư cách nhà thơ. Nhưng về sau, ông gây được tiếng vang và đặc biệt được biết tới một với tư cách một nhà viết kịch tài ba. Những năm tám mươi, kịch của Lưu Quang Vũ đã chiếm lĩnh sàn diễn của rất nhiều nhà hát. Lưu Quang Vũ mang khát vọng được bày tỏ, muốn được thể hiện tâm hồn mình vào thế giới xung quanh, muốn được tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gứi và dâng hiến. Khi đất nước bước vào thời kì vận động đổi mới, ý thức dân chủ trong đời sống xã hội đã ùa vào văn học. Hiện thực được phản ánh mang tính đa diện, đa chiều. Số phận con người, vấn đề cá nhân được khám phá, thể hiện đầy đu hơn, sâu sắc hơn. Khát vọng được tham dự, được trao gứi. dâng hiến, khát vọng về cái đẹp, cái thiện, về sự hoàn thiện nhân cách con người vừa là ý thức công dân vừa trớ thành nhiệt hứng nghệ sĩ ờ Lưu Quang Vũ. Lúc ấy, viết kịch chính là hình thức có điều kiện tham dự, “xung trận” trực tiếp. Hồn Trương Ba, da hàng thịt được sáng tác theo hướng khai thác cốt truyện dân gian và gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống hiện thời. Truyện dân gian gây kịch tính sau khi hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt dẫn tới “vụ tranh chấp” chồng của hai bà vợ phải đưa ra xử, bà Trương Ba thắng kiện được đưa chồng về. Lưu Quang Vũ khai thác tình huống kịch bắt đầu ở chỗ kết thúc của tích truyện dân gian. Khi hồn Trương Ba được sống “hợp pháp” trong xác anh hàng thịt, mọi sự càng trở nên rắc rối, éo le để rồi cuối cùng đau khổ, tuyệt vọng khiến Hồn Trương Ba không chịu nổi phải cầu xin Đế Thích cho mình được chết hẳn. Xâv đựng tình huống và giải quyết xung đột như vậy, Lưu Quang Vù đã gứi gắm một triết lí sâu sắc về lẽ sống, lẽ làm người: cuộc sống thật đáng quý, nhưng không phải sống thế nào cũng được. Nếu sống vay mượn, sống chắp vá, không có sự hài hòa giữa vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách và nhu cầu vật chất thì con người chỉ gặp bi kịch mà thôi. Cuộc sống của mỗi con người chỉ thực sự hanh phúc, chỉ có giá trị khi được sống đúng là mình, được sống tự nhiên trong một thể thống nhất. Đó là chủ đề tư tưởng chính của vở kịch. Tài năng kịch của Lưu Quang Vũ thể hiện trên nhiều phương diện, tiêu biểu nhất là tài dựng cảnh và dựng đối thoại. Kịch tính căng ra trong những xung đột, những mâu thuẫn bên ngoài và bên trong nhân vật. Ngôn ngữ hành động và ngôn ngữ nội tâm được diễn tả sống động, lời thoại thấm đẫm triết lí nhân sinh. Đoạn trích có thể gọi là “Thoát ra nghịch cảnh” là cảnh cuối, đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm. Sau mấy tháng sống trong tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trờ nên xa lạ với bạn bè, người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình. Hồn Trương Ba cảm thấy không thể sống trong “da” anh hàng thịt, không thế kéo dài “nghịch cảnh” mãi được. Hồn muốn tách ra khỏi cái thân xác kềnh càng, thô lỗ. Trong tình trạng ấy; nhà văn đã sáng tạo khi dựng lên đoạn đối thoại giữa hồn và xác để rồi trước sự giễu cợt, mỉa mai của xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba càng trở nên đau khổ, bế tắc. Thái độ cư xử của người thân trong gia đình càng khiến hồn tuyệt vọng. Hồn Trương Ba đã châm hương gọi Đế Thích, hai bên đang đối thoại thì cu Tị chết. Đế Thích gợi ý để hồn rời xác anh hàng thịt sang xác cu Tị. Nhưng hồn Trương Ba, sau một “quãng đời” vô cùng thấm thía, hình dung ra những “nghịch cảnh” khác khi phải sống trong thân xác một đứa bé đã quyết định xin cho cu Tị được sống và mình được chết hẳn. Đúng là “nghịch cảnh” trớ trêu. Lưu Quang Vũ đã dựng lên hai cuộc đối thoại đặc sắc (đối thoại giữa hồn và xác và đối thoại giữa hồn và Đế Thích) cùng những đối thoại hỗ trợ khác (hồn với người vợ, với cái Gái, với chị con dâu) để đẩy xung đột nội tâm của hồn Trương Ba lên đến tận cùng từ đó ý nghĩ tư tưởng, những triết lí nhân sinh được phát biểu một cách sâu sắc, thấm thía. Trước khi diễn ra cuộc đổì thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho hồn Trưưng Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết: Không! Không! Tỏi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ớ không phải là cùa tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi. ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”. Rõ ràng, hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ. Những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với cái ước nguyện khắc khoải của hồn đã nói lên điều đó. Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ đâu còn là một người làm vườn chăm chỉ, hết lòng thương yêu vợ con, quan tâm tới hàng xóm láng giềng như ngày trước. Ông Trương Ba được mọi người kính trọng đã chết rồi. Trương Ba bây giờ vụng về. thô lỗ, phũ phàng lắm. Người đọc, người xem càng lúc càng được thấy rõ điều đó qua các đối thoại và hồn Trương Ba cũng cáng lúc rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng. Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn hồn vẫn phải thừa nhận Đó là cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thớ nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì…”. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây hồn cho là “phàm. Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mùi”, … tất cả đều là sự thật. Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy minh ti tiện. Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn.”. Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo, khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu. Không chỉ đau khổ, hồn còn xấu hổ trước những lời nói công khai của xác mà trước đó hồn đã cảm thấy mà không muốn nói ra, không muốn thừa nhận. Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những người thân. Người vợ mà ông rất mực vêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà “đi đâu cũng được… còn hơn là thế này”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cám nhận được: “ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình cảm của ông: tôi không phải là cháu ông.. Ông nội tôi chết rồi. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả câv sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cụ Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó “ông nội đời nào, thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”. Chị con dâu là người sâu sắc. chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa..”. Tất cả những người thân yêu của hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ khổ nhưng “cũng không khổ bằng bây giờ”. Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần… lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào. Đặc biệt sau hàng loạt câu hỏi có vẻ tuyệt vọng của chị con dâu: “Thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại. hiền hậu, vui vẻ tốt lành như thầy của chúng cơn xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?” thì đương nhiên hồn không thể chịu đựng thêm được nữa. Nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ.. Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác”! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát. Cuộc trò chuyện giừa hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gởi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn… Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Người đọc, người xem có thế nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gứi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng chênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện. Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ "bao nhiêu sự rắc rối” vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống. Cái chết cua cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ “mở nút”. Dựng tả quá trình đi đến quyết định dứt khoát của nhân vật hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đảm bảo được tính tự nhiên, hợp lí của tác phẩm. Không chỉ có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, với tinh thần chiến đấu thẳng thắn của một nghệ sĩ hăng hái tham dự vào tiến trình cải cách xã hội, trong vở kịch này nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chi thích hường thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Nói như Chế Lan Viên trong một bài thơ đã từng cánh báo “muốn nuôi sống xác thân đem làm thịt linh hồn”. Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Thực chất đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không tưởng. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán. Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi. Lưu Quang Vũ đã chết một cách rất thương tâm trong một tai nạn giao thông. Khoảng trống mà nhà viết kịch tài ba ấy để lại trong nền sân khấu Việt Nam là không thế lấp đầy. Vở kịch cuối cùng được Lưu Quang Vũ đặt tên là Chim sâm cầm không chết. Với tất cả những gì để lại cho đời thì mãi mãi Lưu Quang Vũ không chết. Từ bấy đến nay, Hồn Trương Ba, da hàng thịt và gần 50 vờ kịch khác của Lưu Quang Vũ vẫn được dàn dựng và công diễn. Những triết lí về cuộc đời, về con người, về xã hội… đặt ra trong các vở kịch luôn có ý nghĩa với mọi người, mọi thời. Phân tích tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Bài số 4 Trong làng kịch nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ – một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở nhiều lĩnh vực như viết truyện ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh… nhưng ông được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại. Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là vở "Hồn Trương Ba, da hàng thịt". Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đem đến cho người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt. Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981, công diễn lần đầu tiên năm 1984, sau đó được diễn lại nhiều lần trong và ngoài nước. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con người. Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của "tiên cờ" Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu "sửa sai" bằng cách cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba và một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác giả dần tạo nên một mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương Ba 1. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt: Có thể nói Trương Ba đã chết một cách vô lí, ai cũng biết cái chết của Trương Ba là do sự vô tâm và tắc trách của Nam Tào. Nhưng sự sửa sai của Nam Tào và Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn là linh hồn mình phải trú nhờ trong thể xác của kẻ khác. Do phải sống nhờ thể xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa kia, nay vì phải sống mượn, vá lắp, tạm bợ và lệ thuộc nên chẳng những đã không sai khiến được xác thịt thô phàm của anh hàng thịt mà trái lại còn bị cái xác thịt ấy điều khiển. Đáng sợ hơn, linh hồn Trương Ba dần dần bị nhiễm độc bởi cái tầm thường của xác thịt anh đồ tể. Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ (Những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải). Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng.Ý thức được điều đó linh hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác. Xác hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vô ích, đã cười nhạo hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình, ranh mãnh dồn hồn Trương Ba vào thế đuối lí và hơn nữa, ve vãn hồn Trương Ba thoà hiệp vì, theo lí lẽ của xác thịt là "chẳng còn cách nào khác đâu", vì cả hai "đã hoà vào nhau làm một rồi". Trước những "lí lẽ ti tiện" của xác thịt, Trương Ba đã nổi giận, đã khinh bỉ, đã mắng mỏ xác thịt hèn hạ nhưng đồng thới cũng ngậm ngùi thấm thía nghịch cành mà mình đã lâm vào, đành nhập trở lại vào xác thịt trong tuyệt vọng. Hai hình tượng hồn Trương Ba và xác hàng thịt ở đây mang ý nghĩa ẩn dụ. Một bên đại điện cho sự trong sạch, nhân hậu và khát vọng sống thanh cao, xứng đáng với danh nghĩa con người và một bên là sự tầm thường, dung tục. Nội dung cuộc đối thoại xoay quanh một vấn đề giàu tính triết lí, thể hiện cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người. Từ đó nói lên khát vọng hướng thiện của con người và tầm quan trọng của việc tự ý thức, tự chiến thắng bản thân Màn đối thoại này cho thấy: • Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hoá. • Không chỉ đừng lại ở đó, tác giả cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ thắng thế, sẽ lấn át và sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người. 2. Màn đối thoại giữa Trương Ba với người thân Không phải ngẫu nhiên, tác giả không đưa anh con trai thực dụng của Trương Ba vào cuộc đối thoại của Trương Ba với những người thân. Các cuộc đối thoại với vợ con dâu và cháu gái càng làm cho Trương Ba đau khổ hơn. ông hiểu những gì mình đã, đang và sẽ gây ra cho người thân là rất tệ hại nặc dù ông không hề muốn điều đó. Thái độ của vợ trương Ba, con đâu và cháu gái trước sự biến đổi và tha hoá của Trương Ba. • Vợ Trương Ba buồn bã, đau khổ nhưng vốn bàn tính vị tha nên định nhường Trương Ba cho cô vợ anh hàng thịt. • Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, "khổ hơn xưa nhiều lắm". Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình "như sắp tan hoang ra cả" khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: "Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…". • Trái lại, cái Gái, cháu Trương Ba thì phản ứng quyết liệt và dữ dội. Tâm hồn tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung tục nên không chấp nhận người ông trong thể xác anh hàng thịt thô lỗ. Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân (tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi). Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có "bàn tay giết lợn", bàn chân "to bè như cái xẻng" đã làm "gãy tiệt cái chồi non", "giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm" trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, "Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy". Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!". Tuy nhiên, họ chỉ là những người dân thường, họ không giúp gì được cho tình trạng hiện tại của Trương Ba. Tình huống kịch thúc đẩy Trương Ba phải lựa chọn và sau màn độc thoại nội tâm (hồn Trương Ba thách thức xác anh hàng thịt: "có thật là không còn cách nào khác?" và phản kháng quyết liệt: "Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!". !". Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát. 3. Màn đối thoại giữa. Trương Ba với Đế Thích Gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối từ, không chấp nhận cái cảnh phải sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo nữa và muốn được là mình một cách toàn vẹn "Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn". Qua lời thoại này của nhân vật Trương Ba. Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm vào đó thông điệp: Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hoà. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi. Khi con người bị chi phối bở những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng đỗ lỗi cho thân xác và tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Lúc đầu Đế Thích ngạc nhiên nhưng khi hiểu ra thì khuyên Trương Ba nên chấp nhận vì thế giới vốn không toàn vẹn, dưới đất, trên trời đều thế cả. Nhưng Trương Ba không chấp nhận lí lẽ đó. Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: "Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết". Sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chấp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Lòng tốt hời hợt thì chẳng đem lại điều gì thực sự có ý nghĩa cho ai mà sự vô tâm còn tệ hại hơn, nó đẩy người khác vào nghịch cảnh, vào bi kịch! Đế Thích định tiếp tục sửa sai của mình và của Tây Vương Mẫu bằng một giải pháp khác, tệ hại ít hơn là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba đã kiên quyết từ chối, không chấp nhận cái cảnh sống giả tạo, mà theo ông là chỉ có lợi cho đám chức sắc tức lão lí trưởng và đám trương tuần, không chấp nhận cái cuộc sống mà theo ông là còn khổ hơn là cái chết. Trương Ba kêu gọi Đế Thích hay sửa sai bằng một việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho bé Tị. Đế Thích cuối cùng cũng đã thuận theo đề nghị của Trương Ba với lời nhận xét: "Con người hạ giới các ông thật kì lạ". Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện. Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời chúng ta đang sống. Tuy vậy, chỉ cần nhấn mạnh ở đây vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp với lẽ tự nhiên cùng sự hoàn thiện nhân cách. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở đây. 4. Màn kết: Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hôn được trong sạch và hoá thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của mình. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật của muôn đời. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan đồng thời truyền đi thông điệp về sự chiến thăng của cái Thiện, cái Đẹp và của sự sống đích thực. Không chỉ có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, rong vở kịch nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ: Thứ nhất , con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Thứ hai , lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán. Ngoài ra , vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi. Với tất cả những ý nghĩa đó, đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch của Lưu Quang Vũ. Đoạn trích đã vạch trần bộ mặt đạo đức giả của giới thượng lưu đương thời Nguyễn Tuyến tổng hợp Phân tích tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Văn mẫu lớp 12Đánh giá bài viết Có thể bạn quan tâm?Nghị luận xã hội về chủ đề: Giữ lấy truyền thống dân tộc – Văn mẫu lớp 12Phân tích bài thơ Tây tiến (Quang Dũng) – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về chữ nhẫn – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về câu tục ngữ: Hùm chết để da, người ta chết để tiếng – Văn mẫu lớp 12Thuyết minh về Bến Nhà Rồng – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về câu tục ngữ: Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về lời dạy của Đức Phật: Giọt nước chỉ hòa vào biển cả mới không cạn mà thôi – Văn mẫu lớp 12Nghị luận xã hội về hiện tượng tiếp nhận văn hoá ngoại lai của giới trẻ hiện nay – Văn mẫu lớp 12
Phân tích tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Bài số 1
“Hồn Trương Ba da hàng thịt” là một vở kịch nổi tiếng được Lưu Quang Vũ xây dựng dựa trên một câu chuyện dân gian về nhân vật Trương Ba giỏi chơi cờ và cái chết oan ức của ông. Thế nhưng điểm mới của vở kịch này chính là một kết thúc hoàn toàn khác với kết thúc truyện dân gian. Thông qua vở kịch, Lưu Quang Vũ đã gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, đồng thời kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống đương thời.
Dựa trên cốt truyện dân gian, vở kịch cũng xây dựng nhân vật Trương Ba là một lão nông làm vườn hiền lành, được mọi người yêu quý và rất giỏi chơi cờ. Nam Tào vì tắc trách trong công việc cho nên bắt chết nhầm Trương Ba. Đế Thích – một vị tiên cờ và cũng là bạn của Trương Ba – đã giúp hồn Trường Ba nhập vào xác anh hàng thịt cũng vừa mới chết. Trong truyện dân gian, kịch tính được xây dựng là cảnh hai bà vợ cùng tranh chồng trên quan nha. Và sau thì vợ Trương Ba thắng kiện và đưa chồng mình về nhà.
