13/01/2018, 16:46

Phân tích tác phẩm Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi – Văn hay lớp 10

Phân tích tác phẩm Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi – Văn hay lớp 10 Phân tích tác phẩm Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn tỉnh Điện Biên Trong những ngày từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã viết nhiều bài thơ đặc sắc, trong số đó có bài ...

Phân tích tác phẩm Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi – Văn hay lớp 10

Phân tích tác phẩm Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn tỉnh Điện Biên

Trong những ngày từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã viết nhiều bài thơ đặc sắc, trong số đó có bài số 43 trong chùm thơ Bảo kính cảnh giới. Bài thơ là bức tranh phong cảnh mùa hè độc đáo nhưng thấp thoáng là niềm tâm sự của tác giả.

Câu thơ đầu tiên, ta đọc lên thoáng qua sao có vẻ an nhàn, êm đềm, thanh thoát đến thế.

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”

Câu thơ hiện lên hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Trãi, ông đang ngồi dưới bóng cây nhàn nhã như hóng mát thật sự. Việc quân, việc nước chắc đã xong xuôi ông mới trở về với cuộc sống đơn sơ, giản dị, mộc mạc mà chan hòa, gần gũi với thiên nhiên. Một số sách dịch là “Rỗi hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc còn đều xong xuôi, đã qua rồi “Ngày trường” lại làm tăng sự chú ý. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: “Nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài”. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải dành “hóng mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.

Về với thiên nhiên, ông lại có cơ hội gần gũi với thiên nhiên hơn. Ông vui thú, say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên.

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”.

Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông bừng bừng sức sống. Cây hòa lớn lên nhanh, tán cây tỏa rộng che rợp mặt đất như một tấm trướng rộng căng ra giữa trời với cành lá xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa hương, màu hồng của những cánh hoa điểm tô sắc thắm. Qua lăng kính của Nguyễn Trãi, sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời…

Qua cảnh mùa hè, tình cảm của Nguyễn Trãi cũng thể hiện một cách sâu sắc:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”.

 “Chợ” là hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no: chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có biến, có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh… lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. Chính những màu sắc nơi thôn dã này làm cho tình cảm ông thêm đậm đà sâu sắc và gợi lại ý tưởng mà ông đang đeo đuổi.

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương”.

“Dân giàu đủ”, cuộc sống của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc là điều mà Nguyễn Trãi từng canh cánh và mong ước. Ở đây, ông đề cập đến Ngu cầm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn “Nam Phong” khảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô khoai. Cho nên, tác giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân dân để ca ngợi cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc. Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ.

Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói, dù triều đình có thể xua đuổi Nguyễn Trãi nhưng ông vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng lí tưởng của mình được thực hiện để nhân dân có một cuộc sống ấm no.

Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sống thiên nhiên nhưng ức Trai vẫn canh cánh “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhàn dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng: mong cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán than, đau sầu.

Phân tích tác phẩm Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi – Bài làm số 2

 Nguyễn Trãi là một nhà văn, nhà thơ lớn của nền văn học trung đại của Việt Nam, trong quá trình sáng tác của mình, ông đã để lại cho hậu thế rất nhiều những tác phẩm thơ văn hay, có nhiều giá trị về nội dung, nghệ thuật cũng như thẫm mĩ. Bên cạnh những áng văn chính luận xuất sắc có thể kể đến như “Bình ngô đại cáo”, “Tái dụ vương thông thư”…thì Nguyễn Trãi còn rất nhiều những tác phẩm thơ văn viết về cảnh sắc của thiên nhiên,đất trời. Đặc biệt là sau khi ông đã từ quan và trở về ở ẩn nơi núi rừng Côn Sơn, Chí Linh, một trong số đó có thể kể đến, đó chính là bài thơ “Cảnh ngày hè” hay còn được gọi với tên khác, đó chính là “Bảo kính cảnh giới số 43”.

