21/02/2018, 09:21

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt – Văn hay lớp 12

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt – Bài làm 1 Lấy bối cảnh từ những hoàn cảnh có thật về cuộc sống của người dân Việt Nam trước nạn đói năm 1945, tác giả Kim Lân đã dựng lại một câu chuyện ấn tượng và thành công với miêu tả chân thực về cuộc sống, tình cảm ...

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt – Bài làm 1

Lấy bối cảnh từ những hoàn cảnh có thật về cuộc sống của người dân Việt Nam trước nạn đói năm 1945, tác giả Kim Lân đã dựng lại một câu chuyện ấn tượng và thành công với miêu tả chân thực về cuộc sống, tình cảm đặc biệt là diễn biến tâm lí nhân vật. Trong bối cảnh ra đời, tác phẩm làm toát lên tấm lòng yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và khát vọng hạnh phúc của những người người khổ. Vẻ đẹp ấy được tác giả  xây dựng thành công ở hình tượng nhân vật “bà cụ Tứ”

Trong tác phẩm Vợ nhặt của tác giả Kim Lân, hình ảnh Bà cụ Tứ trước hết là người mẹ nghèo khổ đã già yếu với cái lưng “long khòng”, khẽ mắt “lèm nhèm “,”khuôn mặt bủng beo, u ám “. Những hành động cử chỉ của cụ “nhấp nháy hai con mắt”,”chậm chạp hỏi”, “lập cập bước đi”, “lật đật:, “lễ mễ” cũng thể hiện cụ là một người đã già, không còn khỏe mạnh. Hơn nữa người phụ nữ ấy còn bị đặt trong hoàn cảnh nghèo nàn, đói khổ mà cụ nói “ cuộc đời cực khổ dài đằng đẵng”.

 Bà cụ Tứ dù chỉ xuất hiện ở giữa truyện khi anh Tràng đưa vợ về nhà nhưng nhân vật này vẫn thu hút được sự quan tâm của người đọc bởi những vẻ đẹp tâm hồn, tính cách.

Trước hết bà cụ Tứ ấy có một tình yêu thương dành cho con cái sâu sắc. Cụ thương người con trai của mình “cảm thấy ai oán xót thương cho số phận đứa con mình”.” Trong kẽ mắt kèm nhèm của cụ rỉ ra hai dòng nước mắt. Cụ đã sớm lo lắng cho cuộc sống tương lai của đứa con mình” không biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói này không”. Cụ tứ biết trong cái hoàn cảnh này không ai có thể vượt qua được cơn đói này,con trai bà là người nông dân chân chất nhưng cũng là người chung số phận trước nạn đói. Khi biết con trai “ tự dưng” có vợ, trong cái thời buổi đói khổ, không những bà không trách mà còn dành tình yêu thương cho người con dâu mới của mình. Bà nhìn thị nghĩ:”Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy con mình, con mình mới có vợ được”. Đó là tấm lòng người mẹ không khinh rẻ mà tỏ ra thông cảm thấu hiểu hoàn cảnh con dâu, thậm chí bà còn cho đó là may mắn của con trai mình, gia đình mình khi có con dâu mới. Điều đo chứng tỏ bà cụ Tứ rất hiểu mình, hiểu người.

Tình yêu thương của bà cụ Tứ còn thể hiện qua những lời nói của bà cụ dành cho con “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…". Bà nói với con dâu bằng lời của một người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót, đồng thời động viên con bằng triết lý dân gian”ai giàu ba họ ai khó ba đời, hướng con tới tương lai tươi sáng. "… Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương  quá…". Câu nói ấy thể hiện tấm lòng thương xót cho số phận của những đứa con. Hành động giản dị “ sáng dậy xăm xăm quét nhà quét cửa” nhưng thể hiện tấm lòng người mẹ tuy nghèo nhưng hết lòng thương yêu con. Và thế là đám cưới không nghi lễ, không đón đưa của đôi vợ chồng trẻ được chan đầy bằng tình yêu thương và tấm lòng lo lắng của người mẹ nghèo.

