Phân tích tác phẩm Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) – Văn mẫu lớp 12
Nội dung bài viết1 Phân tích tác phẩm Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) – Bài số 1 2 Phân tích tác phẩm Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) – Bài số 2 3 Phân tích tác phẩm Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) – Bài số 3 4 Phân tích tác phẩm Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) – ...
Nội dung bài viết1 Phân tích tác phẩm Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) – Bài số 1 2 Phân tích tác phẩm Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) – Bài số 2 3 Phân tích tác phẩm Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) – Bài số 3 4 Phân tích tác phẩm Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) – Bài số 4 5 Phân tích tác phẩm Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) – Bài số 5 Phân tích tác phẩm Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) – Bài số 1 Khi tâm hồn nghệ sĩ đồng cảm với một tâm hồn nghệ sĩ thì khoảng cách và văn hóa sẽ không còn là dào cản. Nhà thơ Thanh Thảo đã dành một tình cảm, sự chân trọng như thế với người nghệ sĩ tài hoa Fê-đê-ri-cô Gar-xi-a Lor-ca (1898 – 1936), một nghệ sĩ tài hoa của đất nước Tây Ban Nha. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” in trong tập “Khối vuông ru bích” (1985) chính là thể hiện điều đó. Bài thơ như gẩy lên tiếng đàn thánh thót tiễn đưa người nghệ sĩ đa tài nhưng không thoát khỏi sự éo le của số phận, cũng như thể hiện một cây bút xuất sắc trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam – tác giả đầy nhiệt huyết, phản ánh tiếng nói của người tri thức đầy suy tư, trăn trở trước các vấn đề nóng bỏng của xã hội và thời đại. Nhà thơ muốn cuộc sống phải được cảm nhận và thể hiện ở chiều sâu bản chất của nó nên ông không chấp nhận lỗi biểu đạt ồn ào, dễ dãi. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” đã thể hiện được đầy đủ phong cách nghệ thuật Thanh Thảo, cũng đã để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc. Những tiếng đàn bọt nước Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt Lilalilalila đi lang thang về miền đơn độc với vầng trăng chếnh choáng trên yên ngựa mỏi mòn Tây Ban Nha hát nghêu ngao bỗng kinh hoàng áo choàng bê bết đỏ Lorca bị điệu về bãi bắn chàng đi như người mộng du tiếng ghi ta nâu bầu trời cô gái ấy tiếng ghi ta lá xanh biết mấy tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy không ai chôn cất tiếng đàn tiếng đàn như cỏ mọc hoang giọt nước mắt vầng trăng long lanh trong đáy giếng đường chỉ tay đã đứt dòng sông rộng vô cùng Lorca bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc chàng ném lá bùa cô gái Digan vào xoáy nước chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt lilalilalila… “Đàn ghi ta của Lor-ca” ngay nhan đề thôi cũng đã gợi mở cho ta thấy được một bầu trời nghệ thuật mở ra. Đàn ghi ta cây đàn gắn với sự nghiệp của Lor ca, gắn với những tác phẩm nổi tiếng của ông, hay đàn ghi ta chính là người bạn đồng hành đi cùng người nghệ sĩ du ca, đi khắp đất nước Tây Ban Nha mang lại những tác phẩm du dương làm phong phú thêm cuộc sống muôn màu. Bài thơ chính là nói đến vẻ đẹp của nghệ thuật, vẻ đẹp của người nghệ sĩ đơn độc, vẻ đẹp của tiếng đàn thanh sắc, vẻ đẹp của cái chết cho tự do. Hình ảnh đất nước Tây Ban Nha một thời chống chế độ độc tài Phát xít Ph – răng – cô cũng hiện lên rõ nét như thế. Người nghệ sĩ tài hoa ra đi nhưng những gì Lor-ca để lại hoàn toàn là bất diệt. Bài thơ cũng như nói lên nỗi lòng của nhà thơ Thanh Thảo, tiếng tương một nhân tài, nuối tiếc một tài năng thiên bẩm mà phải ra ở tuổi 38, từng câu thơ đều nói lên nỗi luyền thương như vậy. Câu thơ đề từ cũng lại một lần nữa đánh sâu vào tâm trí bạn đọc, hằn sâu đến nỗi ám ảnh, mang một ý nghĩa sâu xa: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” Đây chính là lời của Lor-ca trước khi phải rời đến thế giới bên kia. Nó như một lời báo hiệu có điều chẳng lành, đúng là như vậy, ông đã chết khi còn quá trẻ, khi tài năng đang nở rộ. Tâm nguyện này mang nhiều ý nghĩa, phải chăng Lor-ca muốn chôn vùi tài năng, chôn vùi những gì ông để lại xuống dưới nấm mồ kia để không ai còn biết đến, phải chăng ông đã nhận ra một điều nếu những thứ ấy còn tồn tại thì thế hệ tiếp sau sẽ khó có thể vượt qua tài năng của ông, sẽ là bước tường cản trở sự phát triển của thi ca nhân loại. Hay chỉ đơn thuần là suy nghĩ được sống với nghệ thuật và khi chết đi cũng luôn được mang theo bên mình, thể hiện tình yêu bất diệt với tiếng đàn và chính quê hương, xử sở. Khổ thơ đầu của bài thơ vẽ nên hình tượng Lor-ca đẹp đẽ với khoảng trời nghệ thuật, nhưng bên cạnh đó cũng chính là bầu trời chính trị u ám dưới chế độ độc tài phát xít, cái đẹp bị vùi dập đến cô đơn. “Những tiếng đàn bọt nước Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt Lilalilalila đi lang thang về miền đơn độc với vầng trăng chếnh choáng trên yên ngựa mỏi mòn Tiếng đàn đã trở thành hình khối, nhà thơ Thanh Thảo thật sự đã đưa con người ta đến những tưởng tượng khó nói nên lời, âm thanh lại biết thành những khối vật lý hình tròn, hình tròn bọt nước. bọt nước ấy tinh khiết, thanh cao, đẹp đẽ. Hình ảnh ngay sau đó là “Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt”, cả một nền văn hóa đã hiện ra chỉ một vài từ nhẹ nhàng đơn giản, Tây Ban Nha, xử sở đấu bò tót, với những kị sĩ mặc áo choàng đỏ, hình ảnh ấn tượng vô cùng. Nhưng màu đỏ ấy lại là “đỏ gắt” như đã nói lên một sự chẳng lành, một đất nước đang sống trong những ngày tháng căng thẳng, sục sôi, bất mãn và đau khổ. Lilalialila… Chuỗi âm thanh của tiếng đàn ghi ta hiện lên như một lời giải cứu, nghệ thuật vẫn tồn tại, cái đẹp không thể bị chôn vùi. Lila cũng là tên một loài hoa rất đặc biệt ở đất nước Tây Ban Nha, hoa tử linh hương, tác giả như đã ngầm gửi đến ngàn đóa hoa tươi đẹp nhất dành cho Lor-ca. “Đi lang thang về miền cô độc” Người nghệ sĩ du ca một mình một ngựa đi khắp đất nước thân yêu của mình, hát tặng nhân dân của mình những bản tình ca sâu đậm. Tác giả khéo léo sự dụng hai từ láy đặc biệt tạo hình “chếnh choảng”, “mỏi mòn” đã làm cho người đọc như nhìn thấy bức tranh tuyệt đẹp có thiên nhiên, hoa cỏ, nhưng sao buồn quá, con người trong tranh ấy hoàn toàn cô đơn, một mình mang nghệ thuật đến một chân trời xa xa. Tây Ban