Nếu tìm hiểu về sự nghiệp sáng tác thơ văn của Nguyễn Trãi, ta có thể thấy sau khi về ở ẩn, nhà thơ thường có xu hướng sáng tác những bài thơ về cảnh sắc của thiên nhiên, đất trời, về cuộc sống dân dã, bình dị mà không kém phần tươi đẹp nơi nhà thơ ở ẩn. Ta cũng thấy được ở con người này một sự tài năng hơn người, khi sáng tác những áng văn chính luận thì sắc bén, chặt chẽ, với giọng điệu oai hùng, đanh thép. Thì khi viết về cảnh vật thiên nhiên của đất trời thì lại vô cùng tha thiết, tràn đầy cảm xúc, những bức tranh thơ mà Nguyễn Trãi vẽ ra trong các tác phẩm của mình có sức lôi cuốn đặc biệt đối với độc giả bởi nó quá sức chân thật, sống động.

Bài thơ “Cảnh ngày hè” là một bài thơ viết về cảnh sắc thiên nhiên ngày hè nơi mà tác giả ở ẩn. Bài thơ không chỉ cho người đọc thưởng ngoạn cảnh đẹp tươi mát, rực rỡ của ngày hè mà còn góp phần thể hiện được tâm thế, cảm xúc đầy tha thiết của nhà thơ trước cảnh đẹp ấy. Mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi đã tự khắc họa tư thế ung dung tự tại của chính mình, từ đó làm tiền đề cho mọi sự cảm nhận tinh tế, nhạy cảm trước cảnh sắc thiên nhiên:

Rồi hóng mát thuở ngày trường

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”

“Rồi” chỉ trạng thái tự do, ung dung tự tại của nhà thơ, đó chính là thời gian nhà thơ vô cùng thảnh thơi, tự tại khi không còn phải lo chuyện chính sự, nhà thơ có thể toàn tâm toàn ý cho việc ngắm cảnh, lòng thanh bạch không một chút bụi trần. Đó chính là tâm thế của những nhà Nho khi đã lui khỏi chốn quan trường mà về ở ẩn nơi thôn dã. Và trong bức tranh thơ này, hình ảnh của chính tác giả hiện lên đầy thư thái “Rồi bóng mát thuở ngày trường”, đó là một ngày bình thường, giữa nơi thiên nhiên hoang dã, nhà thơ Nguyễn Trãi đã ngồi “hóng mát”, đón nhận những luồng không khí mát mẻ, tươi mới chứ không phải cái nóng nực, bức bối đầy bát nháo của chốn quan trường đầy thị phi.

Trong tâm thế đầy tự do, tự tại ấy Nguyễn Trãi có điều kiện thưởng ngoạn, cảm nhận và thu vào tầm mắt của mình toàn bộ những cảnh vật đẹp đẽ nhất khi thiên nhiên vào hè, đó chính là “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”, những chiếc lá hòe xanh mướt, tươi tốt đã thu hút ánh nhìn của nhà thơ. Ở đây nhà thơ đã đặc biệt sử dụng từ “đùn đùn” vừa diễn tả được sự um tùm, tươi tốt của tán lá, vừa diễn tả được sự vận động nhanh chóng của những chiếc lá hòe khi chúng cùng nhau đâm chồi, làm cho tán lá tỏa ra rộng lớn và bao phủ khắp một vùng không gian “tán rợp giương”. Không chỉ có sắc xanh lục của tán lá mà bức tranh ngày hè của Nguyễn Trãi còn được điểm tô bởi màu sắc đỏ rực của những bông hoa thạch lựu:

“ Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Trong khung cảnh ngày hè, những bông hoa thạch lựu còn điểm xuyết cho không gian đầy tươi đẹp ấy sắc đỏ rực của những bông hoa “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”, đó chính là những bông hoa rực rỡ ở trước hiên nhà, tuy không trực tiếp miêu tả hình dáng, màu sắc và độ bung nở của hoa thạch lựu, nhưng trong cách sử dụng từ “phun” người đọc còn cảm nhận của sự lan tỏa về màu sắc hoa thạch lựu ra không gian, làm cho không gian ngày hè, rực rỡ hơn tươi đẹp hơn bởi màu sắc tươi sáng, bắt mắt này. Ngay sự xuất hiện của hình ảnh hoa thạch lựu đã gợi ngay liên tưởng cho ta đến những ngày hè, bởi hoa thạch lựu là loại hoa chỉ đơm hoa, kết trái vào ngày hè. Có thể nói Nguyễn Trãi đã rất khéo léo trong việc sử dụng và lựa chọn những cảnh vật tiêu biểu, đậm sắc để đưa vào bức tranh ngày hè của mình.