Không dừng lại ở một kết thúc đẹp như vậy, Lưu Quang Vũ đã tiếp tục khai thác kết thúc của tích truyện dân gian. Khi hồn Trương Ba được sống trong xác anh hàng thịt thì cuộc sống của ông lại trở nên éo le, khập khiễng. Quá đau khổ và tuyệt vọng, cuối cùng Trương Ba đã xin Đế Thích cho mình được chết hẳn, vì “không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”. Xây dựng tình huống đầy kịch tính và cách giải quyết tình huống như vậy, Lưu Quang Vũ muốn thể hiện một triết lý về lẽ sống: cuộc sống thật đáng quý, nhưng không phải sống thế nào cũng được. Nếu sống vay mượn, chắp vá, không có sự hòa hợp về tâm hồn và thể xác thì con người chỉ gặp những bi kịch mà thôi. Cuộc sống chỉ thực sự hạnh phúc khi chúng ta được sống là chính mình, được hài hòa cả về thể chất lẫn tinh thần. Đây cũng chính là nội dung tư tưởng chủ đạo mà tác phẩm muốn hướng đến.
Để làm nổi bật tư tưởng này, Lưu Quang Vũ đã xây dựng những xung đột xung quanh nhân vật Trương Ba để cho người đọc người xem thấy được sự khập khiễng giữa “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Trước hết là xung đột thể hiện qua màn đối thoại giữa hồn và xác. Đây cũng là xung đột chính, xung đột có tính quan trọng nhất trong vở kịch.
Trương Ba trước kia vốn nhân hậu, nhưng từ khi nhập vào xác anh hàng thịt bỗng dần đổi khác: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt, không còn mặn mà với thú vui thanh cao trí tuệ. Điều ấy làm cho hồn Trương Ba vô cùng đau khổ và ghê tởm thân xác kềnh càng, thô lỗ mà mình đang mang. Chính vì thế mà hồn Trương Ba muốn được sống là một ông Trương Ba chăm chỉ hiền lành nhưng lại bị cái xác chế giễu, bị ép phải thoải mãn những yêu cầu phàm tục. Những lý lẽ mà hồn Trương Ba đưa ra dần đuối lý và ngày càng nhận trở nên bất lực, chỉ biết thở dài buông ra những lời tuyệt vọng bởi hồn đang ngày càng bị xác chi phối mạnh mẽ.
Cuộc xung đột này đã cho thấy, thể xác cũng có tiếng nói bản năng, cũng có những nhu cầu đòi hỏi phải được đáp ứng. Chính vì thế, ý thức của con người cũng chịu một phần sự chi phối của thể xác. Nhưng con người, cần phải biết hòa hợp, luôn phải đấu tranh và tự đấu tranh với chính mình để vượt lên những đòi hỏi sai lệch của thể xác và những dung tục đời thường.
Sự khập khiễng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” không chỉ khiến cho bản thân Trương Ba cảm thấy khổ đâu mà còn gây nỗi muộn phiền cho người thân. Những lời đối thoại của hồn Trương Ba với những người thân trong gia đình đã cho thấy một Trương Ba rất khác. Vợ ông cảm thấy đau khổ và buồn bã hơn cả khi ông mất. Cháu gái của ông còn xua đuổi ông vì bàn tay to bè, chân như cái xẻng đã thô lô giẫm chết mấy chồi non mà ông nội Trương Ba của nó trồng. Chị con dâu vốn là người hiểu biết và rất mực thông cảm cho ông cũng phải thừa nhận: “có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”.
Có thể thấy rằng trong mắt những người thân của mình, Trương Ba đã biến thành một con người khác. Dù ông có cố gắng thế nào thì cũng không thể trở lại hình ảnh một ông lão làm vườn chăm chỉ, hiền lành được mọi người yêu quý. Dù Trương Ba có sống lại nhưng trong xác anh hàng thịt, mọi người thân đều không thể cảm thấy được đây là chồng, là cha, là ông của mình. Bi kịch ấy chính là bi kịch sống mà không được thừa nhận. của hồn Trương Ba lúc này là bi kịch không được thừa nhận.