Nha hát nghêu ngao bỗng kinh hoàng áo choàng bê bết đỏ Lorca bị điệu về bãi bắn chàng đi như người mộng du tiếng ghi ta nâu bầu trời cô gái ấy tiếng ghi ta lá xanh biết mấy tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy Hai khổ thơ nói về cái chết của Lor-ca, thực sự đến quá nhanh, nhanh đến kinh hoàng. Hai câu khổ thơ như nói lên nỗi lòng của tác giả, ông xót thương cho một người nghệ sĩ phải hi sinh bằng ngòi bút như rướm máu, ông đã thể hiện điều đó bằng ngôn ngữ của trái tim. Thủ pháp nghệ thuật chủ đạo trong đoạn thơ này là cách sử dụng điệp từ, điệp ngữ, nhân hóa, ẩn dụ, tượng trưng đa nghĩa và đối lập được tác giả khai thác triệt để nhằm thể hiện bi kịch của Lor-ca. Đoạn thơ đã làm nổi bật sự đối lập giữa khát vọng tự do của người nghệ sĩ với bạo lực tàn ác của bọn phát xít, giữa tiếng hát yêu đời với hiện thực phũ phàng đẫm máu. Hình ảnh “áo choàng bê bết đỏ” như vừa nói lên cái chết đầy oan ức của Lorca cũng như tố cáo chế độ độc tài phát xít Ph-răng cô tước đi mang sống của một người nghệ sị tài hoa. Hình ảnh ấy nói lên sự khát khao cuộc sống tự do, bình yên, một sự đấu tranh khốc liệt cho cái đẹp mà người tài hoa yêu quý. Trạng thái của Lorca đã như người mộng du, trạng thái ấy trước khi đối diện với cái chết đó không phải là sự sợ hãi mà đó là nỗi tiếc thương. Sự kiện thảm khốc ấy tạo ra những cú sốc cho chính Lor-ca, cho người dân Tây Ban Nha hay chính đối với tác giả. Nhà thơ đã diễn tả theo lối ẩn dụ tượng trưng với sự chuyển đổi cảm giác liên tục khá mới mẻ, táo bạo, qua những âm thanh vỡ ra thành màu sắc, hình khối, thành dòng máu chảy, góp phần làm nên tiếng đàn ghi ta ở những cung bậc cảm xúc khác nhau. Sự so sánh tài tình của tác giả khi nói về tiếng đàn ghi ta thực sự đều để lại ẩn tượng cho những ai đọc tác phẩm này. Tiếng ghi ta nâu làm hiện ra một bầu trời tương đẹp, tiếng ghi ta như màu lá xanh tươi mới, tiếng ghi ta lại thành hình khối như bọt nước tròn vo, hình ảnh rất đẹp nhưng lại diễn ta một cái chết bi thương “tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy”. Tiếng ghi ta đã được nhân hóa thành con người, thành số phận, tiếng ghi ta ấy chính là linh hồn của Lorca. Một hình ảnh gây ám ảnh, day dứt đối với tâm hồn người đọc. Người nghệ sĩ ra đi, nhưng để lại một kho tàng nghệ thuật phong phú, những tác phẩm của ông sẽ còn sống mãi. Đó là một niềm tin về sự bất diệt của nghệ thuật, của cái đẹp, sự khát khao tự do, công bằng, công lý. Khổ thơ cuối bài thể hiện sự tiếc thương vô hạn của nhà thơ Thanh Thảo đối với Lor-ca là cơ sở vững chắc cho niềm tin mãnh liệt ấy. “không ai chôn cất tiếng đàn tiếng đàn như cỏ mọc hoang giọt nước mắt vầng trăng long lanh trong đáy giếng đường chỉ tay đã đứt dòng sông rộng vô cùng Lorca bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc chàng ném lá bùa cô gái Digan vào xoáy nước chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt lilalilalila…” Không ai chôn cất tiếng đàn, câu thơ này thể hiện hai ý nghĩa, thứ nhất có thể thấy rằng không ai dám chôn cất tiếng đàn, tại sao vậy? Ý nguyện của Lor-ca là “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” vì sao không ai làm điều đó. Vì không ai muốn chôn vùi, không ai muốn phải chôn vùi đi một nghệ thuật đỉnh cao. Ý nghĩa thứ hai đó là không thể chôn vùi nổi một cái đẹp đã đến độ hoàn hảo, dù Lor-ca có chết những nghệ thuật của ông còn mãi, thế hệ mai sau sẽ noi theo mà sáng tạo mà cố gắng. “Giọt nước mắt vầng trăng/ long lanh nơi đáy giếng” đây là một hình ảnh ấn dụ xâu sắc, sau khi Lor-ca chết, ông đã bị bọn phát xít ném xác xuống giếng. Một loạt hình ảnh ẩn dụ hiện lên sâu đậm “đường chỉ tay đã đứt” hình ảnh ẩn dụ cho số phận ngắn ngủ, người nghệ sĩ tài hoa phải hi sinh khi tuổi còn quá trẻ. “Lor-ca bơi sang ngang/trên chiếc ghi ta màu bạc” hình ảnh ấy như cho ta cảm giác Lor-ca khi về đến thế giới bên kia cũng được nâng đỡ bởi nghệ thuật, bởi tiếng đàn. Chiếc ghi ta màu bạc, thể hiện sự trang nghiêm, thanh thoát, trở thành con thuyền đưa ông nhẹ nhàng về thế giới bên kia. Hai khổ thơ này tác giả như sử dụng triệt để lối thơ tượng trưng đầy ám ảnh. “chàng ném lá bùa cô gái Digan vào xoáy nước chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt” Hình ảnh ấy phải chăng là sự giải thoát, Lor-ca đã đi về với về giới bên kia, để cho xoáy nước cuốn đi những oan ức, những khát khao, không còn vướng bận đến cõi trần. Trái tim ấy đã ngừng đập, một lặng yên bất chợt đến bàng hoàng, hụt hẫng. Âm điệu như lắng xuống, đầy xót xa, nhà thơ Thanh Thảo đã thể hiện sâu sắc tình cảm của mình đối với Lor-ca trong những câu thơ cuối bài này. Người nghệ sĩ đã chết những tiếng đàn vẫn còn đó “Lilalilalila…” một khúc ngân của bản nhạc khó dứt, một đóa hoa Tử linh hương Thanh Thảo muốn đặt lên mộ viếng người thi sĩ, một sự đồng cảm dâng trào. Có thể thấy nghệ thuật không phân biệt biên giời, người nghệ sĩ phương Đông tiếc thương một nhân tài phương Tây bằng tất cả sự chân thành, và sự trân trọng cái đẹp. Lilalilalila…. Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ lấy nguồn cảm hứng từ tiếng đàn. Tác giả đã rất khéo léo dùng những hình ảnh ẩn dụ tượng trưng độc đáo gây ấn tượng mạnh đối với bạn đọc. Thể thơ tự do, khá thoải mái để bộc lộ cảm xúc. Hơn thế nữa điểm đặc biệt của bài thơ chính là không hề có dấu chấm câu khi kết thúc câu, hay đoạn. Đó cũng chính là dụng ý của tác giả, làm cho mạch thơ không dứt, làm cho tình cảm được trải dài trong cả bài thơ. Thực sự phong cách thơ Thanh Thảo rất độc đáo, không trộn lẫn, đặc trưng cho người tri thức luôn mê mải đi tìm vẻ đẹp hoàn hảo, thanh cao. Qua bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” Cho ta thấy Nhà thơ Thanh Thảo đã viết về Lor-ca bằng rung động mãnh liệt của cảm xúc, bằng tấm lòng “liên tài” rất đáng trân trọng. Những sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ chứng tỏ tâm huyết và khát vọng đổi mới thơ ca của tác giả, góp phần làm cho khả năng thể hiện của ngôn ngữ tiếng Việt thêm tinh tế, phong phú và đa dạng. Bài thơ đã để lại những ấn tượng khó phải đối với những ai đã từng đọc, có thể thấy rằng nghệ thuật sẽ mãi mãi sống cùng nhân loại. Phân tích tác phẩm Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) – Bài số 2 Thanh Thảo là nhà thơ với tài năng thơ ca mà đã đem đến cho thơ ca thời đó tiếng nói trung thực của một thế hệ tình nguyện cầm súng bảo vệ Tổ quốc. Thơ Thanh Thảo cũng chứa đựng những nét tài hoa và mang tính liên tưởng cao. Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca in trong tập Khối vuông rubich, là một trong số đó, và được dư luận đánh giá là thành công về nhiều mặt. Cái chết của Lor-ca là sự kiện gây chấn động dư luận không những ở Tây Ban Nha mà còn trên toàn thế giới, chính vì vậy khi Thanh Thảo yêu mến khí phách cũng như tài năng của Lor-ca nên đã dành tâm huyết để viết nên bài thơ giống như dựng một tượng đài sừng sững về Lor-ca trong tâm tưởng những người mến mộ. Đàn ghi ta của Lorca viết về cái chết a Lor-ca một thi sĩ, nhạc sĩ, nhà biên kịch thiên tài người Tây Ban Nha. Hình tượng Lorca là một hình tượng lẫm liệt và dòng máu về nhiệt huyết về đam mê vẫn chảy mãi và khắc ghi trong những con người Tây Ban Nha. Chính vì dòng máu nóng bỏng nhiệt tình thôi thúc ông cất cao tiếng đàn, tiếng hát, lời thơ để ca ngợi tự do bất diệt, phản đối bản chất tàn bạo, xấu xa của bè lũ phát xít Phơ-răng-cô. Lorca đã bị sát hại khi tuổi chỉ mới 38.Qua tiếng đàn người đọc cũng cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng Lor-ca và biểu tượng nghệ thuật Lor-ca trong mạch cảm xúc và suy tư đa chiều, vừa sâu sắc, vừa mãnh liệt của tác giả. Lorca được cảm nhận từ nhiều góc độ và đa chiều với hình tượng yêu tự do và ông là một nghệ sĩ cô đơn. Bài thơ “ Đàn ghi ta của Locar” đã làm sống lại huyền thoại của đất nước Tây Ban Nha Mở đầu với sự cất lên tiếng đàn rộn rã đầy hứng khởi, nó tượng trưng cho tâm hồn sôi nổi, mạnh mẽ, yêu đời của Lor-ca nói riêng và của dân tộc Tây Ban Nha nói chung: Những tiếng đàn bọt nước Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt li-la li-la li-la đi lang thang về miền đơn độc với vầng trăng chếnh choáng trên yên ngựa mỏi mòn Những nét đặc trưng của Tây Ban Nha ngay từ đầu đã được khơi gợi một cách khéo léo, đó là màu áo choàng đỏ gắt nhắc tới một nét độc đáo trong đời sống văn hóa của người dân Tây Ban Nha. Những nét chấm phá vẽ ra hình ảnh Lor-ca – một nghệ sĩ tự do và đơn độc một cách đầy ấn tượng. Áo choàng đỏ khiến người ta liên tưởng tới môn đấu bò môt nét văn hóa ở Tây Ban Nha, vừa giúp chúng ta hình dung khá cụ thể về Lor-ca. Áo đỏ của các chàng đấu sĩ nổi bật giữa đấu trường với chiếc áo choàng đỏ thắm trên vai và mảnh vải đỏ trong tay, bằng sự sáng suốt, khéo léo và lòng dũng cảm sẽ hạ gục chú bò tót to lớn, hung dữ trong một hiệp đấu ngắn ngủi trước sự chứng kiến của hàng vạn khán giả. Cảm xúc từ sự sống bừng bừng đột ngột chuyển sang cái chết bi thảm chỉ trong khoảnh khắc, một khoảnh khắc nghiệt ngã, kinh hoàng. Tây Ban Nha hát nghêu ngao bỗng kinh hoàng áo choàng bê bết đỏ Lor-ca bị điệu về bãi bắn chàng đi như người mộng du tiếng ghi ta nâu bầu trời cô gái ấy tiếng ghi ta lá xanh biết mấy tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy Đó là cái chết của Lorca khiến nhiều người không khỏi kinh ngạc và ám ảnh : Bằng cách sử dụng các điệp từ, điệp ngữ, nhân hóa, ẩn dụ, tượng trưng đa nghĩa và đối lập được tác giả khai thác triệt để nhằm thể hiện bi kịch của Lor-ca. Từ đó đoạn thơ đã làm nổi bật sự đối lập giữa khát vọng tự do của người nghệ sĩ với bạo lực tàn ác của bọn phát xít giữa niềm lạc quan yêu đời với hiện thực đẫm máu. Biểu hiện cho sự sống bỗng nhiên tắt trước cái chết khủng khiếp hiện diện qua hình ảnh gây ấn tượng rùng rợn : áo choàng bê bết đỏ. Lorca đã bị bắn máu chảy thành dòng và rướm cả vào áo choàng và cây đàn ghita. Tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy không đơn thuần chỉ là nghệ thuật nhân hóa mà cao hơn thế, nó là linh hồn của Lor-ca, là một hình ảnh gây ấn tượng và ám ảnh sâu đậm, day dứt khôn nguôi. Những câu chữ trong thơ tạo nên hình khối, thành dòng máu chảy, góp phần nêu bật ý nghĩa tiếng đàn ghi ta ở những cung bậc khác nhau, hoàn cảnh khác nhau. Sự bất tử của tiếng đàn Lor-ca còn biểu hiện tập trung ở những khổ thơ cuối. Sự khâm phục chân thành và lòng tiếc thương vô hạn của nhà thơ Thanh Thảo đối với Lor-ca. Mỗi so sánh là một ẩn dụ về cái đẹp, tình yêu, nỗi đau, cái chết tương ứng với tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh biết mấy, tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy. Câu thơ như tiếng nấc có âm điệu ngắt quãng giống như tiếng khóc nghẹn ngào, thổn thức: "Không ai chôn cất tiếng đàn tiếng đàn như cỏ mọc hoang giọt nước mắt vầng trăng long lanh trong đáy giếng đường chỉ tay đã đứt dòng sông rộng vô cùng Lor-ca bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc chàng ném lá bùa cô gái Di-gan vào xoáy nước chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt li-la li-la li-la… Các biện pháp so sánh và ẩn dụ tượng trưng để khắc đậm niềm tin. Vì quá thương tiếc mà nhà thơ dùng những hình ảnh ẩn dụ cho cái chết của Lor – ca Cùng với ý không ai chôn cất tiếng đàn, hình ảnh đường chỉ tay là ẩn dụ về số phận, về định mệnh nghiệt ngã.. Và hành động ném lá bùa, ném trái tim mình cũng có ý nghĩa tượng trưng cho sự giã từ vĩnh viễn, một sự lựa chọn của Lor-ca.Sự bất tử của Lorca thì tinh thần của ông và nghệ sĩ tài năng như ông đã có sức lan tỏa tới người đọc, tới những con người yêu chuộng tự do và hòa bình yêu lạc quan. Tiếng đàn của ông cứ thế lan tỏa không ai có thể chế ngự và cất lên những âm thanh vang vọng: không ai chôn cất tiếng đàn – tiếng đàn như cỏ mọc hoang… người mà ông suốt đời theo đuổi. Đấy là cái đẹp không bạo lực nào có thể hủy diệt nổi. Nó sẽ sống mãi, truyền lan mãi, giản dị mà kiên cường như cỏ dại. Nó còn chứa đựng cả tâm trạng của người nghệ sĩ đọng lại thành những hình ảnh đẹp và buồn: giọt nước mắt vầng trăng – long lanh trong đáy giếng,… như giọt nước mắt khóc thương người nghệ sĩ chân chính của nhân dân. Cuộc đời, số phận của Lor-ca đã kết thúc nhưng tiếng đàn và sự ảnh hưởng của ông vẫn ngân nga, vang vọng mãi: li-la li-la li-la. Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca là bài thơ dồi dào nhạc tính, được sáng tạo với chủ ý tô đậm hình Lor-ca – nghệ sĩ hát rong vĩ đại. Bằng chính tiếng đàn ghi ta để giãi bày nỗi đau buồn và khát vọng yêu thương của nhân dân mình. Nhạc tính của bài thơ từ vần và nhịp, các thủ pháp láy từ, điệp từ, sự kết hợp ngẫu hứng giữa các từ ngữ tạo nên những giai điệu mang tính chất âm nhạc khiến người đọc bị cuốn hút. Phân tích tác phẩm Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) – Bài số 3 Trong nửa đầu bài thơ, một không gian Tây Ban Nha đặc thù, nhất là không gian miền quê An-đa-lu-xi-a yêu dấu của Lor-ca đã được gợi lên. Giữa không gian đó, nổi bật hình tượng người nghệ sĩ lãng du có tâm hồn phóng khoáng, tha thiết yêu người, yêu đời, nhưng nghịch lí thay, lại không ngừng đi theo một tiếng gọi huyền bí nào đó hướng về miền đơn độc: "Những tiếng đàn bọt nước Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt Li-la li-la li-la Đi lang thang về miền đơn độc Với vầng trăng chếnh choáng Trên yên ngựa mỏi mòn … Tiếng ghi ta nâu Bầu trời cô gái ấy Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy Tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan" Tại sao tác giả lại có thể gợi lên được những điều ấy? – Trước hết là nhờ “đàn ghi ta của Lor-ca”. Tất nhiên, ở đây ta không nói tới một cây đàn cụ thể, dù vẫn biết Lor-ca là nghệ sĩ trình tấu rất xuất sắc ghi ta và dương cầm. Đàn ghi ta ở đây chính là thơ Lor-ca, là bản mệnh của Lor-ca. Đọc thơ Lor-ca, ta thường bắt gặp hình tượng một chàng kị sĩ đi mải miết, vô định dưới vầng trăng khi đỏ, khi đen, khi rạng ngời, khi u tối, khi nồng nàn, khi buốt lạnh,… Ta cũng thường được ngập mình trong phong vị, hương sắc riêng không thể nào quên được của miền quê Gra-na-đa thuộc xứ An-đa-lu-xi-a, nơi ngày xưa từng được xem là “một trong những vương quốc đẹp nhất của châu Phi” do người ả-rập dựng nên. ở đó có những chàng hiệp sĩ đấu bò tót khoác trên mình tấm áo choàng đỏ, có những cô gái Di-gan nước da nâu gợi tình tràn trề sức sống, có những vườn cam, những rặng ô-liu xanh một màu xanh huyền hoặc. Đặc biệt, ở đó luôn vang vọng tiếng đàn ghi ta – âm thanh nức nở, thở than làm vỡ toang cốc rượu bình minh, tựa tiếng hát của một con tim bị tử thương bởi năm đầu kiếm sắc, không gì có thể bắt nó im tiếng (ý thơ trong bài Đàn ghi ta)… Thanh Thảo quả đã nhập thần vào thế giới thơ Lor-ca để lẩy ra và đưa vào bài thơ của mình những biểu tượng ám ảnh bồn chồn vốn của chính thi hào Tây Ban Nha. Nhưng vấn đề không đơn giản chỉ là sự “trích dẫn”. Tất cả những biểu tượng kia đã được tổ chức lại xung quanh biểu tượng trung tâm là cây đàn, mà xét theo “nguồn gốc”, vốn cũng là một biểu tượng đặc biệt trong thơ Lor-ca – người mê dân ca, “chàng hát rong thời trung cổ”, “con sơn ca xứ An-đa-lu-xi-a”. Cây đàn từ chỗ mang hàm nghĩa nói về một định hướng sáng tạo gắn thơ với dòng nhạc dân gian, rộng ra, nói về một tình yêu vô bờ và khắc khoải đối với quê hương, đến Thanh Thảo, nó đã nhập một với hình tượng Lor-ca, hay nói cách khác, nó đã trở thành hình tượng “song trùng” với hình tượng Lor-ca. Cây đàn cất lên tiếng lòng của Lor-ca trước cuộc sống, trước thời đại. Nó là tinh thần thơ Lor-ca, là linh hồn, và cao hơn cả là số phận của nhà thơ vĩ đại này. Bởi thế, trên những văn bản thơ trước đây của Lor-ca là một văn bản mới của nhà thơ Việt Nam muốn làm sống dậy hình tượng người con của một đất nước, một dân tộc yêu nghệ thuật, ưa chuộng cuộc sống tự do, phóng khoáng. Hơn thế nữa, tác giả muốn hợp nhất vào đây một “văn bản” khác của đời sống chính trị Tây Ban Nha mùa thu 1936 – cái “văn bản” đã kể với chúng ta về sự bạo ngược của bọn phát xít khi chúng bắt đầu ra tay tàn phá nền văn minh nhân loại và nhẫn tâm cắt đứt cuộc đời đang ở độ thanh xuân của nhà thơ được cả châu Âu yêu quý : Tây Ban Nha Hát nghêu ngao Bỗng kinh hoàng Áo choàng bê bết đỏ Lor-ca bị điệu về bãi bắn Chàng đi như người mộng du … Tiếng ghi ta ròng ròng Máu chảy Ở trên, bài thơ của Thanh Thảo đã được trích theo lối cắt tỉa, phục vụ cho việc làm tường minh các ý thơ có trong đó. Trên thực tế, Đàn ghi ta của Lor-ca có một cấu trúc đầy ngẫu hứng, với sự xô nhau, đan cài nhau, tương tác với nhau của các văn bản. Chính nhờ vậy, tiếng hát yêu đời của Lor-ca được Thanh Thảo gợi lại, càng trở nên tha thiết hơn giữa tan nát dập vùi và những ám ảnh tưởng phi lí luôn dày vò nhà thơ Tây Ban Nha bỗng trở thành sự tiên tri sáng suốt. Sáng tạo nghệ thuật của Thanh Thảo được bộc lộ rõ trên các giao điểm này. Những hình ảnh, biểu tượng vốn có trong thơ Lor-ca được làm mới để chuyên chở những cảm nhận về chính thơ Lor-ca và về thân phận các nhà thơ trong thời hoành hành của bạo lực. Câu thơ những tiếng đàn bọt nước ở đầu bài nếu được nối kết với các câu thơ khác là tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan và tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy, sẽ bộc lộ một tiềm năng ý nghĩa lớn hơn nhiều so với ý nghĩa dễ nhận thấy gắn liền với việc diễn tả âm thanh tuôn trào, sôi động của tiếng đàn. Tiếng đàn giống như tiếng kêu cứu của con người, của cái đẹp trong thời khắc bị đẩy tới chỗ tuyệt diệt. Không có gì khó hiểu khi dưới ngòi bút Thanh Thảo, tiếng đàn cũng có màu (nâu, xanh), có hình thù (tròn), có sinh mệnh (ròng ròng máu chảy), bởi tiếng đàn ở đây chính là sự cảm nhận của nhà thơ nay về tiếng đàn xưa. Theo đó, tiếng đàn không còn là tiếng đàn cụ thể nữa, nó là sự sống muôn màu hiện hình trong thơ Lor-ca và là sinh quyển văn hoá, sinh quyển chính trị – xã hội bao quanh cuộc đời, sự nghiệp Lor-ca. Rồi màu đỏ gắt của tấm áo choàng, không nghi ngờ gì, là sáng tạo của Thanh Thảo. Nó không đơn thuần là màu của một trang phục. Nó có khả năng ám gợi một điều kinh rợn sẽ được nói rõ ra trong khổ thơ sau : áo choàng bê bết đỏ tức là tấm áo choàng đẫm máu của Lor-ca, của bao con người vốn chỉ biết hát nghêu ngao niềm yêu cuộc đời với trái tim hồn nhiên, ngây thơ, trong trắng, khi bị điệu về bãi bắn một cách tàn nhẫn, phũ phàng, phi lí (câu thơ chàng đi như người mộng du có phần thể hiện sự phi lí không thể nào nhận thức nổi này). Cùng một cách nhìn như thế, độc giả sẽ thấy những thi liệu của thơ Lor-ca (mà truy nguyên, một phần không nhỏ vốn là thi liệu của những bài dân ca An-đa-lu-xi-a) như hình ảnh người kị sĩ đi lang thang, yên ngựa, vầng trăng đã thực sự được tái sinh lần nữa trong một hình hài mới và gây được những ấn tượng mới. Các từ miền đơn độc, chếnh choáng, mỏi mòn gắn với chúng đã tạo ra một trường nghĩa chỉ sự mệt mỏi, bất lực, bồn chồn, thắc thỏm không yên của con người khi đối diện thực sự với cái bản chất phong phú vô tận của cuộc sống. Với kiểu tạo điểm nhấn ngôn từ của Thanh Thảo, ta hiểu rằng cảm giác đó không chỉ có ở Lor-ca. Nó là một hiện tượng có tính phổ quát, không của riêng ai, không của riêng thời