Không gian, cảnh sắc ngày hè không chỉ được gợi ra bởi sắc xanh của lá hòe, màu đỏ rực, tươi thắm của những bông hoa thạch lựu mà còn được diễn tả chân thực qua hương sen mà nhà văn cảm nhận được “Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”, đó chính là hương thơm của những đóa hoa sen nơi ao, hồ. Hoa sen cũng không được nhà thơ miêu tả rõ nét, cụ thể về màu sắc hay hình dáng mà chỉ được biểu hiện, nhận biết qua mùi hương của mình. “Tiễn” là động từ diễn tả sự vận động của mùi hương thơm mát, dịu ngọt đó. Hương sen không chỉ tỏa ngát nơi ao nhà mà còn được khuếch trương, lan tỏa vào không gian, làm dịu mát tâm hồn, đem đến cảm giác dễ chịu, thoải mái cho người cảm nhận.

Ta có thể thấy nhà thơ Nguyễn Trãi rất tinh tế trong việc lựa chọn đối tượng miêu tả, bởi ta có thể thấy nhà thơ không miêu tả trọn vẹn, cụ thể một cảnh vật nào mà chỉ chọn những nét đặc trưng nhất của cảnh vật ấy, mang lại hiệu quả cao về thẩm mĩ cũng như cảm nhận thị giác. Cũng trong bốn câu thơ miêu tả cảnh sắc thiên nhiên ngày hè này, Nguyễn Trãi không chỉ gợi mở cho người đọc về ấn tượng thị giác mà còn cả xúc giác, thính giác, gợi ra sự liên tưởng độc đáo của người đọc, làm cho người đọc có cảm tưởng như mình được tận mắt nhìn, cảm nhận mọi thứ trực tiếp vậy.

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Cảnh đẹp của ngày hè còn được Nguyễn Trãi gắn liền với nhịp sống lao động bình thường của người ngư dân nơi thôn dã. “Lao xao” diễn tả được âm thanh huyên náo, vừa diễn tả được nhịp độ lao động của những người dân nơi đây, đó là sự tấp nập, nhộn nhịp và diễn tả được không khí khẩn trương của công việc. Đây là không gian thân quen, gần gũi của những làng làm nghề đánh bắt cá. Và trong không gian nhộn nhịp, khẩn trương ấy là tiếng “cầm ve” vang lên tha thiết, rộn rã. Đây cũng là âm thanh quen thuộc mà ta thường bắt gặp trong những ngày hè.

“Rẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Nếu các câu thơ đầu nhà thơ Nguyễn Trãi chú trọng và tỉ mỉ khi vẽ những nét đặc trưng tươi đẹp của cảnh ngày hè thì hai câu thơ cuối bài lại thể hiện được tư tưởng nhập thế của Nguyễn Trãi, dù đã ở ẩn nơi thôn dã nhưng ông vẫn mang những nỗi niềm, những khát khao rất trần thế, ông mong muốn cho người dân khắp nơi của cả nước không còn cảnh lầm than mà “dân giàu đủ khắp đòi phương”, đó là một cuộc sống no ấm, đủ đầy mà nhà thơ ước vọng. Và thể hiện sự chân thành trong mong ước của mình, nhà thơ đã sử dụng điển tích của Trung Quốc “Rẽ có ngu cầm đàn một tiếng”. “Ngu cầm” ở đây là chỉ đàn của vua Ngu Thuấn, vì khi tiếng đàn ấy cất lên thì cuộc sống của người dân vô cùng no ấm, hạnh phúc. Qua câu thơ nhà thơ cũng thể hiện được sự nhân văn, tấm lòng nhân nghĩa của mình với nhân dân, dù có lui về ở ẩn nhưng nỗi niềm, mong mỏi ấy chưa bao giờ thôi khắc khoải trong tâm trí của nhà thơ.

Như vậy, bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi đã vẽ ra một bức tranh ngày hè thật chân thực, sinh động không chỉ bằng hình ảnh mà cả âm thanh, màu sắc, không chỉ gợi liên tưởng về cảm nhận thị giác mà cả khứu giác, thính giác. Bên cạnh đó, bài thơ cũng sáng rực lên bởi những mong ước đầy nhân nghĩa của nhà thơ khi mong muốn người dân sẽ có cuộc sống đủ đầy, no ấm. Đây là khát vọng của nhà thơ có tầm vóc về tư tưởng nhân nghĩa, là con người nhập thế luôn mong muốn những điều tốt đẹp cho dân, cho nước.