Tuy được đặt trong hoàn cảnh éo le, nhưng chỉ qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan của người mẹ già yếu, tuy sắp đến độ gần đất xa trời nhưng luôn hướng về tương lai thể hiện qua những hành động và lời nói. Thứ nhất Cụ tin vào triết lý dân gian: ai giàu ba họ ai khó ba đời- lạc quan về một ngày mai tươi sáng.Cụ đồng tình khi thấy Tràng thắp đèn mặc dù cụ biết lúc đó dầu rất đắt, dầu là thứ xa xỉ. Nếu để ý ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời”này lại là người nói về tương lai nhiều nhất” cụ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Đó không đơn thuần chỉ là niềm lạc quan của người lao động mà còn là ước mơ về cuộc sống có phần tươi sáng hơn cho các con. Bà cụ trông cũng” tươi tỉnh khác hẳn ngày thường”. Chính tâm  trạng vui tươi phấn khởi của người mẹ già đã làm sáng lên cái không gian u ám và góp phần vào ngày vui trọng đại của cuộc đời người con trai.

Và hình ảnh người mẹ già, cười đon đả: “Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy", cứ quẩn quanh, ám ảnh tâm chí người đọc. Cái lạc quan không  những không bị mất đi mà lại càng trở nên  mãnh liệt hơn trong mưa nắng cuộc đời. Và trong buổi sáng đầu tiên đón tiếp nàng dâu mới, nồi cháo cám “ chát xít, nghẹn bứ trong miệng” mà ngon ngọt trong  lòng, ngọt bởi tấm lòng người mẹ nghèo đang cố xua đi cái không khí ảm đạm bằng thái độ lạc quan và sự tươi tỉnh động viên con cố gắng vượt qua hoàn cảnh.

Với sự tài ba trong việc miêu tả và khắc họa tâm lí nhân vật, tác giả Kim Lân đã dựng lên “hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945". Nhân vật bà cụ Tứ được khắc họa chủ yếu qua sự vận động trong  nội tâm nhân vật. Thêm vào đó, qua những lời nói, cử chủ, hành động của nhân vật bản thân chúng ta cũng có thể cảm nhận được tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Dẫu bà cụ Tứ chỉ là một nhân vật phụ nhưng bằng tài năng, và tình cảm thiết tha trừu mến đối với tấm lòng người mẹ nghèo, Kim Lân đã khắc họa được chân dung nhân vật vừa sinh động, chân thực, day dứt với người đọc. Những hành động, lời nói của cụ, nụ cười trên khuôn mặt bủng beo u ám đã làm sáng bừng thiên truyện sau cái tối tăm, cái bế tắc của đói nghèo.

Truyện Vợ nhặt không chỉ thành công với ý nghĩa và triết lí cuộc sống mà nó mang lại mà còn thành công ở việc khai thác và khắc họa tâm lí nhân vật. Bà cụ tứ tuy chỉ là nhân vật phụ nhưng với tài năng của mình Kim Lân vẫn để lại cho người đọc nhiều dư vị tốt đẹp và sâu lắng về nhân vật này.

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt – Bài làm 2

Trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân, bà cụ Tứ là một nhân vật phụ xuất hiện ở phần cuối truyện. Nhưng với hình ảnh nhân vật này, Kim Lân đã giúp cho tác phẩm của mình có một chiều sâu, mang lại cho tác phẩm sự mặn mà, đằm thắm, đồng thời “hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945” cũng mang đến cho người đọc một cách nhìn mới mẻ về lòng khao khát sự sống và hạnh phúc của những người nông dân nghèo khổ.

