Phân tích tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu) – Văn mẫu lớp 11
Nội dung bài viết1 Phân tích tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu) – Bài số 1 2 Phân tích tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu) – Bài số 2 3 Phân tích tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu) – Bài số 3 4 Phân tích tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu) – ...
Nội dung bài viết1 Phân tích tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu) – Bài số 1 2 Phân tích tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu) – Bài số 2 3 Phân tích tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu) – Bài số 3 4 Phân tích tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu) – Bài số 4 Phân tích tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu) – Bài số 1 Đoạn trích lẽ ghét thương là một trong những đoạn trích nằm trong tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu. Nhân vật được nói đến trong đoạn trích này là ông Quán – một con người yêu ghét phân minh, tình cảm rõ ràng, trong sáng và luôn nghĩ cho mọi người, cho dân, cho nước. Đây chính là nhân vật phát ngôn cho tư tưởng của tác giả. Thông qua đoạn trích, tác giả đã hóa thân vào nhân vật để nói lên sự yêu ghét những lề thói trong cuộc sống đời thường. Trong mỗi câu thơ tác giả lại nói lên một vấn để cụ thể mà nhân vật Quán ghét: Quán rằng:"Ghét việc tầm phào" Ghét cay, ghét đắng vào tận tâm. Tác giả đã liệt kê tất cả những điều mà nhân vật của ông ghét, Từ ghét những việc hão huyền, không ý nghĩa, đến ghét người, với những tên tuổi bằng chứng cụ thể. Trong mỗi vấn đề cụ thể ấy tác giả đã sử dụng nghệ thuật điệp từ "ghét" tới ba lần trong một câu thơ cùng với nghệ thuật tăng cấp: từ cái ghét vị cay, vị đắng đến cái ghét sâu trong tâm khảm của lòng người. Nhà thơ đã diễn tả được cái màu sắc, mùi vị và độ sâu của cái ghét. Với cách diễn đạt này, Nguyễn Đình Chiểu cho chúng ta thấy cái ghét của ông Quán là cái ghét đã ăn sâu vào trong tâm hồn, cái ghét của lòng chính trực, chân thành. Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang Ghét đời U, Lệ đa đoan Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần Nhà thơ đã mạnh bạo nhắc đến các vị vua trong lịch sử Trung Quốc như Kiệt, Trụ, U, Lệ, đó là những vị vua xấu xa, đồi bại, chỉ lo ăn chơi hưởng lạc, không lo cho dân cho nước. Trong những triều vua đó, dân phải "sa hầm sẩy hang", phải "chịu lầm than muôn phần"… Một người mù, phải làm nhiều nghề để kiếm sống nhưng ông luôn thể hiện lòng yêu nước của mình, lòng lo cho dân cho nước là người có tâm huyết với nhân dân, có quan điểm vì dân mới có được những tâm sự chân thành đến vậy. Do đó có thể thấy nguồn gốc của "nỗi ghét" ấy chính là tình thương. Vì lo cho dân, yêu dân, suốt đời chiến đấu cho lẽ phải, Đồ Chiểu đã được hình tượng ông Quán để nói lên sự phẫn uất của mình và đó cũng chính là nỗi phẫn uất chung của nhân dân. Khi đã nói được hết cái ghét của mình, ông mới bày tỏ cái thương, vì thương dân nên mới ghét những kẻ gây đau khổ cho dân. Mở đầu, nhà thơ nói thương Khổng Tử vất vả, gian lao trong việc truyền bá Đạo Nho: Thương là thương đức thánh nhân Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông Ông thương cho số phận ngắn ngủi của Thầy Nhan Tử sớm phải lìa đời, bỏ dở con đường công danh. Điều này cho thấy ông Quán rất coi trọng, rất quý người hiền tài, nên ông tiếc cho người tài mà số phận bi đát, tiếc cho nhân loại mất đi một con người nhân đức hiếm có. Và ông thương cho Gia Cát Lượng có tài lớn, chí lớn chỉ tội không gặp thời nên chí nguyện không thành. Ông thương cho cả những người nghèo khổ, có hiếu, có tình nhưng vì danh tiết, không chịu khom lưng uốn gối nên đành cáo quan về ở ẩn như Nguyên Lượng… Những người được ông nhắc đến cùng với từ thương là những người có chí khí, có hiểu nghĩa, có tâm với dân, với nước. "Thương" có nghĩa là đồng tình, là đồng cảm, là khẳng định, là ca ngợi. Quả đúng vậy, vì họ chính là những bậc vĩ nhân quân tử, những người tài cao đức trọng có chí lớn, có mong muốn làm cho nhân dân được no ấm, được sử sách nghi nhận. Dù cuối cùng ước muốn của họ không thành là do gặp bất hạnh, chết yểu hoặc không gặp thời vận. Nếu ở đoạn trên tác giả dùng điệp từ ghét để nói về sự căm ghét những cái xấu xa hại dân hại nước, thì ở đoạn này, tác giả lại dùng điệp từ "thương" để thể hiện rõ tình cảm yêu thương, khâm phục của mình đối với những bậc thánh nhân xưa. Nếu như ở đoạn trên, nhà thơ cho ông Quán nói ghét những kẻ hại dân, hại nước để thể hiện lòng thương lo cho dân, thì ở đoạn này ông lại cho nhân vật trực tiếp bộc lộ lòng thương của mình trước những tài cao, chí lớn nhưng không gặp thời để thi thố tài năng, đành để mộng lớn tan theo mây khói. Ông Quán đã nhìn thấy sự bất hạnh đó và ông tỏ lòng thương, kính trọng một cách chân thành sâu sắc. Đây chính là tình thương của tác giả đối với những số phận gặp nhiều trắc trở trên đường đời. Sau một hồi phân trần về cái ghét và cái thương của mình, tác giả đã có sự tổng kết lại, và khẳng định lại một điều, trong con người ông luôn tồn tại cả cái ghét và cái thương. Điều này khẳng định Nguyễn Đình Chiểu có một tấm lòng sâu sắc đối với dân với nước, mong muốn có những bậc thánh hiền đứng r ache chở bao bọc cho muôn dân. Xem qua kinh sử mấy lần Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương. Qua nhân vật của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho đời một lời nhắn nhủ, một triết lí sống hết sức sâu sắc, con người sống ở đời phải biết thương (yêu) và ghét; phải biết thương cái chính, ghét cái tà: yêu cái đẹp, ghét cái xấu… Và "bởi chưng hay ghét chỉ là hay thương?". Đoạn trích còn đáng quý vì nó đã bộc lộ quan điểm yêu – ghét một cách rất chân thực, phân minh và đôn hậu. Đó không chỉ là quan điểm riêng của tác giả mà còn là cách nghĩ mang phong cách của người dân Nam Bộ. Bằng ngòi bút sắc sảo và tinh tế, tác giả đã thể hiện tấm lòng yêu nước thương dân của mình, đó là tình yêu nhân dân, tình yêu chính