nào, tất nhiên, chỉ được biểu hiện đậm nét và thực sự trở thành “vấn đề” trong thơ của những nhà thơ luôn thắc mắc về ý nghĩa của tồn tại. Gồm một chuỗi âm thanh mơ hồ khó giải thích, dòng thơ li-la li-la li-la xuất hiện hai lần trong thi phẩm một mặt có tác dụng làm nhoè đường viền ý nghĩa của từng hình ảnh, biểu tượng đã được ném ra chừng như lộn xộn, mặt khác, đảm nhiệm một phần chức năng liên kết chúng lại thành một chỉnh thể, nhằm biểu hiện tốt nhất cái nhìn nghệ thuật của tác giả và giải phóng bài thơ khỏi sự trói buộc của việc thuật, kể những chuyện đã xảy ra trong thực tế. Quả vậy, dù không có sự kiện nào của cuộc đời Lor-ca được kể lại một cách rành mạch, chi tiết, nhưng độc giả hiểu thơ không vì thế mà cho rằng thiếu. Cái người ta thấy đáng quan tâm lúc này nằm ở chỗ khác. Đó là sự tự bộc lộ của chủ thể sáng tạo khi ráo riết suy nghĩ về số phận đầy bất trắc của nghệ thuật và khả năng làm tan hoà những suy nghĩ ấy trong một thứ nhạc thơ tác động vào người tiếp nhận bằng hình thức ám gợi tượng trưng hơn là hình thức giãi bày, kể lể kiểu lãng mạn. Tất nhiên, chúng ta có quyền cắt nghĩa tại sao lại li-la chứ không phải là cái gì khác. Hoa li-la (tử đinh hương) với màu tím mê hoặc, nao lòng, từng là đối tượng thể hiện quen thuộc của nhiều thi phẩm và hoạ phẩm kiệt xuất trong văn học, nghệ thuật phương Tây chăng? Hay đó là âm thanh lời đệm (phần nhiều mang tính sáng tạo đột xuất) của phần diễn tấu một ca khúc, hoặc nữa là âm thanh mô phỏng tiếng ngân mê đắm của các nốt đàn ghi ta dưới tay người nghệ sĩ ?… Tất cả những liên hệ ấy đều có cái lí của chúng ! Ở nửa sau của bài thơ, tác giả suy tưởng về sức sống kì diệu của thơ Lor-ca nói riêng và về sự trường tồn của nghệ thuật chân chính nói chung, vốn được sáng tạo bằng chính trái tim nặng trĩu tình yêu cuộc sống của các nghệ sĩ : Không ai chôn cất tiếng đàn Tiếng đàn như cỏ mọc hoang Giọt nước mắt vầng trăng Long lanh đáy giếng Đường chỉ tay đã đứt Dòng sông rộng vô cùng Lor-ca bơi sang ngang Trên chiếc ghi ta màu bạc Chàng ném lá bùa cô gái Di-gan Vào xoáy nước Chàng ném trái tim mình Vào lặng yên bất chợt Li-la li-la li-la… Câu thơ không ai chôn cất tiếng đàn có lẽ đã được bật ra trong tâm thức sáng tạo của Thanh Thảo khi ông nghĩ tới lời thỉnh cầu của Lor-ca trong bài Ghi nhớ – lời thỉnh cầu đã được dùng làm đề từ cho bài thơ ” Đàn ghita của Lor-ca”. Không, ở đây không có thao tác đối lập sắc lẻm của lí trí mà nhiều thi sĩ ưa dùng trong các bài thơ “chân dung” hay “ai điệu”, nhằm làm nổi bật những tứ thơ “mới” mang tính chất “ăn theo”. Chỉ có sự đau đớn trước cái chết thảm khốc của một thi tài mãnh liệt, mà xác bị quăng xuống một giếng sâu (hay vực ?) gần Gra-na-đa. Dĩ nhiên, ý nguyện của Lor-ca – một ý nguyện thể hiện chất nghệ sĩ bẩm sinh hoàn hảo của nhà thơ, nói lên sự gắn bó vô cùng sâu nặng của ông đối với nguồn mạch dân ca xứ sở – đã không được thực hiện. Nhưng nghĩ về điều đó, những liên tưởng dồn tới và ta bỗng vỡ ra một chân lí : không ai chôn cất tiếng đàn và dù muốn chôn cũng không được! Đây là tiếng đàn, một giá trị tinh thần, chứ không phải là một cây đàn vật thể. Tiếng đàn ấy trường cửu cùng tự nhiên và hơn thế, bản thân nó chính là tự nhiên. Nó vẫn không ngừng vươn lên, lan toả, ngay khi người nghệ sĩ sáng tạo ra nó đã chết. Dù thật sự thấm thía chân lí nói trên, tác giả vẫn không ngăn nổi lòng mình khi viết ra những câu thơ đau xót hết mực, thấm đượm một cảm giác xa vắng, bơ vơ, côi cút, như cảm giác của ta khi thấy cỏ mọc hoang đang ngao hát bài ca vắng người giữa mang mang thiên địa. Không phải ngẫu nhiên mà trong ít nhất hai phương án ngôn từ có thể dùng, Thanh Thảo đã lựa chọn cách diễn đạt không ai chôn cất chứ không phải là không ai chôn được ! Đến lượt độc giả, giọt nước mắt vầng trăng cứ mãi làm ta thao thức, dù nó long lanh trong im lặng, và hình như càng im lặng trong thăm thẳm đáy giếng, nó lại càng long lanh hơn bao giờ hết. Từ câu đường chỉ tay đã đứt đến cuối bài, nhịp điệu, tiết tấu của thi phẩm không còn gấp gáp và dồn bức nữa. Nó chậm rãi và lắng sâu. Điều này tuân theo đúng lô gích tái hiện và suy ngẫm (tạm quy về phạm trù “nội dung”) mà tác giả chọn lựa. Nhưng quan trọng hơn, nó tuân theo lô gích tồn tại của chính cuộc đời : tiếp liền cái chết là sự sinh thành, sau bộc phát, sôi trào là tĩnh lặng, trầm tư, nối theo sự mù loà, khủng hoảng (của xã hội loài người) là sự khôn ngoan, chín chắn,… Trong muôn nghìn điều mà con người phải nghĩ lại khi đã “khôn dần lên”, sự hiện diện của nghệ thuật trong đời sống là một trong những điều khiến ta trăn trở nhiều nhất. Việc quy tội, kết tội cho một đối tượng cụ thể nào đó đã đối xử thô bạo với nghệ thuật không còn là chuyện thiết yếu nữa. Hãy lắng lòng để chiêm ngưỡng một sự siêu thoát, một sự hoá thân. Trên dòng sông của cuộc đời, của thời gian vĩnh cửu mà trong khoảnh khắc bừng tỉnh thoát khỏi mê lầm, ta tưởng thấy nó hiện hình cụ thể và dăng chiếu ngang trời, có bóng chàng nghệ sĩ Lor-ca đang bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc. Chàng đang vẫy chào nhân loại để đi vào cõi bất tử. Chiếc ghi ta, cũng là con thuyền thơ chở chàng, có ánh bạc biêng biếc, hư ảo một màu huyền thoại… Trên thực tế, cái chết của Lor-ca là cái chết tức tưởi do bọn phát xít Frăng-cô gây nên. Nhưng nhìn suốt chiều dài lịch sử, ta thấy Lor-ca không phải là trường hợp nghệ sĩ đầu tiên hay cuối cùng chịu kết cục bi thương bởi các thế lực thù địch với cái đẹp. Vậy phải chăng có thể xem những khổ nạn liên tục là một phần tất yếu trong định mệnh của họ ? Hẳn Thanh Thảo đã nghĩ vậy khi viết tiếp những câu thơ thật gọn nghẽ, “nhẹ nhõm” và “mênh mang” (ta hãy chú ý tới điểm rơi cuối dòng thơ của các từ, cụm từ như đã đứt, vô cùng, sang ngang). Dù ai tiếc thương mặc lòng, đối với người nghệ sĩ như Lor-ca, khi đường chỉ tay đã đứt (đường chỉ tay như dấu ấn của số mệnh đóng lên cơ thể con người), chàng đã dứt khoát được giải thoát. Còn nuối làm chi lá bùa hộ mệnh được xem là vật tàng trữ những sức mạnh thần diệu mà cô gái Di-gan trao cho. Chàng, dứt khoát và mạnh mẽ, ném nó “chìm lỉm” (chữ của Hàn Mặc Tử) vào xoáy nước hư vô, như ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt – cái lặng yên của sự “đốn ngộ”, cái lặng yên sâu thẳm, anh minh, mà ở đó, lời nói đã tan đi trong chính nó. Chàng đã đoạt lấy thế chủ động trước cái chết của mình. Chàng đã thắng không chỉ lũ ác nhân mà còn thắng cả chính định mệnh và hư vô nữa. Từ điểm này nhìn lại, ta bỗng thấy câu thơ chàng đi như người mộng du ở phần trên có thêm tầng nghĩa mới. Bị lôi đến chỗ hành hình, Lor-ca vẫn sống như người trong cõi khác. Chàng đang bận tâm đuổi theo những ý nghĩ xa vời. Chàng đâu thèm chú ý tới máu lửa quanh mình lúc đó. Chàng đã không chấp nhận sự tồn tại của bạo lực. Chàng chết, nhưng kẻ bất lực lại chính là lũ giết người ! ở đây, có một cái gì gợi ta nhớ tới sự tuẫn nạn của Chúa Giê-su trên núi Sọ. Lại thêm một “văn bản” nữa ẩn hiện tỏ mờ dưới văn bản thơ của Thanh Thảo[1] !