Nếu diễn biến tâm trạng của Tràng và vợ Tràng được nhà văn miêu tả theo một đường thẳng thoáng lo âu buồn tủi rồi đi ngay đến niềm vui bất tận, thì bà cụ Tứ được Kim Lân miêu tả tâm trạng gấp khúc, đan xen nhiều tâm trạng từ quá khứ đến hiện tại và hướng tới tương lai. Bà cụ Tứ được đặt trong hoàn cảnh là con trai mình đột ngột có vợ. Tình huống này khiến bà vừa vui vừa buồn, vừa lo lắng lại vừa hy vọng. Thứ nhất, bà cụ Tứ thể hiện tâm trạng ngạc nhiên, ngỡ ngàng bật ra hàng loạt các câu hỏi khi thấy người đàn bà lạ ở trong nhà mình: “người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào đứng ngay ở đầu giường con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?…”.

Thứ hai, đó là tâm trạng băn khoăn ngồi xuống giường khi nghe con trai bà xác nhận là người đàn bà ấy được anh nhặt về làm vợ thì bà hiểu ra cơ sự, bà xúc động đến lặng người. Bà lão cúi đầu nín lặng không nói được gì khi thấy con mình bất chấp cái đói để thực hiện ước mơ hạnh phúc khiến bà vừa xót thương cho số kiếp con trai mình bao nhiêu lại vừa ai oán tủi thân tủi phận mình bấy nhiêu, vì bà là mẹ mà không lo nổi hạnh phúc cho con mình. “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”. Đọc những dòng này ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang rung lên đau đớn, xót xa. Việc trọng đại cả đời con lẽ ra “làm được dăm ba mâm mới phải”, nhưng “nhà mình nghèo quá” nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ không thực hiện được.  Đồng thời như một điều ngẫu nhiên, bao nỗi niềm lo lắng cho con “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này không?”. Nhưng trước khát vọng sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc của con lòng bà trào dâng bao tâm trạng đồng cảm, trước hết là đồng cảm với người vợ nhặt để trả cho thị giá trị làm người “người ta có gặp lúc khó khăn đói khổ người ta mới lấy con mình”. Sau đó là sự đồng cảm với con trai “nhờ đói mà con mình mới có vợ được”, từ sự đồng cảm trái tim bà dâng trào tình yêu thương con trai, con dâu mãnh liệt “chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”.

Nhưng vượt lên trên tất cả là niềm vui niềm hạnh phúc tràn trề thể hiện qua câu nói đầy lòng vị tha nhân hậu “các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. Trong khoảnh khắc sung sướng hạnh phúc vì con có đôi có lứa người mẹ không chỉ nghĩ đến hiện tại mà còn hướng các con đến tương lai phía trước – một tương lai không phải cho bà mà là cho con cháu, bà truyền cho con cái niềm lạc quan hy vọng “không ai khó ba đời” rồi đến hành động “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”, những dự định nào là ngăn buồng cho đôi trẻ, nào mua đôi gà…Ta phát hiện ra rằng chính bà lại là người nói đến tương lai nhiều hơn cả. Không đơn thuần chỉ là tâm lý lạc quan khỏe khoắn của người lao động mà đó là niềm ao ước thiết tha về một ngày mai sáng sủa hơn cho con cái của người mẹ nghèo. Chính niềm tin và sức sống của bà đã tiếp thêm sức mạnh để người mẹ lo được một bữa cơm ngày đói đón nàng dâu mới mặc dù nó rất thảm hại: chỉ có một bát rau chuối thái rối, một dúm muối ăn với nồi cháo cám. Nhưng hơn cả là tấm chân tình của người mẹ, chân tình ấy đã khiến bữa cháo thành bữa tiệc, khiến nồi cháo “chát xít, nghẹn bứ trong miệng mà ngon ngọt trong lòng”. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng vui vẻ khi bà lão “lễ mễ” bưng nồi cháo cám “nghi ngút khói” lên nhà, đon đả tươi cười múc cho con và bảo: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem”.