nghĩa, ghét gian tà. Trong thòi điểm đất nước loạn lạc, nhân dân chìm trong cảnh cơ cực, phải là những người có tấm lòng cao cả mới thấu hiểu được nỗi khổ cực của người dân. Ý nghĩa của đoạn trích thể hiện nhân cách cao đẹp, đáng quý trọng của nhà thơ. Phân tích tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu) – Bài số 2 Nguyễn Đình Chiểu là ngôi sao sáng trên văn đàn văn học Việt Nam. Người ta ngưỡng mộ ông khi chỉ cái tài mà họ còn ngưỡng mộ bởi cái tâm trong sáng, cái tâm biết yêu thương và trân trọng con người. Ông ra đi nhưng đã để lại cho chúng ta một tác phẩm truyện hay là Lục Vân Tiên. Đặc biệt trong tác phẩm này đoạn trích “Lẽ ghét thương” nổi bật lên những đạo lí về lẽ ghét thương trên đời. Lẽ ghét thương ấy được nhìn qua cái nhìn của ông Quán. Đoạn trích Lẽ ghét thương từ câu 473 đến 504 kể về cuộc nói chuyện giữa nhân vật ông Quán và mấy nho sĩ tuổi trẻ. Lục Vân Tiên cùng bạn là Vương Tử Trực đi thi, vào quán trọ gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm cùng là các sĩ tử. Trịnh Hâm đề nghị bốn người làm thơ để so tài nghệ cao thấp. Trịnh Hâm, Bùi Kiệm thua tài lại còn nghi Lục Vân Tiên và Vương Tử Trực gian lận. Ông Quán nhân đó mới bàn về lẽ ghét thương ở đời. Đồng ông Quán cũng thể hiện khá trực tiếp và phê phán luôn lẽ ghét thương của mình trước bọn tiểu nhân Trịnh Hâm, Bùi Kiệm huênh hoang, khoác lác, bất tài mà bụng dạ lại xấu xa. Đó chính là việc tầm phào mà ông Quán ghét. ông Quán là nhân vật tiêu biểu cho các nhà Nho mai danh ẩn tích, cũng như ông Ngư, ông Tiều, lấy nghề nghiệp mưu sinh làm tên. Có thể coi đây là nhân vật phát ngôn cho tư tưởng của tác giả. Bốn câu thơ đầu là lời của ông Quán khi chứng kiến bọn Trịnh Hâm, Bùi Kiệm đã thua lại còn nói sai lời khiến cho ông phải bật lên những bất bình của mình bằng cách thể hiện lẽ ghét thương trong đời: “Quán rằng: “Kinh sử đã từng, Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa. Hỏi thời ta phải nói ra, Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”. Ông Quán cũng là một tri thức nhưng về mai danh ẩn tích với cái nghề bán quán này. Cũng có một thời vàng son dùi mài kinh sử Như Vân Tiên và mấy người sĩ tử kia. Câu thơ: ” Vì chương hay ghét cũng là hay thương” ông Quán hay chính tác giả cũng đã giải thích cái căn nguyên ghét thương của chính mình. Theo ông chính vì ghét nên mới thương, chính những cái ghét kia đã làm ảnh hưởng đến cái thương của họ. Tiếp đến mười hai câu thơ sau ông Quán thể hiện cái lẽ ghét của mình, những lẽ ghét được phô bày ra thể hiện ông Quán là một người tri thức thẳng thán dám nói dám làm, dám nhìn vào cái sai của đời trước mà nói lên quan điểm của mình: “Tiên rằng: Trong đục chưa tường, Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào? Quán rằng: Ghét việc tầm phào Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm”. Vân Tiên tỏ ra là một người ham học hỏi không tự nhận mình là tài giỏi, cũng không thấy ông Quán chỉ là một người bán quán mà khinh thường ông. Hỏi ông rằng lẽ ghét thương thế nào thì ông Quán bắt đầu nói về những ghét thương của mình. Ông Quán ghét những chuyện tần phào trong thiên hạ. Truyện tầm phào là những chuyện tranh giành nhau đua nhau vớ vẩn trong thiên hạ. đặc biệt ông thể hiện cảm xúc tột độ của mình bằng cách lặp từ ghét và thêm vào đó những tính từ cay đắng. Đó là cái ghét cay ghét đắng ghét vào tới tâm can của ông. Sau đó ông thể hiện sự ghét của mình qua những sự việc cụ thể. Nào là ghét đời Kiệt, đời Trụ vì đam mê nhan sắc nên đã đẩy nhân dân vào những chỗ nguy hiểm, rồi lại đến nhà U nhà Lệ vì đa đoan lắm chuyện mà khiến dân lầm than. Ghét đời Thúc Quí, Ngũ Bá làm cho nhân dân rối ren nhọc nhằn. Có thể nói đó toàn là những triều đại nổi tiếng của Trung Quốc những triều ấy đại diện cho những gì vua chúa làm cho nhan dân phải khổ. Ta thấy ông Quán là một con người hiểu biết học sâu. Ông Quán có một lòng yêu thương nhân dân hết mực thì mới hiểu được nỗi khổ của nhân dân như thế. Những cái gì có hại cho nhân dân là ông ghét hết, không phải ghét bình thường mà ghét cay ghét đắng. Những câu thơ cuối thể hiện sự thương của ông Quán, những người ông thương toàn là những bậc hiền nhân quân tử trung quân ái quốc mà ai cũng biết đến. Nào là tánh nhân như Khổng Tử, rồi lại đến học trò hiếu học như Nhan Tử. Hàng loạt những cái tên của những bậc hiền tài được liệt kê ra Gia Cát, Đồng Tử, Nguyên Lượng, Hàn Dũ. Đó toàn là những người không những có tài mà còn có đức thế nhưng nhiều người trong đó lại có số phận không may mắn người chết sớm, người gặp cảnh loạn lạc cũng chết Ông Quán thương cho những bậc như thế, những người tài đức là những người được kính trọng yêu mến: “Thương là thương đức thánh nhân, Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông. Thương thầy Nhan Tử dở dang. Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh. Thương ông Gia Cát tài lành, Gặp cơn Hán mạt đã đành phui pha. Thương thầy Đồng tử cao xa, Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi. Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi, Lỡ bề giúp nước lại lui về cày. Thương ông Hàn Dũ chẳng may, Sớm dâng lời biểu, tối đày đi xa. Thương thầy Liêm, Lạc đã ra, Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân” Tác giả kết thúc bằng hai câu thơ cuối cùng như tóm lại cái lẽ ghét thương ở trên đời được nhìn qua con mắt của ông Quán. Đó la những điều thể hiện sự hiểu biết của ông quán cũng như tấm lòng của ông đối với cuộc đời. Chính vì ghét nên mới thương nhân dân, người hiền tài. Ông đã từng xem qua nhiều kinh sử và thấy nửa phần ghét nửa phần thương. “Xem qua kinh sử mấy lần, Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương” Đoạn trích trên đã thể hiện rõ tầm nhìn xa trông rộng của một ông chủ quán. Tất cả những triều đại và việc làm sai trái của họ ông đều biết hết, những bậc hiền nhân quân tử ông cũng biết hết. Qua đó thể hiện người tài trong xã hội còn rất nhiều tuy nhiên chỉ là chán ghét mà ở ẩn vui tuổi già mà thôi. ” Chúng ta thật ngưỡng mộ và khâm phục tài đức của ông chủ quán này. Ông là một người tài nhưng không phải kẻ vì danh lợi nên đã chọn cách mai danh ẩn tích để hưởng những thú vui tao nhã của tuổi già. ” Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người đến chốn lao xao”. (Nguyễn Bỉnh Khiêm) Phân tích tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu) – Bài số 3 Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam, cuộc đời của ông đã gắn bó với rất nhiều thể loại văn học và cũng có công rất lớn tạo nên sự phong phú cho thể loại văn học ở Việt Nam, tiêu biểu cho những sáng tác đó là tác phẩm Lẽ Ghét Thương. Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước cả cuộc đời của ông gắn bó với sự nghiệp văn học và những đóng góp lớn của ông đó là góp phần tạo nên những điều kì diệu trong nền văn học Việt Nam. Ông là một người rất quang minh và chính đại nên những lẽ ghét thương trong quan niệm của ông rất rõ ràng, trong tác phẩm này ông đã nói về những lẽ ghét thương đối với dân chúng và đối với kẻ thù xâm lược. Bao nhiêu nỗi lòng của tác giả đã được thể hiện rất chi tiết mở đầu câu thơ đầu tiên tác giả đã nói về những nỗi tầm phào và ông ghét những điều tầm phào đó, ông là một người có tấm lòng yêu nước thương dân vì vậy những việc không đem lại quyền lợi cho dân chúng ông đều căm ghét, đó là những điều thật tuyệt vời trong quan điểm của ông, những điều đó ông đã và đang thực hiện ngày càng tốt và đó là quan điểm sống của ông, một người biết lo cho dân cả đời gắn bó với nhân dân ông luôn mong đợi những điều tốt đẹp nhất cho nhân dân. Trong lẽ ghét thương đó ông đã rất rõ ràng và nó thể hiện những điều nhất định quan trọng, ông thương dân chúng lầm than, và ông ghét những chuyện tầm phào và không đem lại lợi ích cho nhân dân, dân đen vẫn đói khổ và ở đây cần có những chính sách và lợi ích đe lại cho dân chúng những lợi ích cao đẹp nhất cho nhân dân, ông mong cho nhân dân được bình an, có một cuộc sống bình an và hạnh phúc dân chúng thái bình, không phải chịu áp bức bóc lột mà luôn được sống một cuộc sống hạnh phúc nhất. Trong cuộc đời của ông ông luôn phấn đấu để phục mọi điều tốt đẹp nhất cho nhân dân, những điều ông thương đó là đều là phục vụ quyền lợi cho nhân dân, ông đã phấn đấu để làm cho nhân dân có cuộc sống bình an và hạnh phúc, ông luôn luôn phấn đấu để có những điều tốt đẹp nhất cho nhân dân, ông thương dân chúng lầm than, đói khổ, và ông cũng căm ghét những bọn chỉ biết lo cho quyền lợi của bản thân mình mà không biết đến dân chúng, lúc nào cũng chỉ biết đến ăn chơi xa đọa mà không biết phục vụ cho cuộc sống của nhân dân, cả cuộc đời của ông đã phục vụ cho dân chúng, ông ghét bọn quan lại chỉ biết làm những điều tầm phào và không đem lại quyền lợi gì cho nhân dân, ông đã chỉ ra những nỗi ghét thương của chính mình và đó là quan điểm chính trị của một người yêu nước thương dân và có quan điểm thật rõ ràng và đậm chất yêu nước. Những điều ông thương và những điều ông ghét nó cũng mang đậm những nét tương quan sâu sắc bên cạnh những điều thương thiết đó ông luôn tự ý thức được những điều mình cần làm cho dân chúng, ngoài thương những người dân đen lâm vào cơ cực khổ đau ra ông còn thương những người hiền tài luôn phải chịu những cảnh ngộ éo le và thời vận loạn lạc làm cho cuộc đời của họ cũng rất bất hạnh, những điều đó đã tác động đến mỗi người và chính bản thân ông cũng là người hiền tài nhưng phải chịu những nỗi đau đớn về mặt thể xác khi tuổi già ông bị bệnh và nó đã làm cho ông mất đi hai con mắt, ông phải lui về ở ẩn ở quê nhà, nhưng ông cũng vô cùng đau đớn và những điều đó làm cho tâm hồn ông cảm thấy thật nặng nề khi ông luôn gia sức để phục vụ cho dân chúng, về ở ẩn nhưng trong lòng không lúc nào không nhớ tới dân chúng, cuộc đời gắn bó với dân với nước, về ở ẩn và vẫn dạy học và phục vụ cho dân, không nguôi nghỉ ngày nào, ông vẫn luôn cố gắng phục vụ cho dân cho nước, những điều đó đã tạo nên cho ông một nhân cách cao đẹp, có số phận bạc mệnh nên những điều ông phấn đấu đã có công lớn lao trong sự nghiệp văn học của nước nhà. Những hình ảnh của ông Quán đã thể hiện được niềm tự hào về những người hiền tài của dân tộc, ông đại diện cho những hình ảnh của đất nước đã trải qua bao đau thương và vất vả nhưng ông không ngừng vươn lên để bảo vệ đất nước, cả cuộc đời của ông gắn bó với dân chúng, những vẫn thơ của ông đã mang những giai điệu rất hùng vĩ và nó những lời đanh thép để chiến đấu lại với kẻ thù xâm lược, ông đã làm cho đất nước của mình bớt cực khổ, dân chúng lầm than nay cũng bớt đi phần nào, ông mong muốn cho dân tộc của mình được bình an và hạnh phúc, những điều mà ông gắn bó đã tạo nên cho cuộc sống của người dân được thái bình bình an. Ông là một người đã có nhiều đóng góp cho cả dân chúng và sự nghiệp văn chương của ông nó được coi là một công cụ để phục vụ nhân dân, dân chúng đang phải chịu nhiều đau khổ và lầm than thì ông đã dành hết công sức và khả năng của mình để phục vụ cho dân cho nước, cuộc đời của ông không bao giờ nghĩ cho bản thân mình mà suốt đời vì dân vì nước, khi về già bệnh tật nhưng bản thân ông vẫn luôn cố gắng hết mình phục vụ những giây phút cuối cùng của cuộc đời mình cho dân cho nước. Hạnh phúc của ông đã mang lại cho dân chúng những điều thật bổ ích nó góp phần tạo nên những điều có ích và nhân dân bớt đi cực khổ, những cực khổ khó khăn đó đã làm cho lòng yêu nước của ông được dâng cao và hình ảnh về lòng yêu nước đó đã thúc dục tâm hồn của ông và mang trong đó là bao cảm xác và những hình tượng thật tuyệt vời, ông đại diện và là ngôi sao sáng của nền văn học Việt Nam, những hình ảnh gợi tả nhiều cảm xúc đặc biệt và đó là hình ảnh của những hình ảnh cao đẹp và nó gợi tả những nỗi nhớ mong và thương xót trong tâm hồn của tác giả, cuộc đời đó đã tạo nên cho ông những danh vọng vẻ vang, những điều đó làm cho mọi người biết đến con người tài chí và đức hạnh như ông, là một người anh hùng của dân tộc nên ông luôn phấn đấu vì dân chúng và những điều đáng quý trong cuộc đời của ông đó là những điều khó khăn vô cùng nhưng ông vẫn