Bản thân mình không chấp nhận được mình và gia đình cũng không thể chấp nhận được con người mình, hồn Trương Ba trở nên vô cùng đau khổ và tuyệt vọng. Chính vì thế mà Trương Ba đã có một quyết định dứt khoát: “Tôi không muốn nhập vào hình thù của ai hết. Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!”. Ngay cả khi Đế Thích thuyết phục hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tỵ nhưng ông vẫn quả quyết: “cứ để cho tôi được chết hẳn”. Bởi lẽ, “không thể bên trong 1 đằng, bên ngoài 1 nẻo được” và sống nhờ vào thân xác của người khác thì không còn là chính mình, như thế thì cuộc sống không phải là sống mà chỉ là một chuỗi bi kịch mà thôi. Đây có thể nói là một tư tưởng, một lẽ sống hết sức lớn lao. Vì ý nghĩa đích thực của cuộc sống là con người được sống với chính mình. Mọi sự giả tạo, chắp vá đều không thể đem lại sự thoải mái và hạnh phúc.
Kết thúc vở kịch, hồn Trương Ba đã rời khỏi xác anh hàng thịt tưởng chừng như là một cái kết không có hậu nhưng đó lại là cái kết đẹp nhất. Lưu Quang Vũ đã để một cái kết khiến người đọc vừa thở phào vừa phải trăn trở suy nghĩ. Cu Tỵ sống lại, còn hồn Trương Ba vẫn sống trong ánh lửa nấu cơm, trong vườn cây, trong những điều tốt lành xung quanh mọi người. Đó chính là một cái kết viên mãn nhất, trong đó con người cần phải sống cho ra sống, sống là đích thực chính mình.
Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đã cho chúng ta thấy những bài học về lẽ sống, về cái chết và về hạnh phúc của con người. Qua vở kịch, Lưu Quang Vũ cũng thể hiện sự phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Con người sống mà chỉ biết đến thỏa mãn những đòi hỏi tầm thường mà dần đánh mất mình. Cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi mà được sống là chính mình, được hòa nhập với cộng đồng, với xã hội.
Phân tích tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Bài số 2
Lưu Quang Vũ – một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 của thế kỉ XX. Ông là nhà sọan kịch, nhà thơ, nhà văn hiện đại của việt Nam. Ông sinh ra tại huyện Hạ Hòa tỉnh Phú Thọ nhưng quê gốc ở thành phố Đà Nẵng. Ông đã để lại nhiều tác phẩm đồ sộ. Các tác phẩm của ông đã để lại một dấu ấn đáng kể trong lòng công chúng Việt Nam. Các vở kịch, truyện ngắn, thơ của Lưu Quang Vũ giàu tính hiện thực và nhân văn cũng như in đậm dấu ấn của từng giai đoạn trong cuộc sống của ông. Rất nhiều các tác phẩm của ông đã làm sôi động sân khấu Việt Nam thời kỳ đó. “Hồn Trương Ba da hàng thịt” là minh chứng cho điều đó.
Hồn Trương Ba da hàng thịt là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981. Vở kịch kể về Trương Ba một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của “tiên cờ” Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu “sửa sai” bằng cách cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba và một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú và người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quy định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác giả dần tạo nên một mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương Ba. Đoạn trích là đoạn kết, tập trung phản ánh tư tưởng chủ đề của vở kịch: Bi kịch của con người khi bị đặt vào nghịch cảnh phải sống nhờ, sống tạm và trái tự nhiên khiến tâm hồn nhân hậu bị tha hóa trước sự lấn át của thể xác phàm tục, thô lỗ. Vẻ đẹp tâm hồn của người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.
Mở đầu là cảnh hồn Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi đứng vụt dậy, nói những câu đầy bực bội, bức xúc: Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tiếp sau đó, hồn Trương Ba tách khỏi thân xác anh hàng thịt và cuộc đối thoại giữa hồn và xác bắt đầu. Hồn bức bối bởi không thể nào thóat khỏi các thân xác mà hồn ghê tởm. Xác hàng thịt thì cười nhạo, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê ghớm của mình, dồn hồn vào thế đuối lí, thỏa hiệp với Hồn Trương Ba “chẳng còn cách nào khác