Dường như bà cố ý xua đi không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh để động viên con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy ta biết lòng người mẹ đang thổn thức. Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa. Nhưng niềm vui của bà biết bao giờ mới thành sự thật khi vẫn còn đó nồi cháo cám, vẫn còn đó tiếng trống thúc thuế dồn dập, “bà không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc”, còn người đọc thì cảm nhận rõ những giọt nước mắt trong lòng bà.

Qua hình tượng bà cụ Tứ với biết bao tâm trạng đan xen trong tình huống “nhặt vợ” của con trai, Kim Lân đã khẳng định tình cảm thiết tha với những tấm lòng người mẹ, điều này khiến hình ảnh bà cụ Tứ trở nên chân thật và cảm động hơn bao giờ hết. Phải chăng chính người mẹ già ấy lại là ánh sáng xua tan đi cái bóng tối bi thảm của những kiếp đời nghèo khổ.

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt – Bài làm 3

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm 1945 để diễn tả được cái đói có sức nặng như thế nào, nhưng ngụ ý của tác giả chính là việc dựa trên nạn đói để lột tả tính cách “trong như ngọc sáng ngời” của những con người, những mảnh đời lầm thân. Nhân vật bà cụ Tứ là một hình tượng điển hình cho người đàn bà nghèo khổ đến cùng cực nhưng có tình yêu thương con đến vô bờ bến. Hẳn rằng người đọc sẽ không bao giờ quên những lời mà Kim Lân đã dành cho bà.

Kim Lân rất khôn khéo khi lựa chọn thời điểm thích hợp để bà cụ Tứ xuất hiện, tại sao không phải là đầu câu chuyện mà lại ở giữa câu chuyện. Tác giả muốn gợi lên cái nghèo đói đến thê lương của xóm ngụ cư này, lấy nó làm nền, làm đòn bẩy để đi sâu vào phân tích diễn biến tâm lý, nội tâm của người đàn bà này.Bà Tứ xuất hiện từ khi Tràng đưa vợ về nhà, và diễn biến tâm lý của bà cụ thay đổi liên tục từ khi có một người đàn bà khác xuất hiện trong ngôi nhà của mình.

Như những bà mẹ Việt Nam nghèo khổ khác trong thời kỳ cách mạng tháng tám, bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ nghèo, bị cái đói làm cho cùng cực, suy nghĩ quá nhiều. Bà cụ Tứ xuất hiện thật rõ nét qua lời kể tác giả “Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng hôm nay khác, thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi ới vào trong nhà: U đã về đấy! Anh con trai lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn”. Một bà cụ dáng dấp đã không còn nhanh nhẹn, tháo vát nữa mà phải “lọng khọng” đi vào nhà gợi nên một thảm cảnh thê lương đến não lòng.

Đặc biệt sự thay đổi bất ngờ khi bà nhìn thấy người đàn bà lạ ngồi ngay giữa nhà mình “Bà cụ Tứ phấp phỏng bước vào theo con vào nhà. Phấp phỏng vì ling tính cho bà biết trong nhà hẳn xảy ra chuyện gì. Mà quả đúng như vậy. Mới đến giữa sân, bà đứng sững lại và càng ngạc nhiên hơn. Trong nhà bà có người, lại là đàn bà. Người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Bà chưa gặp, bà không quen bao giờ. Người ấy lại đướng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?.. Ai thế nhỉ? Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu bà lão. Hay bà già rồi, trông gà hoá cuốc. Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải.. Không phải bà trông gà hoá cuốc, không phải mắt bà nhoèn. Đúng là có người rồi. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.”. Người mẹ nghèo một đời khốn khó như vậy làm sao có thể không ngạc nhiên cho được khi bà đã hiểu ra cơ sự này. Bà thương mình, thương con và thương cho người đàn bà lạ kia. Giữa cảnh chết choc như ngả rạ, nạn đói hoành hành, cái ăn chẳng có, lại còn rước thêm người như thế này bà không lo, không buồn sao được.