cố gắng vượt qua, cuộc đời trôi nổi nhưng ông không ngừng phấn đấu để bảo vệ đất nước, một người đã hết lòng vì dân chúng và hình ảnh đó đã tạo nên những cuộc đời có nhiều bấp bênh và nó đã đưa đến cho ông những bất hạnh. Hình ảnh vì chưng hay ghét cũng là hay thương nó đã thể hiện rõ được tính cách của con người như ông, đó là những điều thật đáng quý khi trong con người của ông hai lẽ ghét thương rất rõ ràng, ông thương dân chúng và ông căm ghét những tên tham quan và nó đã thể hiện được phẩm chất cao quý của ông, ông luôn cố gắng để tạo nên những điều tốt đẹp nhất cho dân chúng, mỗi ngày ông sống đều mong muốn cho dân chúng của mình được ấm no, và ông căm ghét những điều không đem lại lợi ích và có góp phần gì cho dân chúng, điều đó đã tạo nên cho ông những điều thật tuyệt vời về con người cũng như phẩm chất cao quý trong con người của ông, hình ảnh chưng ghét đã nổi bật trong tác phẩm của ông, nó đã mang đậm dấu ấn và nổi bật trong câu thơ của ông, nó mang âm điệu nhẹ nhàng và có đóng góp làm vũ khí đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Phân tích tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu) – Bài số 4 Xuân Diệu đã nhận xét rất đúng: “Nguyễn Đình Chiểu đã viết đoạn thơ thương ghét trứ danh. Thật ra từ ngàn đời trước, đó là tình cảm phổ biến của nhân dân, và nhiều thi sĩ trước kia đã có những vần thơ về tà, chính; nhưng viết ra tập trung thành mấy chục câu thơ giản dị, phân minh, rõ ràng, sắc nét, có nhạc điệu, có tâm tình, khiến ai cũng phải thuộc, thì ai đã viết một cách điển hình như vậy ngoài Nguyễn Đình Chiểu” Đây là đoạn trích lời phát biểu của ông Quán khi chứng kiến cảnh Vân Tiên, Tử Trực, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm thi tài xướng họa tại quán của ông. Kiệm, Hâm bất tài, làm thơ không ra, lại nghi hoặc đổ thừa cho Tiên và Trực làm thơ nhanh là do chép thơ cổ nhân, ông Quán bật cười, khuyên Tiên nên biết chọn bạn. Tiên xin ông nói cho lẽ ghét thương ở đời, nhân đó mà ông Quán có đoạn phát biểu như trong đoạn trích “Lẽ ghét thương" Trong đoạn văn trên ông Quán đã trình bày 10 dòng về ghét, 14 dòng về thương và kết lại hai câu “nửa phần ghét, nửa phần thương” ở đời. Ồng Quán đã ghét những gì? Qua bốn điều ghét: ghét đời Kiệt, Trụ, ghét đời u, Lẽ, ghét đời Ngũ Bá, ghét đời Thúc Quý, ta thấy ông Quán ghét các chế độ xã hội thối nát, đạo đức suy đồi, dối trá, hèn hạ, dâm dục… đã làm cho nhân dân điêu đứng “sa hầm sẩy hang”. Qua bốn điều ghét ta cũng thấy Nguyễn Đình Chiếu đã có một tiêu chuẩn về cái đáng ghét rất rõ ràng: Cái gì làm khổ dân, nhũng nhiễu dân, gây hại cho dân đều đáng ghét cả. Mức độ căm ghét của ông cũng hết sức sâu sắc. Mấy chữ sau đây nghe như dao khắc vào đá, sâu đậm, không phai mờ: Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm. Ông Quán đã thương những gì? Qua bảy điều thựơng ta thấy ông thương toàn nhà nho nổi tiếng, từ Khổng Tử, Nhan Hồi, Đổng Trọng Thư, Gia Cát Lượng, cho đến Đào Tiềm, Hàn Dũ, Chu Hi, Trình Di, Trình Hiệu đời Đường – Tống. Vì sao lại thương họ? Ông thương đời họ dở dang, gặp bước gian truân, không có điều kiện phát huy đầy đủ tài năng và đức độ của họ. Nhìn chung lại ông Quán thương người có tài, có đức gặp khó khăn bị dang dở, bị hãm hại. Qua mấy điều thương này ta thấy ông Quán hết sức thương xót những bậc có tài cao, đức trọng ở đời. Điều đáng chú ý nhất trong đoạn văn này là trong ghét có thương, trong thương có ghét. Khi nói tới ghét các đời đa đoan lời văn đã để lộ một niềm thương yêu lớn: thương dân. Khi nói tới niềm thương, lời văn toát ra niềm ghét, ghét kẻ tiểu nhân xua đuổi kẻ hiền tài. Tổng hợp lại ông Quán thương nhân dân, thương hiền tài, ghét xã hội thối nát, ghét kẻ tiểu nhân đê tiện, cội nguồn của mọi bất hạnh trong đời. Lẽ ghét thương của ông Quán cũng chính là lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu, chứng tỏ nhà thơ hoàn toàn đứng về phía nhân dân, chính nghĩa. Sự lặp lại những từ “ghét đời”, “thương là”, “thương người”… có ý nghĩa như một dấu hiệu liệt kê. Sau mỗi tiếng ấy người đọc đợi chờ thêm một hiện tượng đáng ghét, điều thương ở đời. Sự lặp lại gây tác dụng biểu cảm, biểu hiện một nguồn tình cảm dào dạt, lai láng tuôn chảy không thôi trong trái tim ông Quán và trái tim nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu. Mấy câu thơ: Quán rằng: ghét việc tầm phào Ghét cay, ghét đáng, ghét vào tận tâm Là những câu rất hay. Hai câu thơ mà bốn chữ ghét, nói lên cường độ sâu đậm của tình cảm. Hơn nữa mấy chữ ghét lại được sắp xếp theo nhịp điệu tự nhiên, nhịp nhàng có tác dụng khắc sâu. Cách dùng từ diễn đạt lại là cách dùng khẩu ngữ: “ghét cay ghét đắng”, “ghét chuyện tầm phào”, hồn nhiên, bộc trực, không một chút quanh co. Vẻ đẹp của câu thơ Nguyễn Đình Chiểu là vẻ đẹp bộc trực, thẳng thắn, dứt khoát, và do đó mà mạnh mẽ. Nguyễn Tuyến tổng hợp Phân tích tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu) – Văn mẫu lớp 11Đánh giá bài viết Từ khóa tìm kiếmcảm nghĩ của e về tính cách phân minh ghét thương của ông quánphân tích bài lẽ ghét thương Có thể bạn quan tâm?Phân tích tác phẩm Vội vàng (Xuân Diệu) – Văn mẫu lớp 11Phân tích tác phẩm Lai tân (Hồ Chí Minh) – Văn mẫu lớp 11Phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh) – Văn mẫu lớp 11Phân tích tác phẩm Chạy giặc (Nguyễn Đình Chiểu) – Văn mẫu lớp 11Nghị luận xã hội về tình trạng ùn tắc giao thông – Văn mẫu lớp 11Phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ) – Văn mẫu lớp 11Phân tích tác phẩm Hầu trời (Tản Đà) – Văn mẫu lớp 11Phân tích tác phẩm Tinh thần thể dục (Nguyễn Công Hoan) – Văn mẫu lớp 11
Phân tích tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu) – Bài số 1
Đoạn trích lẽ ghét thương là một trong những đoạn trích nằm trong tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu. Nhân vật được nói đến trong đoạn trích này là ông Quán – một con người yêu ghét phân minh, tình cảm rõ ràng, trong sáng và luôn nghĩ cho mọi người, cho dân, cho nước. Đây chính là nhân vật phát ngôn cho tư tưởng của tác giả.