Phân tích tác phẩm Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi – Bài làm số 3

Nguyễn Trãi, vị anh hùng tên tuổi lẫy lừng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, là một con người tài năng kiệt xuất. Ông không chỉ để lại di sản phong phú về các mặt chính trị, quân sự, ngoại giao mà còn khẳng định tài năng của mình qua sự nghiệp văn chương đồ sộ. Có thể nói, ông là người khởi đầu cho nền thơ cổ điển bằng tiếng Việt qua tập thơ Nôm “Quốc âm thi tập” nổi tiếng. Bài “Cảnh ngày hè” là một bài trong số đó, nơi mà tác giả đã gửi gắm mọi tư tưởng, tình cảm yêu đời, yêu thiên nhiên và ước vọng cao đẹp của mình:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.”

Bài thơ được sáng tác vào khoảng thời gian Nguyễn Trãi về ở ẩn ở Côn Sơn. Ông tạm thời xa lánh chốn kinh đô tấp nập để về với thiên nhiên trong trẻo, an lành nơi dân dã; để rồi ghi lại cảm xúc phấn chấn của mình trước cảnh vật mùa hè tưng bừng sức sống và kín đáo gửi gắm khát vọng dân giàu, nước mạnh vào bài thơ

Mở đầu bài thơ là vẻ đẹp rực rỡ của bức tranh thiên nhiên ngày hè:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Câu lục ngôn mở đầu giới thiệu hoàn cảnh sống và tâm trạng của nhà thơ lúc bấy giờ:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”

Về hình thức, đây là sự phá cách, cách tân táo bạo trong thơ thất ngôn bát cú Đường luật: Phần đề có hai câu, nay chỉ còn một câu, lại là câu lục ngôn. Bên cạnh đó, nhịp thơ 1/2/3 chậm rãi phản ánh tư thế ung dung, tự tại vốn có của tác giả. Chữ “Rỗi” tách riêng thành một nhịp thể hiện sự nhàn nhã của ông, một người luôn luôn bận rộn với việc nước, việc dân. Đây là lúc ông được sống ung dung, được thỏa ước nguyện hòa mình với thiên nhiên mà ông hằng mơ ước. Tác giả ngồi “hóng mát” trong cảnh “ngày trường”. “Ngày trường” là ngày dài. Đây là cảm giác về thời gian của người sống trong cảnh nhàn rỗi, thấy ngày dường như dài ra. Với con người bận rộn, luôn muốn cống hiến như Nguyễn Trãi thì cảm giác ấy càng thể hiện rõ hơn hết. Ông rơi vào hoàn cảnh phải “hóng mát” hết ngày này qua ngày khác trong khi đất nước đang gặp khó khăn, rơi vào tâm trạng “bất đắc chí”. Một nụ cười chua chát của Nguyễn Trãi như hiện lên đằng sau câu thơ ấy… Việc đặt thanh bằng ở cuối câu là một sự cách tân mới khiến câu thơ nghe như tiếng thở dài nhưng không giống lời than thở, đồng thời thể hiện tâm hồn luôn rộng mở để đón nhận thiên nhiên và cuộc sống xung quanh của nhà thơ

Dường như, chỉ có vẻ đẹp hồn nhiên, vô tư của cảnh vật mới có thể tạm xua đi nỗi phiền muộn vương vít trong tâm hồn tác giả. Ông mở lòng với thiên nhiên:

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Thiên nhiên dưới nét bút của Nguyễn Trãi đã vẽ nên một bức tranh quê tươi khỏe, hài hòa và tràn đầy sức sống. Cây hòe với “tán rợp giương”, xanh um, trong khi cây lựu nở đầy những bông hoa “phun thức đỏ” và sen hồng thì “tiễn mùi hương”. Sức sống trong cây đang “đùn đùn” dâng lên cành, lên hoa, lên lá. Cây tỏa bóng rợp xuống mặt sân, tỏa luôn bóng mát vào cả tâm hồn thi sĩ.. Với cách miêu tả từ gần đến xa bằng nhiều giác quan, màu sắc sinh động, hài hòa, kết hợp với các động từ mạnh, từ láy, bốn câu thơ đầu đã tái hiện được bức tranh thiên nhiêu mùa hè sinh động, căng tràn nhựa sống, đồng thời thể hiện được tình yêu thiên nhiên của nhà thơ.