… Trong đoạn thơ cuối bài vừa phân tích, người đọc càng nhìn thấy rõ hơn sự vững vàng của tác giả trong việc phối trí các hình ảnh, biểu tượng lấy từ nhiều “văn bản” khác nhau vào một tổng thể hài hoà. Tưởng không có gì chung giữa đường chỉ tay, lá bùa, xoáy nước và cả lặng yên nữa. Vậy mà, nhờ được “tắm” trong một “dung môi” cảm xúc có cường độ mạnh cùng sự suy tư có chiều sâu triết học, tất cả chúng trở nên ăn ý với nhau lạ lùng để cùng cất tiếng khẳng định ý nghĩa của những cuộc đời dâng hiến hoàn toàn cho nghệ thuật, cũng là cho một nhu cầu tinh thần vĩnh cửu của loài người. Là sản phẩm tinh tuý của những cuộc đời như thế, thơ ca làm sao có thể chết ? Nó tồn tại như là hơi thở xao xuyến của đất trời. Nó gieo niềm tin và hi vọng. Nó khơi dậy khát khao hướng về cái đẹp. Nó thanh lọc tâm hồn để ta có được tâm thế sống an nhiên giữa cuộc đời không thôi xáo động, vĩnh viễn xáo động. Muốn mô tả nó ư ? Chỉ có thể, như Thanh Thảo, sau một thoáng mặc tưởng, bật thốt lên : li-la li-la li-la… Để lòng mình ngân theo chuỗi âm thanh ấy, ta hiểu rằng trong cuộc tương tranh không ngừng và hết sức thú vị giữa những cách diễn tả đặc hữu của văn học và cách diễn tả mang tính chất ám gợi huyền hồ của âm nhạc, cuối cùng, ở bài thơ của Thanh Thảo, cách diễn tả của âm nhạc đã chiếm ưu thế. Điều này hiển nhiên là một sự lựa chọn có ý thức. Để nói về nỗi cô đơn, cái chết, sự lặng yên, “lời” vẫn thường gây vướng víu, gây nhiễu. Chỉ có nhạc với khả năng thoát khỏi dấu ấn vật chất của sự vật khi phản ánh nó, trong trường hợp này, là phương tiện thích hợp. Tất nhiên, Thanh Thảo không phải đang làm nhạc mà là làm thơ. Nói nhạc ở đây không có gì khác là nói tới cách thơ vận dụng phương thức của nhạc – cái phương thức ám thị, khước từ mô tả trực quan – để thấu nhập bề sâu, “bề xa” của sự vật. Từ lâu, các nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa đã hướng tới điều này. Dù không nhất thiết phải quy ” Đàn ghita của Lor-ca” vào loại hình thơ nào, ta vẫn thấy nó đậm nét tượng trưng. Chẳng có gì lạ khi với bài thơ này, Thanh Thảo muốn thể hiện mối đồng cảm sâu sắc đối với Lor-ca -. cây đàn thơ lạ lùng trong nền thi ca nhân loại ở nửa đầu của thế kỉ XX đầy bi kịch. Phân tích tác phẩm Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) – Bài số 4 Nhà thơ Thanh Thảo tên thật là Hồ Thành Công, sinh năm 1946, quê ở huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Tài năng thơ ca của Thanh Thảo phát triển và trưởng thành trong những năm cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Thanh Thảo đem đến cho thơ ca thời đó tiếng nói trung thực của một thế hệ tình nguyện cầm súng bảo vệ Tổ quốc, vẫn là cái tôi công dân đầy nhiệt huyết nhưng thơ Thanh Thảo nghiêng về phản ánh tiếng nói của người trí thức nhiều suy tư, trăn trở trước các vấn đề nóng bỏng của xã hội và thời đại. Thanh Thảo muốn cuộc sống phải được cảm nhận và thể hiện ở chiều sâu bản chất của nó nên ông không chấp nhận lối biểu đạt ồn ào, dễ dãi. Những tập thơ viết về con người trong chiến tranh và hòa bình của Thanh Thảo đã được đánh giá cao: Những người đi tới biển, Dấu chân qua trảng cỏ, Những ngọn sóng mặt trời, Khối vuông ru-bich, Từ một đến một trăm… Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca in trong tập Khối vuông ru-bich, xuất bản năm 1985 được dư luận đánh giá là thành công về nhiều mặt của Thanh Thảo: “Khi tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn”. (Ph. G. Lor-ca) những tiếng đàn bọt nước Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt li-la li-la ti-la đi lang thang về miền đơn độc với vầng trăng chếnh choáng trên yên ngựa mỏi mòn Tây Ban Nha hát nghêu ngao bỗng kinh hoàng áo choàng bê bết đỏ Lor-ca bị điệu về bãi bắn chàng đi như người mộng du tiếng ghi ta nâu bầu trời cô gái ấy tiếng ghi ta lá xanh biết mấy tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy không ai chôn cất tiếng đàn tiếng đàn như cỏ mọc hoang giọt nước mắt vầng trăng long lanh trong đáy giếng đường chỉ tay đã đứt dòng sông rộng vô cùng Lor-ca bơi sang ngang trên chiếc ghi tar màu bạc chàng ném lá bùa cô gái Di-gan vào xoáy nước chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt li-la li-la li-la… Bài thơ viết về cái chết của Fê-đê-ri-cô Gar-xi-a Lor-ca (1898 – 1936), thi sĩ, nhạc sĩ, nhà biên kịch thiên tài người Tây Ban Nha. Dòng máu nóng bỏng nhiệt tình thôi thúc nhà thơ cất cao tiếng đàn, tiếng hát, lời thơ để ca ngợi tự do bất diệt, phản đối bản chất tàn bạo, xấu xa của bè lũ phát xít Phơ-răng-cô. Ông đã bị chúng sát hại ngày 19-8-1936, khi ông mới 38 tuổi. Cả đất nước Tây Ban Nha khóc thương ông, một nhà thơ – chiến sĩ của tự do. Cái chết của Lor-ca là sự kiện gây chấn động dư luận không những ở Tây Ban Nha mà còn trên toàn thế giới, không chỉ lúc bấy giờ mà còn âm vang tới nhiều năm sau. Thanh Thảo vô cùng khâm phục và yêu mến khí phách cũng như tài năng của Lor-ca nên đã dành tâm huyết để viết nên bài thơ giống như dựng một tượng đài sừng sững về Lor-ca trong tâm tưởng những người mến mộ ông qua một hình ảnh quen thuộc mà độc đáo: cây đàn ghi ta. Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng Lor-ca và biểu tượng nghệ thuật Lor-ca trong mạch cảm xúc và suy tư đa chiều, vừa sâu sắc, vừa mãnh liệt của tác giả. Hình tượng Gar-xi-a Lor-ca trong bài thơ có thể được cảm nhận ở nhiều cấp độ, nhiều khía cạnh khác nhau nhưng khái quát lại có thể thấy một số nét chính : Đó là một nghệ sĩ tự do và cô đơn. Tuy bị giết chết bởi thế lực phát xít tàn ác nhưng tâm hồn Lor-ca bất diệt. Bài thơ làm sống lại huyền thoại về một con người, một nghệ sĩ, một chiến sĩ của đất nước có truyền thông âm nhạc, thi ca và những vũ điệu rực lửa. Câu nói nổi tiếng : Khi tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn của Lor-ca được lấy làm đề từ của bài thơ giống như một “chìa khóa” ngầm hướng người đọc tới sự hiểu biết đúng đắn thông điệp của bài thơ. Trong nhận thức của một người đọc bình thường, câu nói này hiển nhiên bộc lộ tình yêu say đắm của Lor-ca với nghệ thuật. Nhưng không chỉ có vậy, nó còn là tình yêu tha thiết của người nghệ sĩ với xứ sở của mình. Mở đầu bài thơ là tiếng đàn rộn rã đầy hứng khởi tượng trưng cho tâm hồn sôi nổi, mạnh mẽ, yêu đời của Lor-ca nói riêng và của dân tộc Tây Ban Nha nói chung. Hình ảnh Lor-ca – một nghệ sĩ tự do và đơn độc – được giới thiệu bằng những nét chấm phá gây ấn tượng mạnh mẽ: những tiếng đàn bọt nước Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt li-la li-la li-la đi lang thang về miền đơn độc với vầng trăng chếnh choáng trên yên ngựa mỏi mòn Màu áo choàng đỏ gắt nhắc tới một nét độc đáo trong đời sống văn hóa của người dân Tây Ban Nha vừa giúp chúng ta hình dung khá cụ thể về Lor-ca, vừa gợi hồi tưởng đến trò chơi đấu bò tót mạo hiểm, dũng mãnh có sức cuốn hút rất lớn với đông đảo dân chúng Tây Ban Nha và du khách quốc tế. Các chàng đấu sĩ nổi bật giữa đấu trường với chiếc áo choàng đỏ thắm trên vai và mảnh vải đỏ trong tay. Đơn độc với thanh kiếm hoặc mũi lao, chàng đấu sĩ bằng sự sáng suốt, khéo léo và lòng dũng cảm sẽ hạ gục chú bò tót to lớn, hung dữ trong một hiệp đấu ngắn ngủi trước sự chứng kiến của hàng vạn khán giả trên sân. Nhưng ở đây không, phải là đấu trường với cuộc đấu giữa võ sĩ với bò tót mà là một đấu trường đặc biệt với cuộc đấu dai dẳng, bền bỉ mà không kém phần ác liệt giữa khát vọng dân chủ của công dân Lor-ca với nền chính trị độc tài phát xít Phơ-răng-cô. Ở khổ thơ thứ hai và thứ ba, tác giả diễn tả cái chết đột ngột của Lor-ca bằng các chỉ tiết đặc biệt gây ám ảnh sâu sắc trong lòng người đọc. Từ sự sống bừng bừng đột ngột chuyển sang cái chết bi thảm chỉ trong khoảnh khắc, một khoảnh khắc nghiệt ngã, kinh hoàng : Tây Ban Nha hát nghêu ngao bỗng kinh hoàng áo choàng bê bết đỏ Lor-ca bị điệu về bãi bắn chàng đi như người mộng du tiếng ghi ta nâu bầu trời cô gái ấy tiếng ghi ta lá xanh biết mấy tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy Có thể nói Thanh Thảo đã thực sự hóa thân vào nhân vật trữ tình để cảm nhận thấm thía nỗi đau đớn vô biên và thể hiện điều đó bằng ngôn ngữ của trái tim, của ngòi bút như rướm máu. Thủ pháp nghệ thuật chủ đạo trong đoạn thơ này là cách sử dụng điệp từ, điệp ngữ, nhân hóa, ẩn dụ, tượng trưng đa nghĩa và đối lập được tác giả khai thác triệt để nhằm thể hiện bi kịch của Lor-ca. Đoạn thơ đã làm nổi bật sự đối lập giữa khát vọng tự do của người nghệ sĩ với bạo lực tàn ác của bọn phát xít, giữa tiếng hát yêu đời với hiện thực phũ phàng đẫm máu. Cái chết đến với Lor-ca hoàn toàn bất ngờ. Người nghệ sĩ ấy tuy luôn bị ám ảnh bởi cái chết nhưng không hề nghĩ là nó lại đến sớm như thế và đến vào lúc không ngờ nhất. Tiếng hát tượng trưng cho sự sống bỗng nhiên tắt lịm trước cái chết khủng khiếp hiện diện qua hình ảnh gây ấn tượng rùng rợn: áo choàng bê bết đỏ. Dòng máu sôi sục khát vọng tự do của Lor-ca đã tuôn đổ trên mảnh đất mà ông yêu quý. Hình ảnh này chứa đựng ý nghĩa tố cáo tội ác dã man của bè lũ phát xít Phơ-răng-cô đối với nhân dân Tây Ban Nha yêu chuộng tự do, hòa bình, công lí. Sự kiện thảm khốc ấy tạo ra những cú sốc dây chuyền được tác giả diễn tả theo lối ẩn dụ tượng trưng với sự chuyển đổi cảm giác liên tục khá mới mẻ, táo bạo, qua những âm thanh vỡ ra thành màu sắc, hình khối, thành dòng máu chảy, góp phần nêu bật ý nghĩa tiếng đàn ghi ta ở những cung bậc khác nhau, hoàn cảnh khác nhau. Mỗi so sánh là một ẩn dụ về cái đẹp, về tình yêu, về nỗi đau, về cái chết: tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh biết mấy, tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy. Hình ảnh tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy không đơn thuần chỉ là nghệ thuật nhân hóa mà cao hơn thế, nó là con người, là số phận, là linh hồn của Lor-ca. Đây là một hình ảnh gây ấn tượng và ám ảnh sâu đậm, day dứt khôn nguôi trong tâm hồn người đọc. Niềm tin vào sự bất tử của tiếng đàn Lor-ca còn biểu hiện tập trung ở những khổ thơ cuối. Sự khâm phục chân thành và lòng tiếc thương vô hạn của nhà thơ Thanh Thảo đối với Lor-ca là cơ sở vững chắc của niềm tin mãnh liệt ấy. Tình cảm đau xót thể hiện qua những câu thơ có âm điệu ngắt quãng giống như tiếng khóc nghẹn ngào, thổn thức: không ai chôn cất tiếng đàn tiếng đàn như cỏ mọc hoang giọt nước mắt vầng trăng long lanh trong đáy giếng đường chỉ tay đã đứt dòng sông rộng vô cùng Lor-ca bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc chàng ném lá bùa cô gái Di-gan vào xoáy nước chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt li-la li-la li-la… Ở đoạn thơ này, Thanh Thảo vẫn tiếp tục sử dụng các biện pháp so sánh và ẩn dụ tượng trưng để khắc đậm niềm tin. Cùng với ý không ai chôn cất tiếng đàn, hình ảnh đường chỉ tay là ẩn dụ về số phận, về định mệnh nghiệt ngã, ít nhiều nhắc nhớ đến chi tiết Gar-xi-a Lor-ca bị bọn phát xít thủ tiêu và ném xác xuống giếng. Các hình ảnh tượng trưng như giọt nước mắt vầng trăng long lanh trong đáy giếng, dòng sông, lá bùa, chiếc ghi ta màu bạc,… đều được sáng tạo theo lối thơ tượng trưng ám chỉ cõi chết, nơi siêu thoát. Các hành động ném lá bùa, ném trái tim mình cũng có ý nghĩa tượng trưng cho sự giã từ vĩnh viễn, một sự lựa chọn của Lor-ca. Câu thơ: không ai chôn cất tiếng đàn – tiếng đàn như cỏ mọc hoang… chứa đựng nhiều tầng nghĩa. Tiếng đàn tượng trưng cho nghệ thuật của Lor-ca, cho tình yêu tự do và yêu con người mà ông suốt đời theo đuổi. Đấy là cái đẹp không bạo lực nào có thể hủy diệt nổi. Nó sẽ sống mãi, truyền lan mãi, giản dị mà kiên cường như cỏ dại. Đây cũng là nỗi xót thương trước cái chết bi thảm của một thiên tài; trước hành trình cách tân nghệ thuật dang dở không chỉ với bản thân Lor-ca mà còn với nền văn chương Tây Ban Nha. Nghệ thuật bỗng thành thứ cỏ mọc hoang ?! Nhưng ý thơ đâu chỉ dừng lại ở đó. Dường như còn có cả tâm trạng của người nghệ sĩ đọng lại thành những hình ảnh đẹp và buồn: giọt nước mắt vầng trăng – long lanh trong đáy giếng,… như giọt nước mắt khóc thương người nghệ sĩ chân chính của nhân dân. Câu thơ gợi những suy tư, liên tưởng đa chiều trong lòng người đọc. Nói về cái chết và để cái