Thông qua đoạn trích, tác giả đã hóa thân vào nhân vật để nói lên sự yêu ghét những lề thói trong cuộc sống đời thường. Trong mỗi câu thơ tác giả lại nói lên một vấn để cụ thể mà nhân vật Quán ghét:
Quán rằng:"Ghét việc tầm phào"
Ghét cay, ghét đắng vào tận tâm.
Tác giả đã liệt kê tất cả những điều mà nhân vật của ông ghét, Từ ghét những việc hão huyền, không ý nghĩa, đến ghét người, với những tên tuổi bằng chứng cụ thể.
Trong mỗi vấn đề cụ thể ấy tác giả đã sử dụng nghệ thuật điệp từ "ghét" tới ba lần trong một câu thơ cùng với nghệ thuật tăng cấp: từ cái ghét vị cay, vị đắng đến cái ghét sâu trong tâm khảm của lòng người. Nhà thơ đã diễn tả được cái màu sắc, mùi vị và độ sâu của cái ghét. Với cách diễn đạt này, Nguyễn Đình Chiểu cho chúng ta thấy cái ghét của ông Quán là cái ghét đã ăn sâu vào trong tâm hồn, cái ghét của lòng chính trực, chân thành.
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang
Ghét đời U, Lệ đa đoan
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần
Nhà thơ đã mạnh bạo nhắc đến các vị vua trong lịch sử Trung Quốc như Kiệt, Trụ, U, Lệ, đó là những vị vua xấu xa, đồi bại, chỉ lo ăn chơi hưởng lạc, không lo cho dân cho nước. Trong những triều vua đó, dân phải "sa hầm sẩy hang", phải "chịu lầm than muôn phần"…
Một người mù, phải làm nhiều nghề để kiếm sống nhưng ông luôn thể hiện lòng yêu nước của mình, lòng lo cho dân cho nước là người có tâm huyết với nhân dân, có quan điểm vì dân mới có được những tâm sự chân thành đến vậy. Do đó có thể thấy nguồn gốc của "nỗi ghét" ấy chính là tình thương. Vì lo cho dân, yêu dân, suốt đời chiến đấu cho lẽ phải, Đồ Chiểu đã được hình tượng ông Quán để nói lên sự phẫn uất của mình và đó cũng chính là nỗi phẫn uất chung của nhân dân.
Khi đã nói được hết cái ghét của mình, ông mới bày tỏ cái thương, vì thương dân nên mới ghét những kẻ gây đau khổ cho dân. Mở đầu, nhà thơ nói thương Khổng Tử vất vả, gian lao trong việc truyền bá Đạo Nho:
Thương là thương đức thánh nhân
Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông
Ông thương cho số phận ngắn ngủi của Thầy Nhan Tử sớm phải lìa đời, bỏ dở con đường công danh. Điều này cho thấy ông Quán rất coi trọng, rất quý người hiền tài, nên ông tiếc cho người tài mà số phận bi đát, tiếc cho nhân loại mất đi một con người nhân đức hiếm có. Và ông thương cho Gia Cát Lượng có tài lớn, chí lớn chỉ tội không gặp thời nên chí nguyện không thành. Ông thương cho cả những người nghèo khổ, có hiếu, có tình nhưng vì danh tiết, không chịu khom lưng uốn gối nên đành cáo quan về ở ẩn như Nguyên Lượng…
Những người được ông nhắc đến cùng với từ thương là những người có chí khí, có hiểu nghĩa, có tâm với dân, với nước. "Thương" có nghĩa là đồng tình, là đồng cảm, là khẳng định, là ca ngợi. Quả đúng vậy, vì họ chính là những bậc vĩ nhân quân tử, những người tài cao đức trọng có chí lớn, có mong muốn làm cho nhân dân được no ấm, được sử sách nghi nhận. Dù cuối cùng ước muốn của họ không thành là do gặp bất hạnh, chết yểu hoặc không gặp thời vận.
Nếu ở đoạn trên tác giả dùng điệp từ ghét để nói về sự căm ghét những cái xấu xa hại dân hại nước, thì ở đoạn này, tác giả lại dùng điệp từ "thương" để thể hiện rõ tình cảm yêu thương, khâm phục của mình đối với những bậc thánh nhân xưa. Nếu như ở đoạn trên, nhà thơ cho ông Quán nói ghét những kẻ hại dân, hại nước để thể hiện lòng thương lo cho dân, thì ở đoạn này ông lại cho nhân vật trực tiếp bộc lộ lòng thương của mình trước những tài cao, chí lớn nhưng không gặp thời để thi thố tài năng, đành để mộng lớn tan theo mây khói. Ông Quán đã nhìn thấy sự bất hạnh đó và ông tỏ lòng thương, kính trọng một cách chân thành sâu sắc. Đây chính là tình thương của tác giả đối với những số phận gặp nhiều trắc trở trên đường đời.
Sau một hồi phân trần về cái ghét và cái thương của mình, tác giả đã có sự tổng kết lại, và khẳng định lại một điều, trong con người ông luôn tồn tại cả cái ghét và cái thương. Điều này khẳng định Nguyễn Đình Chiểu có một tấm lòng sâu sắc đối với dân với nước, mong muốn có những bậc thánh hiền đứng r ache chở bao bọc cho muôn dân.
Xem qua kinh sử mấy lần
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.
Qua nhân vật của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho đời một lời nhắn nhủ, một triết lí sống hết sức sâu sắc, con người sống ở đời phải biết thương (yêu) và ghét; phải biết thương cái chính, ghét cái tà: yêu cái đẹp, ghét cái xấu… Và "bởi chưng hay ghét chỉ là hay thương?". Đoạn trích còn đáng quý vì nó đã bộc lộ quan điểm yêu – ghét một cách rất chân thực, phân minh và đôn hậu. Đó không chỉ là quan điểm riêng của tác giả mà còn là cách nghĩ mang phong cách của người dân Nam Bộ.