Nếu bốn câu thơ trên, Nguyễn Trãi chỉ miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên của vùng quê thôn dã thì ở hai câu thơ tiếp theo là vẻ đẹp thanh bình của bức tranh cuộc sống:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Từ tượng thanh “lao xao” đặt trước hình ảnh “chợ cá” làm nổi bật không khí nhộn nhịp của “làng ngư phủ”, đó là tiếng trao qua đổi lại, ồn ã tiếng nói tiếng cười. Hay tiếng ve kêu “dắng dỏi” như tiếng đàn bỗng vang lên trong “lầu tịch dương” báo hiệu chấm dứt ngày hè ở vùng quê. Tất cả những âm thanh ấy hòa lẫn vào nhau tạo nên bức tranh âm thanh sinh động, náo nhiệt, nó là hơi hướng của cuộc sống lao động cần cù, chân chất. Cảnh vật, thiên nhiên vào cuối ngày thật yên vui, thanh bình, nhưng cuộc sống thì không dừng lại…

Cỏ cây, hoa lá, con người đầy sức sống khơi dậy trong lòng nhà thơ cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng. Đó là tấm lòng ưu ái của ông đối với dân với nước, một tình yêu cuộc sống, yêu con người:

“Dẽ có ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”

“Ngu cầm”, điển tích về cây đàn của thời vua Nghêu, vua Thuấn, là thời đại thái bình thịnh trị trong lịch sử Trung Hoa cổ, được tác giả mượn để nói lên ước muốn của ông: “dẽ có” được trong tay cây đàn ấy, đàn một tiếng để dân chúng đều được giàu có, no đủ. Ẩn sau khát vọng ấy là sự trách móc nhẹ nhàng mà nghiêm khắc bọn quan thần tham bạo ở triều đình đương thần không còn nghĩ đến dân, đến nước. Vậy mới thấy, dù sống trong tâm trạng “bất đắc chí”, Nguyễn Trãi vẫn cảm nhận được cuộc sống thường ngày, gắn bó với thực tế, không nguôi ngoai nỗi niềm dân nước. Ông luôn khát khao được đem tài trí để thực hành tư tưởng nhân nghĩa yêu nước thương dân. Câu thơ sáu chữ ngắn gọn, súc tích, nhịp 3/3 đã tạo âm hưởng mạnh mẽ, thể hiện sự dồn nén cảm xúc của cả bài thơ.

Việt hóa thơ Đường luật, sáng tạo thơ thất ngôn xen lục ngôn, vận dụng những hình ảnh, màu sắc, đường nét, âm thanh vào cảnh vật thiên nhiên và cuộc sống con người, bài thơ đã vẽ nên một bức tranh mùa hè vui tươi, đầy sức sống, qua đó nhà thơ gửi gắm lòng yêu mến quê hương đất nước, hoài bão giúp nhân dân xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc.

“Cảnh ngày hè” không chỉ tiêu biểu cho “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi mà còn là một trong những bông hoa chữ Nôm của nền văn học Việt Nam. Bằng cách sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật độc đáo, bài thơ đã làm toát lên vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước cũng như vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi, thể hiện rõ tư tưởng yêu nước thương dân và tinh thần sống có trách nhiệm với dân, với nước.

Phân tích tác phẩm Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi – Bài làm số 4

Nguyễn Trãi (1380 – 1442), vị anh hùng dân tộc, “tấm lòng sáng tựa sao Khuê” (lời vua Lê Thánh Tông) dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng không nguôi tâm nguyện hướng về dân về nước. Ngay cả khi bị nghi kị, phải lui về quê ngoại Côn Sơn, ông vần bộc bạch nỗi lòng tha thiết cháy bỏng trong cuộc Sống tưởng như chỉ biết vui vầy cùng mây núi cỏ cây. Nỗi lòng ấy bộc lộ rõ nét trong chùm thơ 61 bài Bảo kính cảnh giới. Đặc biệt, bài thơ số 43 chan chứa bao khát vọng hướng đến cuộc đời, nhân dân.

Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình) lấy những bài học từ thiên nhiên vĩ đại để nhà thơ soi chiếu lòng mình. Ta không chỉ gặp tấm lòng yêu thiên nhiên của một nghệ sĩ lớn mà còn thấu hiểu tâm sự cua người anh hùng luôn canh cánh bên lòng nỗi niềm “ưu quốc ái dân”. Suy ngầm và cảm xúc của nhà thơ giúp chúng ta hình dung một nhân cách lớn.

Bài thơ bắt đầu bằng hoàn cảnh hưởng nhàn bất đắc dĩ:

Rồi hóng mát thuở ngày trường.

Nhịp thơ thật lạ lùng như kéo dài cảm giác của một ngày “ăn không ngồi rồi”: tạo điểm nhấn ở một nhịp đầu tiên, sau đó là năm chữ nối thành một hơi thơ như tiếng thở dài. Rò ràng nhà thơ nói về việc hóng mát mà không hề đem lại cảm nhận nhàn tản thật sự. Hai chừ ngày trường lại hiện ra bao nỗi chán chường của một ngày dài vô vị. Hưởng nhàn mà không hề thư thái! Có thể đó sè là khởi nguồn cho bao nổi bực dọc trút ra của con người bất đắc chí. Thế nhưng, tất cả tâm tư đà được nén lại khi nhà thơ đối diện với một thiên nhiên mành liệt đầy sức sống:

Hoè lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.

Ba câu thơ đem lại một bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc, cùng những hình ảnh đặc trưng của không gian mùa hè. Trước hết, đó là hoè buông sắc lục như một chiếc lọng khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một không gian xanh. Cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Trải luôn cósức bao quát, vừa gợi sức sống của không gian trong động từ “đùn đùn” vừa gợi cảm giác phóng khoáng trong một chữ “rợp”. Tầm nhìn trải từ gần ra xa, theo quy luật đăng đối ở hai câu tả thực, khéo léo đan cài sắc đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu dưới gợi hương. Thiên nhiên ấy cũng chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tòa lúc bừng bừng phun trào. Để rồi cuối cùng đọng lại cảm giác man mác tiếc nhớ làn hương thanh thoát của sen hồng lúc cuối hè. Phải là một người có tâm hồn tinh tế mới cùng một lúc diễn tả được nhiều cảm giác trong chỉ vài ba câu thơ cô đọng. Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, nhà thơ dường như cũng nguôi ngoai bao nỗi niềm bực dọc, để lòng mình hòa cùng thiên nhiên đầy sức sống.

Không chỉ nhìn bằng mắt mà Nguyễn Trãi còn trải lòng lắng nghe những thanh âm muônvẻ của thiên nhiên:

Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

Có một sự chuyển đổi cảm xúc trong cách lắng nghe những âm thanh của cuộc sống. Giờ đây, những thanh âm lại được cảm nhận từ xa đến gần, từ “lao xao” đến “dắng dỏi”. Thiên nhiên không hề tĩnh lặng u trầm trong thời điểm chiều buông mà trái lại rất sôi động và gần gũi với tấm lòng thiết tha yêu sự sống của nhà thơ. “Lao xao” là âm thanh gợi rõ cuộc sống thanh bình của những người dân chài, cảnh mua bán tấp nập mà khòng quá ồn ào để khuấy động không gian hương nhàn của nhà thơ. Dường như Nguyên Trãi đã chủ động hướng lòng mình về với chợ cá, làng ngư phú để thấy bản thân không cách xa với đời thường. Âm vang cuộc sống thực ấy tạo thành môi dây liên hệ giữa nhà thơ với nhân dân, mang lại niềm vui xôn xao trong một buổi chiều dề tạo cho nhà thơ nỗi buồn. Cấu trúc đăng đồi đã tạo nên sự hòa điệu giữa con người với thiên nhiên trong sự cân xứng làng ngư phủ – bóng tịch dương mang đậm sắc thái trang trọng cổ điển. Nghệ thuật tương phản tạo nên một cảm hứng hết sức mới mẻ trong thơ Nguyễn Trãi khi ấn tượng ám ảnh nhà thơ không phải ánh tịch dương ảm đạm mà lại là âm thanh dắng dỏi cầm ve. Sự liên tưởng bất ngờ và độc đáo này đã chứng tỏ rõ phẩm chất nghệ sĩ của Nguyễn Trãi. Tiếng ve đặc trưng của mùa hè đến cùng Nguyễn Trãi lại như một bản đàn mạnh mẽ, rạo rực hối hả nhịp sống căng tràn của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên sống động ấy đã hàm chứa một nội dung thông điệp thẩm mỹ đánh động tâm tư của nhà thơ. Bản thân ông có muốn lánh đời thoát tục, ngắm ánh tịch dương, giam mình trong lầu kín cũng không thể không nghe, không thấy bao vẻ đẹp thiên nhiên tươi tắn rộn rã xung quanh. Thiên nhiên ấy xôn xao hay chính tấm lòng của nhà thơ cũng đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống? Cuộc sống của ông không phải của một ẩn sĩ lánh đời mà chính là phản chiếu của tâm hồn yêu đời thiết tha, vần đón nhận thưởng thức được niềm vui cuộc sống thanh bình để quên đi nỗi riêng tư sầu muộn.