Bà nghĩ đến cái cảnh người ta dựng vợ gả chồng cho con cái trong lúc ăn nên làm ra, đằng này con trai bà lấy vợ trong cảnh bần hàn, thiếu thốn đủ đường thế này. Bà thương mình bao nhiêu thì thương cho con gấp bội phần, bà cảm thấy tủi nhục khi không thể mang lại ấm no và hạnh phúc cho đứa con trai tội nghiệp. Bà thương cho người đàn bà héo hon kia cũng vì đói, vì không còn gì nên mới theo Tràng về làm vợ. Chao ôi những suy nghĩ của bà cụ Tứ thật khiến người ta đau lòng, não nề, khiến người ta xót thương nhưng chẳng biết cách nào có thể thương lấy bà, thương lấy những con người trong thời đại này.

Kim Lân đã rất thành công khi phác họa hình ảnh bà cụ Tứ đầy ám ảnh trong lòng người đọc đến như vậy.

Hơn hết diễn biến tâm lý của bà cụ Tứ thay đổi rất đột ngột, nhưng sự thay đổi đó là tín hiệu đáng mừng chứng tỏ rằng bà đã chấp nhận người vợ “nhặt” của đứa con, cũng giống như việc chấp nhận sẽ gánh thêm cái khổ, cái đói, cái nghèo cùng với các con. Cái cách bà cụ Tứ dặn dò đôi vợ chồng trẻ thật khiến con người ta cảm phục “ Nhà ta nghèom liệu mà bảo nhau làm ăn. Khi anh Tràng bước dài ra sân, bà động viên nàng dâu: Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Rồi ra thì con cái chúng mày về sau.”. Sự ân tình, chu đáo của người mẹ nghèo khiến đôi vợ chồng trẻ cảm động, không biết nói gì hơn, bà đã chấp nhận “người vợ mới” của đứa con, chấp nhận cả cái đói nghèo mà gia đình bà mang.

Bà ân tình với con dâu, nói cho con dâu yên lòng rằng nhà nghèo, nếu có thì làm dăm ba mâm nhưng nhà mình nghèo nên động viên con dâu có gắng. Chi tiết này đã cho thấy sự đồng cảm giữa một người phụ nữ nghèo với một người phụ nữ nghèo. Sự gắn kết này sẽ mang lại một hơi ấm và sức sống cho gia đình sau này.

Ôi chao, cái đói nghèo hoành hành, con người không lo sao được. Thương cho bà cụ Tứ, thương cho người đàn bà nghèo và thương cho những người sống trong cảnh khốn đốn đó.

Hình ảnh “nôi cháo cám” sau đêm tân hôn của con mà người mẹ này mang đến thực sự khiến chúng ta cảm động đến rơi nước mắt. Nồi cháo cám ấy không còn nguyên giá trị thực như nó vẫn mang, nó là hiện thân của tình yêu thương con vô bờ bến, đức hi sinh lớn lao của người mẹ nghèo dành cho những đứa con. Nồi cháo cám là chi tiết cực kỳ đắt giá của câu chuyện, nhân phẩm và lòng vị tha, yêu thương của bà cụ Tứ cũng từ chi tiết này mà được nhân lên gấp bội, gấp vạn lần.

Hẳn người đọc sẽ không bao giờ quên đi hình ảnh bà cụ Tứ gắn với nồi cháo cám ở cuối truyện, bà kể toàn chuyện vui cho các con nghe với hi vọng có một tương lai đỡ khổ, đỡ nhọc nhằn hơn. Một tình yêu đáng ngưỡng mộ trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Hiện thực dường như không thể đánh gục được tình yêu thương giữa con người với con người với nhau.

Bằng bút pháp khắc họa diễn biến tâm lý sâu sắc, Kim Lân đã để lại trong lòng người đọc những dư âm khó phai về hình ảnh bà cụ Tứ nghèo đó nhưng vẫn ánh lên tình yêu thương đáng ngưỡng mộ. Bà cụ Tứ là hiện thân của những gì cao đẹp nhất của một con người, một nhân cách.

0