Bằng ngòi bút sắc sảo và tinh tế, tác giả đã thể hiện tấm lòng yêu nước thương dân của mình, đó là tình yêu nhân dân, tình yêu chính nghĩa, ghét gian tà. Trong thòi điểm đất nước loạn lạc, nhân dân chìm trong cảnh cơ cực, phải là những người có tấm lòng cao cả mới thấu hiểu được nỗi khổ cực của người dân. Ý nghĩa của đoạn trích thể hiện nhân cách cao đẹp, đáng quý trọng của nhà thơ.
Phân tích tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu) – Bài số 2
Nguyễn Đình Chiểu là ngôi sao sáng trên văn đàn văn học Việt Nam. Người ta ngưỡng mộ ông khi chỉ cái tài mà họ còn ngưỡng mộ bởi cái tâm trong sáng, cái tâm biết yêu thương và trân trọng con người. Ông ra đi nhưng đã để lại cho chúng ta một tác phẩm truyện hay là Lục Vân Tiên. Đặc biệt trong tác phẩm này đoạn trích “Lẽ ghét thương” nổi bật lên những đạo lí về lẽ ghét thương trên đời. Lẽ ghét thương ấy được nhìn qua cái nhìn của ông Quán.
Đoạn trích Lẽ ghét thương từ câu 473 đến 504 kể về cuộc nói chuyện giữa nhân vật ông Quán và mấy nho sĩ tuổi trẻ. Lục Vân Tiên cùng bạn là Vương Tử Trực đi thi, vào quán trọ gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm cùng là các sĩ tử. Trịnh Hâm đề nghị bốn người làm thơ để so tài nghệ cao thấp. Trịnh Hâm, Bùi Kiệm thua tài lại còn nghi Lục Vân Tiên và Vương Tử Trực gian lận. Ông Quán nhân đó mới bàn về lẽ ghét thương ở đời.
Đồng ông Quán cũng thể hiện khá trực tiếp và phê phán luôn lẽ ghét thương của mình trước bọn tiểu nhân Trịnh Hâm, Bùi Kiệm huênh hoang, khoác lác, bất tài mà bụng dạ lại xấu xa. Đó chính là việc tầm phào mà ông Quán ghét. ông Quán là nhân vật tiêu biểu cho các nhà Nho mai danh ẩn tích, cũng như ông Ngư, ông Tiều, lấy nghề nghiệp mưu sinh làm tên. Có thể coi đây là nhân vật phát ngôn cho tư tưởng của tác giả.
Bốn câu thơ đầu là lời của ông Quán khi chứng kiến bọn Trịnh Hâm, Bùi Kiệm đã thua lại còn nói sai lời khiến cho ông phải bật lên những bất bình của mình bằng cách thể hiện lẽ ghét thương trong đời:
“Quán rằng: “Kinh sử đã từng,
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”.
Ông Quán cũng là một tri thức nhưng về mai danh ẩn tích với cái nghề bán quán này. Cũng có một thời vàng son dùi mài kinh sử Như Vân Tiên và mấy người sĩ tử kia. Câu thơ: ” Vì chương hay ghét cũng là hay thương” ông Quán hay chính tác giả cũng đã giải thích cái căn nguyên ghét thương của chính mình. Theo ông chính vì ghét nên mới thương, chính những cái ghét kia đã làm ảnh hưởng đến cái thương của họ.
Tiếp đến mười hai câu thơ sau ông Quán thể hiện cái lẽ ghét của mình, những lẽ ghét được phô bày ra thể hiện ông Quán là một người tri thức thẳng thán dám nói dám làm, dám nhìn vào cái sai của đời trước mà nói lên quan điểm của mình:
“Tiên rằng: Trong đục chưa tường,
Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?
Quán rằng: Ghét việc tầm phào
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm”.
Vân Tiên tỏ ra là một người ham học hỏi không tự nhận mình là tài giỏi, cũng không thấy ông Quán chỉ là một người bán quán mà khinh thường ông. Hỏi ông rằng lẽ ghét thương thế nào thì ông Quán bắt đầu nói về những ghét thương của mình. Ông Quán ghét những chuyện tần phào trong thiên hạ. Truyện tầm phào là những chuyện tranh giành nhau đua nhau vớ vẩn trong thiên hạ. đặc biệt ông thể hiện cảm xúc tột độ của mình bằng cách lặp từ ghét và thêm vào đó những tính từ cay đắng. Đó là cái ghét cay ghét đắng ghét vào tới tâm can của ông.
Sau đó ông thể hiện sự ghét của mình qua những sự việc cụ thể. Nào là ghét đời Kiệt, đời Trụ vì đam mê nhan sắc nên đã đẩy nhân dân vào những chỗ nguy hiểm, rồi lại đến nhà U nhà Lệ vì đa đoan lắm chuyện mà khiến dân lầm than. Ghét đời Thúc Quí, Ngũ Bá làm cho nhân dân rối ren nhọc nhằn. Có thể nói đó toàn là những triều đại nổi tiếng của Trung Quốc những triều ấy đại diện cho những gì vua chúa làm cho nhan dân phải khổ. Ta thấy ông Quán là một con người hiểu biết học sâu. Ông Quán có một lòng yêu thương nhân dân hết mực thì mới hiểu được nỗi khổ của nhân dân như thế. Những cái gì có hại cho nhân dân là ông ghét hết, không phải ghét bình thường mà ghét cay ghét đắng.
Những câu thơ cuối thể hiện sự thương của ông Quán, những người ông thương toàn là những bậc hiền nhân quân tử trung quân ái quốc mà ai cũng biết đến. Nào là tánh nhân như Khổng Tử, rồi lại đến học trò hiếu học như Nhan Tử. Hàng loạt những cái tên của những bậc hiền tài được liệt kê ra Gia Cát, Đồng Tử, Nguyên Lượng, Hàn Dũ. Đó toàn là những người không những có tài mà còn có đức thế nhưng nhiều người trong đó lại có số phận không may mắn người chết sớm, người gặp cảnh loạn lạc cũng chết Ông Quán thương cho những bậc như thế, những người tài đức là những người được kính trọng yêu mến:
“Thương là thương đức thánh nhân,
Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông.
Thương thầy Nhan Tử dở dang.
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt đã đành phui pha.
Thương thầy Đồng tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng lời biểu, tối đày đi xa.
Thương thầy Liêm, Lạc đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”
Tác giả kết thúc bằng hai câu thơ cuối cùng như tóm lại cái lẽ ghét thương ở trên đời được nhìn qua con mắt của ông Quán. Đó la những điều thể hiện sự hiểu biết của ông quán cũng như tấm lòng của ông đối với cuộc đời. Chính vì ghét nên mới thương nhân dân, người hiền tài. Ông đã từng xem qua nhiều kinh sử và thấy nửa phần ghét nửa phần thương.
“Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương”
Đoạn trích trên đã thể hiện rõ tầm nhìn xa trông rộng của một ông chủ quán. Tất cả những triều đại và việc làm sai trái của họ ông đều biết hết, những bậc hiền nhân quân tử ông cũng biết hết. Qua đó thể hiện người tài trong xã hội còn rất nhiều tuy nhiên chỉ là chán ghét mà ở ẩn vui tuổi già mà thôi. ” Chúng ta thật ngưỡng mộ và khâm phục tài đức của ông chủ quán này. Ông là một người tài nhưng không phải kẻ vì danh lợi nên đã chọn cách mai danh ẩn tích để hưởng những thú vui tao nhã của tuổi già.
” Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”. (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Phân tích tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu) – Bài số 3
Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam, cuộc đời của ông đã gắn bó với rất nhiều thể loại văn học và cũng có công rất lớn tạo nên sự phong phú cho thể loại văn học ở Việt Nam, tiêu biểu cho những sáng tác đó là tác phẩm Lẽ Ghét Thương.
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước cả cuộc đời của ông gắn bó với sự nghiệp văn học và những đóng góp lớn của ông đó là góp phần tạo nên những điều kì diệu trong nền văn học Việt Nam. Ông là một người rất quang minh và chính đại nên những lẽ ghét thương trong quan niệm của ông rất rõ ràng, trong tác phẩm này ông đã nói về những lẽ ghét thương đối với dân chúng và đối với kẻ thù xâm lược. Bao nhiêu nỗi lòng của tác giả đã được thể hiện rất chi tiết mở đầu câu thơ đầu tiên tác giả đã nói về những nỗi tầm phào và ông ghét những điều tầm phào đó, ông là một người có tấm lòng yêu nước thương dân vì vậy những việc không đem lại quyền lợi cho dân chúng ông đều căm ghét, đó là những điều thật tuyệt vời trong quan điểm của ông, những điều đó ông đã và đang thực hiện ngày càng tốt và đó là quan điểm sống của ông, một người biết lo cho dân cả đời gắn bó với nhân dân ông luôn mong đợi những điều tốt đẹp nhất cho nhân dân. Trong lẽ ghét thương đó ông đã rất rõ ràng và nó thể hiện những điều nhất định quan trọng, ông thương dân chúng lầm than, và ông ghét những chuyện tầm phào và không đem lại lợi ích cho nhân dân, dân đen vẫn đói khổ và ở đây cần có những chính sách và lợi ích đe lại cho dân chúng những lợi ích cao đẹp nhất cho nhân dân, ông mong cho nhân dân được bình an, có một cuộc sống bình an và hạnh phúc dân chúng thái bình, không phải chịu áp bức bóc lột mà luôn được sống một cuộc sống hạnh phúc nhất.
Trong cuộc đời của ông ông luôn phấn đấu để phục mọi điều tốt đẹp nhất cho nhân dân, những điều ông thương đó là đều là phục vụ quyền lợi cho nhân dân, ông đã phấn đấu để làm cho nhân dân có cuộc sống bình an và hạnh phúc, ông luôn luôn phấn đấu để có những điều tốt đẹp nhất cho nhân dân, ông thương dân chúng lầm than, đói khổ, và ông cũng căm ghét những bọn chỉ biết lo cho quyền lợi của bản thân mình mà không biết đến dân chúng, lúc nào cũng chỉ biết đến ăn chơi xa đọa mà không biết phục vụ cho cuộc sống của nhân dân, cả cuộc đời của ông đã phục vụ cho dân chúng, ông ghét bọn quan lại chỉ biết làm những điều tầm phào và không đem lại quyền lợi gì cho nhân dân, ông đã chỉ ra những nỗi ghét thương của chính mình và đó là quan điểm chính trị của một người yêu nước thương dân và có quan điểm thật rõ ràng và đậm chất yêu nước.
Những điều ông thương và những điều ông ghét nó cũng mang đậm những nét tương quan sâu sắc bên cạnh những điều thương thiết đó ông luôn tự ý thức được những điều mình cần làm cho dân chúng, ngoài thương những người dân đen lâm vào cơ cực khổ đau ra ông còn thương những người hiền tài luôn phải chịu những cảnh ngộ éo le và thời vận loạn lạc làm cho cuộc đời của họ cũng rất bất hạnh, những điều đó đã tác động đến mỗi người và chính bản thân ông cũng là người hiền tài nhưng phải chịu những nỗi đau đớn về mặt thể xác khi tuổi già ông bị bệnh và nó đã làm cho ông mất đi hai con mắt, ông phải lui về ở ẩn ở quê nhà, nhưng ông cũng vô cùng đau đớn và những điều đó làm cho tâm hồn ông cảm thấy thật nặng nề khi ông luôn gia sức để phục vụ cho dân chúng, về ở ẩn nhưng trong lòng không lúc nào không nhớ tới dân chúng, cuộc đời gắn bó với dân với nước, về ở ẩn và vẫn dạy học và phục vụ cho dân, không nguôi nghỉ ngày nào, ông vẫn luôn cố gắng phục vụ cho dân cho nước, những điều đó đã tạo nên cho ông một nhân cách cao đẹp, có số phận bạc mệnh nên những điều ông phấn đấu đã có công lớn lao trong sự nghiệp văn học của nước nhà.
Những hình ảnh của ông Quán đã thể hiện được niềm tự hào về những người hiền tài của dân tộc, ông đại diện cho những hình ảnh của đất nước đã trải qua bao đau thương và vất vả nhưng ông không ngừng vươn lên để bảo vệ đất nước, cả cuộc đời của ông gắn bó với dân chúng, những vẫn thơ của ông đã mang những giai điệu rất hùng vĩ và nó những lời đanh thép để chiến đấu lại với kẻ thù xâm lược, ông đã làm cho đất nước của mình bớt cực khổ, dân chúng lầm than nay cũng bớt đi phần nào, ông mong muốn cho dân tộc của mình được bình an và hạnh phúc, những điều mà ông gắn bó đã tạo nên cho cuộc sống của người dân được thái bình bình an. Ông là một người đã có nhiều đóng góp cho cả dân chúng và sự nghiệp văn chương của ông nó được coi là một công cụ để phục vụ nhân dân, dân chúng đang phải chịu nhiều đau khổ và lầm than thì ông đã dành hết công sức và khả năng của mình để phục vụ cho dân cho nước, cuộc đời của ông không bao giờ nghĩ cho bản thân mình mà suốt đời vì dân vì nước, khi về già bệnh tật nhưng bản thân ông vẫn luôn cố gắng hết mình phục vụ những giây phút cuối cùng của cuộc đời mình cho dân cho nước.