Thiên nhiên đã đem lại một bài học lớn. Lay thức khát vọng mãnh liệt muốn trở lại với đời của nhà thơ. Thiên nhiên ấy đả thổi bùng khát vọng của người anh hùng đầu bạc mà vần vẹn tấm lòng son:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương

Còn gì giản dị, thanh cao, súc tích hơn những lời thơ mộc mạc chân thành ấy! Giữa thiên nhiên tuyệt đẹp, Nguyễn Trãi không hề mong muốn hưởng thụ thú nhàn tản cho riêng mình. Ông không phải con người chỉ chăm chăm giữ lấy sự trong sạch cho riêng mình theo triết lí nhà Nho “độc thiện kì thân”. Ở sâu thẳm tâm hồn ông vẫn là nồi niềm “ưu quốc ái dân”, là khát khao hành động của một con người trọn đời vì lợi ích của nhân dân. Tinh thần Nguyễn Trãi vẫn không hề nhụt giảm, vẫn còn nung nấu hoài bão cống hiến cho đất nước thái bình thịnh trị như thời Đường Ngu — xã hội thịnh trị lí tưởng theo quan niệm nho gia. Giản dị thay và cũng cao cả thay sáu chữ đúc kết tấm lòng Nguyễn Trãi hướng về nhân dân, Quả thật, riêng ông trong hoàn cảnh bấy giờ có nhiều nỗi buồn, nhưng bản chất tâm hồn Nguyễn Trãi luôn “trong sáng và đầy sức sống” (lời cố thủ tuớng Phạm Văn Đồng). Tâm hồn ấy chỉ cháy bỏng niềm mong ước đem lại cho nhân dân cuộc sống giàu đủ. Niềm mong mỏi nhân dân “khắp nơi không một tiếng hờn giận oán sầu” chính là minh chứng cho nhân cách trong sáng tuyệt vời của Nguyễn Trãi.

Bảo kính cảnh giới – bài học lớn từ thiên nhiên giúp Nguyễn Trãi răn mình, chứa đựng bao tình cảm yêu đời yêu sự sống. Ta nhận ra một tâm hồn nghệ sĩ – chiến sĩ của úc Trai tiên sinh. Tấm lòng “sáng tựa sao Khuê” ấy vẫn tỏa sáng đến tận hôm nay!

Hồng Loan tổng hợp

Từ khóa tìm kiếm:

  • phânn tích tác phẩm cảnh ngày hè nguyễn trãi
  • bai thơ rung răn rung dẽ
  • Phân tích bài Cảnh Ngày Hè hay
  • tlv cảnh ngày hè

Bài viết liên quan

  • Tả ông cụ ngồi câu cá – Văn hay lớp 5
  • Phân tích tác phẩm Bàn luận về phép học – Văn hay lớp 8
  • Tả hình ảnh cụ già đang ngồi câu cá – Văn hay lớp 6
  • Phân tích tác phẩm Phong cách Hồ Chí Minh – Văn hay lớp 9
  • Tả cô giáo đang giảng bài – Văn hay lớp 6
  • Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mạc Tử) – Văn hay lớp 11
  • Nghị luận xã hội về câu nói của Bác Hồ: Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó – Văn hay lớp 12
  • Tả lại thầy cô giáo em lúc đang say sưa giảng một môn học nào đó – Văn hay lớp 5
0