chết của Lor-ca bớt phần bỉ thảm, nhà thơ Thanh Thảo đã kết hợp những hình ảnh dân gian với những hình ảnh hiện đại để thể hiện sáng tạo nghệ thuật của riêng mình: đường chỉ tay đã đứt, dòng sông rộng vô cùng; phận người thì ngắn ngủi mà thế giới thì mênh mang. Lor-ca đã đi vào cõi bất tử với hình ảnh: Lor-ca bơi sang ngang – trên chiếc ghi ta màu bạc. Các hành động ném lá bùa vào xoáy nước, ném trái tim mình vào cõi lặng yên bất chợt đều mang nghĩa tượng trưng cho sự giã từ và giải thoát, chia tay thực sự với những ràng buộc và hệ lụy trần gian… Cây đàn ghi ta quen thuộc gắn bó với Lor-ca như hình với bóng giờ đây đã trở thành con thuyền đưa linh hồn ông sang thế giới bên kia, một thế giới an lạc vĩnh hằng không có chiến tranh, không còn đổ máu. Cuộc đời, số phận của Lor-ca đã kết thúc nhưng tiếng đàn của ông vẫn ngân nga, vang vọng mãi: li-la li-la li-la. Đàn ghi ta của Lor-ca là bài thơ dồi dào nhạc tính, được sáng tạo với chủ ý tô đậm hình tượng Gar-xi-a Lor-ca – nghệ sĩ hát rong vĩ đại – người đã dùng tiếng đàn ghi ta để giãi bày nỗi đau buồn và khát vọng yêu thương của nhân dân mình. Có thể nhận ra nhạc tính của bài thơ từ vần và nhịp, các thủ pháp láy từ, điệp từ, sự kết hợp ngẫu hứng giữa các từ ngữ tạo nên những giai điệu mang tính chất âm nhạc. Những từ mô phỏng âm thanh qua các nốt đàn ghi ta. Giai điệu bài thơ mang dáng dấp một bản nhạc không lời. Tiếng đàn tượng trưng cho nghệ thuật, cho tình yêu tự do, tình yêu con người của Lor-ca, tượng trưng cho Cái Đẹp của đời. Bạo lực phát xít giết chết Lor-ca nhưng không thể nào giết chốt tiếng đàn du dương, réo rắt của ông đã gieo vào lòng người dân Tây Ban Nha những hạt giống tự do và khát vọng. Cái Đẹp là bất tử. Lor-ca được coi là thần tượng bởi lòng yêu tự do, yêu con người, bởi khí phách kiên cường không khuất phục trước những thế lực bạo tàn. Tâm hồn trong sáng và tài năng hiếm có khiến tên tuổi Lor-ca sống mãi trong tâm hồn người dân Tây Ban Nha. Nhắc tới Lor-ca, những người yêu mến ông nhớ ngay đến câu nói nổi tiếng bộc lộ tính cách của một nghệ sĩ chân chính: Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn. Nhà thơ Thanh Thảo đã viết về Lor-ca bằng rung động mãnh liệt của cảm xúc, bằng tấm lòng “liên tài” rất đáng trân trọng. Những sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ chứng tỏ tâm huyết và khát vọng đổi mới thơ ca của tác giả, góp phần làm cho khả năng thể hiện của ngôn ngữ tiếng Việt thêm tinh tế, phong phú và đa dạng. Phân tích tác phẩm Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) – Bài số 5 Thanh Thảo là nhà thơ có tiếng nói riêng, phong cách nghệ thuật riêng thể hiện cái tôi cá nhân ấn tượng trong nền văn học Việt Nam. Những sáng tác của ông đem đến cái nhìn mới mẻ cho thơ ca hiện đại. Bài thơ “Đàn ghi-tar của Lor ca” trích “Khối vuông rubich” đã để lại sức chứa lớn trong lòng người đọc về hình tượng nhân vật Lor ca – người nghệ sĩ vĩ đại của xứ sở Tây Ban Nha. Lor ca là cái tên quen thuộc đối với đất nước Tây Ban Nha, vì anh là biểu tượng của tự do, cho sự đấu tranh đòi hòa bình, đòi một cuộc sống bình yên cho nhân dân. Mặc dù bị sát hại nhưng Lor ca mãi là biểu tượng mà nhân dân Tây Ban Nha tôn thờ. Thanh Thảo đã mượn lời của người nghệ sĩ này làm lời đề từ cho bài thơ của mình có ẩn ý muốn gợi mở ra chiều dài thời gian và chiều sâu của không gian về người nghệ sĩ tài hoa này. Cả cuộc đời cống hiến, chiến đấu nhưng cuối cùng Lor ca lại chết thảm dưới chế độ phát xít tàn bạo. Với thể thơ tự do, không viết hoa đầu dòng, Thanh Thảo đã khiến người đọc tò mò về cách viết giàu sức gợi như thế này. "Những tiếng đàn bọt nước Táy Ban Nha áo choàng đỏ gắt Li la li la li la li la Đi lang thang về miền đơn độc Với vầng trăng chuếnh choáng Trên yên ngựa mỏi mòn" Nhịp thơ nhẹ nhàng, dàn trải nhưng giàu sức gợi, sức tả khiến người đọc mường tượng đến đất nước xinh đẹp Tây Ban Nha với tiếng đàn ghi tar đắm say, những trận đấu bò tót hài hùng, những mảnh đất thảo nguyên mênh mông, lãng mạn. Tuy nhiên cụm từ “tiếng đàn bọt nước” dường như gợi lên sự mờ ảo, biến đổi khó lường, có thể vỡ tan ra bất cứ lúc nào không hay. Có một dự báo nào đó chẳng lành, đầy bất an ở dâu thơ này. Tây Ban Nha là mảnh đất của những trận đấu bò tót độc đáo, đầy ấn tượng nhưng trong thơ Thanh Thảo, nó có còn giữ nguyên ý nghĩa đó nữa không. Chiến trường đấu bò tót có lẽ đã trở thành chiến trường chính trị ác liệt, nhiều đấu tranh, nhiều bon chen. Màu đỏ của áo choàng đã biến thành ‘đỏ gắt” phải chăng chính là chế độ độc quyền của chủ nghĩa phát xít đang hoành hành trên đất nước này. Hình ảnh Lor ca trở nên nhỏ nhoi, mệt mỏi trong cuộc chiến nhiều bấp bênh này. Tiếng đàn vẫn cứ cất lên “li la li la li la li la” và người nghệ sĩ đó “lang thang”, “chuếnh choáng”, “mỏi mòn” với những gì đang diễn ra. Cuộc chiến giữa nghệ sĩ chân chính với chế độ độc tài trở nên căng thẳng hơn. Người chiến sĩ đơn độc ấy trở nên lẻ loi, cô độc, không một ai có thể biên cạnh. "Tây Ban Nha Hát nghêu ngao Bỗng kinh hoàng Áo choàng bê bết đỏ Lor ca bị điệu về bãi bắn Chàng đi như người mộng du" Những hình ảnh thơ gây ấn tượng mạnh, cứa sâu vào lòng người sự chua xót trước hình ảnh người nghệ sĩ tài ba nhưng bất hạnh. Dân tộc Tây Ban Nha “kinh hoàng” sững sốt khi hình ảnh Lor ca bị điệu về bãi bắn một cách trắng trợn, đầy man rợ như vậy. Sự thật phũ phàng do chế độ phát xít mang lại đã khiến cho mọi người thất bất an. Từ “bỗng” ở đầu khổ thơ thứ hai chính là sự ngạc nhiên trước hình ảnh bi thương của nghệ sĩ Lor ca. Mặc dù bị “điệu” về bãi bắn một cách đầy đau đớn như vậy nhưng Lor ca vẫn giữ được sự bình thản, dám chấp nhận của bản thân bằng phong thái “chàng đi như người mộng du”. Đây là trạng thái tâm hồn không nhận thức được, tâm hồn và thể xác dường như tách lìa khỏi nhau. Đó là một phong thái rất đáng trân trọng, rất đáng nâng niu và ngưỡng mộ. Ở những khổ thơ tiếp, nỗi tiếc thương cho cuộc đời nhiều chua xót ấy: "Tiếng ghi tar nâu Bầu trời cô gái ấy Tiếng ghi tar lá xanh biết mấy Tiếng ghi tar tròn bọt nước vỡ tan Tiếng ghi tar ròng ròng máu chảy" “tiếng ghi tar” được lặp đi lặp lại như dồn nén cảm xúc trong lòng người, hay là tiếng căm phẫn đầy xót xa. Tiếng đàn ghi tar gắn liền với những thứ bình dị, với thiên nhiên ấm áp, với một cô gái, với bầu trời màu xanh tươi mới. Có lẽ đó là những thứ mà con người Tây Ban Nha mu