Hạnh phúc của ông đã mang lại cho dân chúng những điều thật bổ ích nó góp phần tạo nên những điều có ích và nhân dân bớt đi cực khổ, những cực khổ khó khăn đó đã làm cho lòng yêu nước của ông được dâng cao và hình ảnh về lòng yêu nước đó đã thúc dục tâm hồn của ông và mang trong đó là bao cảm xác và những hình tượng thật tuyệt vời, ông đại diện và là ngôi sao sáng của nền văn học Việt Nam, những hình ảnh gợi tả nhiều cảm xúc đặc biệt và đó là hình ảnh của những hình ảnh cao đẹp và nó gợi tả những nỗi nhớ mong và thương xót trong tâm hồn của tác giả, cuộc đời đó đã tạo nên cho ông những danh vọng vẻ vang, những điều đó làm cho mọi người biết đến con người tài chí và đức hạnh như ông, là một người anh hùng của dân tộc nên ông luôn phấn đấu vì dân chúng và những điều đáng quý trong cuộc đời của ông đó là những điều khó khăn vô cùng nhưng ông vẫn cố gắng vượt qua, cuộc đời trôi nổi nhưng ông không ngừng phấn đấu để bảo vệ đất nước, một người đã hết lòng vì dân chúng và hình ảnh đó đã tạo nên những cuộc đời có nhiều bấp bênh và nó đã đưa đến cho ông những bất hạnh.
Hình ảnh vì chưng hay ghét cũng là hay thương nó đã thể hiện rõ được tính cách của con người như ông, đó là những điều thật đáng quý khi trong con người của ông hai lẽ ghét thương rất rõ ràng, ông thương dân chúng và ông căm ghét những tên tham quan và nó đã thể hiện được phẩm chất cao quý của ông, ông luôn cố gắng để tạo nên những điều tốt đẹp nhất cho dân chúng, mỗi ngày ông sống đều mong muốn cho dân chúng của mình được ấm no, và ông căm ghét những điều không đem lại lợi ích và có góp phần gì cho dân chúng, điều đó đã tạo nên cho ông những điều thật tuyệt vời về con người cũng như phẩm chất cao quý trong con người của ông, hình ảnh chưng ghét đã nổi bật trong tác phẩm của ông, nó đã mang đậm dấu ấn và nổi bật trong câu thơ của ông, nó mang âm điệu nhẹ nhàng và có đóng góp làm vũ khí đấu tranh chống kẻ thù xâm lược.
Phân tích tác phẩm Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu) – Bài số 4
Xuân Diệu đã nhận xét rất đúng: “Nguyễn Đình Chiểu đã viết đoạn thơ thương ghét trứ danh. Thật ra từ ngàn đời trước, đó là tình cảm phổ biến của nhân dân, và nhiều thi sĩ trước kia đã có những vần thơ về tà, chính; nhưng viết ra tập trung thành mấy chục câu thơ giản dị, phân minh, rõ ràng, sắc nét, có nhạc điệu, có tâm tình, khiến ai cũng phải thuộc, thì ai đã viết một cách điển hình như vậy ngoài Nguyễn Đình Chiểu”
Đây là đoạn trích lời phát biểu của ông Quán khi chứng kiến cảnh Vân Tiên, Tử Trực, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm thi tài xướng họa tại quán của ông. Kiệm, Hâm bất tài, làm thơ không ra, lại nghi hoặc đổ thừa cho Tiên và Trực làm thơ nhanh là do chép thơ cổ nhân, ông Quán bật cười, khuyên Tiên nên biết chọn bạn. Tiên xin ông nói cho lẽ ghét thương ở đời, nhân đó mà ông Quán có đoạn phát biểu như trong đoạn trích “Lẽ ghét thương"
Trong đoạn văn trên ông Quán đã trình bày 10 dòng về ghét, 14 dòng về thương và kết lại hai câu “nửa phần ghét, nửa phần thương” ở đời.
Ồng Quán đã ghét những gì? Qua bốn điều ghét: ghét đời Kiệt, Trụ, ghét đời u, Lẽ, ghét đời Ngũ Bá, ghét đời Thúc Quý, ta thấy ông Quán ghét các chế độ xã hội thối nát, đạo đức suy đồi, dối trá, hèn hạ, dâm dục… đã làm cho nhân dân điêu đứng “sa hầm sẩy hang”. Qua bốn điều ghét ta cũng thấy Nguyễn Đình Chiếu đã có một tiêu chuẩn về cái đáng ghét rất rõ ràng: Cái gì làm khổ dân, nhũng nhiễu dân, gây hại cho dân đều đáng ghét cả.
Mức độ căm ghét của ông cũng hết sức sâu sắc. Mấy chữ sau đây nghe như dao khắc vào đá, sâu đậm, không phai mờ:
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Ông Quán đã thương những gì? Qua bảy điều thựơng ta thấy ông thương toàn nhà nho nổi tiếng, từ Khổng Tử, Nhan Hồi, Đổng Trọng Thư, Gia Cát Lượng, cho đến Đào Tiềm, Hàn Dũ, Chu Hi, Trình Di, Trình Hiệu đời Đường – Tống. Vì sao lại thương họ? Ông thương đời họ dở dang, gặp bước gian truân, không có điều kiện phát huy đầy đủ tài năng và đức độ của họ. Nhìn chung lại ông Quán thương người có tài, có đức gặp khó khăn bị dang dở, bị hãm hại. Qua mấy điều thương này ta thấy ông Quán hết sức thương xót những bậc có tài cao, đức trọng ở đời.
Điều đáng chú ý nhất trong đoạn văn này là trong ghét có thương, trong thương có ghét. Khi nói tới ghét các đời đa đoan lời văn đã để lộ một niềm thương yêu lớn: thương dân. Khi nói tới niềm thương, lời văn toát ra niềm ghét, ghét kẻ tiểu nhân xua đuổi kẻ hiền tài.
Tổng hợp lại ông Quán thương nhân dân, thương hiền tài, ghét xã hội thối nát, ghét kẻ tiểu nhân đê tiện, cội nguồn của mọi bất hạnh trong đời. Lẽ ghét thương của ông Quán cũng chính là lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu, chứng tỏ nhà thơ hoàn toàn đứng về phía nhân dân, chính nghĩa.
Sự lặp lại những từ “ghét đời”, “thương là”, “thương người”… có ý nghĩa như một dấu hiệu liệt kê. Sau mỗi tiếng ấy người đọc đợi chờ thêm một hiện tượng đáng ghét, điều thương ở đời. Sự lặp lại gây tác dụng biểu cảm, biểu hiện một nguồn tình cảm dào dạt, lai láng tuôn chảy không thôi trong trái tim ông Quán và trái tim nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu.
Mấy câu thơ:
Quán rằng: ghét việc tầm phào
Ghét cay, ghét đáng, ghét vào tận tâm
Là những câu rất hay. Hai câu thơ mà bốn chữ ghét, nói lên cường độ sâu đậm của tình cảm. Hơn nữa mấy chữ ghét lại được sắp xếp theo nhịp điệu tự nhiên, nhịp nhàng có tác dụng khắc sâu. Cách dùng từ diễn đạt lại là cách dùng khẩu ngữ: “ghét cay ghét đắng”, “ghét chuyện tầm phào”, hồn nhiên, bộc trực, không một chút quanh co. Vẻ đẹp của câu thơ Nguyễn Đình Chiểu là vẻ đẹp bộc trực, thẳng thắn, dứt khoát, và do đó mà mạnh mẽ.
Nguyễn Tuyến tổng hợp