21/02/2018, 09:21

Phân tích bài thơ Thơ duyên của Xuân Diệu – Văn hay lớp 11

Phân tích bài thơ Thơ duyên của Xuân Diệu – Bài làm 1 Xuân Diệu là “ông hoàng thơ tình’ với những vần thơ say đắm, ngọt ngào và mãnh liệt về tình yêu đôi lứa. Mỗi bài thơ đều để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm và ấn tượng riêng. “Thơ duyên” là bài ...

Phân tích bài thơ Thơ duyên của Xuân Diệu – Bài làm 1

Xuân Diệu là “ông hoàng thơ tình’ với những vần thơ say đắm, ngọt ngào và mãnh liệt về tình yêu đôi lứa. Mỗi bài thơ đều để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm và ấn tượng riêng. “Thơ duyên” là bài thơ tràn đầy cảm hứng mê say, tin tưởng và đầy phấn khởi cho những giây phút rung động trong tình yêu.

Ngay ở nhan đề tác phẩm, người đọc đã cảm nhận được nét “duyên” của con chữ và nét duyên ngầm trong lòng người. Cảm xúc bao trùm bài thơ chính là niềm hăng say, vui tươi, phơi phới khi có những giây phút rung động đầu đời của một chàng trai mới biết yêu. Người đọc chắc  chắn sẽ mê mẩn với những dòng cảm xúc vừa nhẹ nhàng vừa sôi nổi:

Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên

Cây me ríu rít cặp chim chuyền

Xuân Diệu đã mở đầu bài thơ bằng một không gian thật nên thơ và lãng mạn. Hình như không phải một buổi chiều như một ngày mà là “chiều mộng”. Một buổi chiều lãng mạn, tràn đầy chất thơ, chất nhạc, khiến lòng người say đắm. Một buổi chiều mùa thu nhẹ nhàng, tinh tế có cặp chim đang chuyền nhau trên cành cây mẹ. Một sự hòa quyện, giao thoa thật tuyệt vời giữa thiên nhiên và đất trời. Giọng thơ tuy nhẹ nhàng nhưng tràn đấy hứng khởi.

“Nhánh duyên” trong câu thơ đầu tiên khiến người đọc liên tưởng đến một mối nhân duyên ngầm nào đó nhưng vẫn còn e thẹn, ngượng ngùng.

Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá

Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền

Hai câu thơ như tan ra cùng đất trời, mùa thu hiện hữu rõ từng đường nét và lắng nhẹ vào lòng người. Màu xanh của bầu trời như đang “đổ” xuống vạn vật, tạo nên một màu “ngọc” thật trong lành và dịu mát. Từ “đổ” khiến cho câu thơ bừng sáng lên. Đó như báo hiệu một mùa thu ngọt ngào, tinh tế đã đến. Dường như trời đất của mùa thu luôn có sức hút mạnh mẽ như vậy.

Một buổi chiều thật nên thơ, đầy tình tứ sẽ thêm thi vị hơn khi có câu chuyện tình đôi lứa:

Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu

Lả lả cành hoang nắng trở chiều

Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn

Lần đầu rung động nỗi thương yêu

Hoa ra sự vui tươi của đất trời đều xuất phát từ nỗi rung động “lần đầu” ấy. Hình ảnh con đường “nho nhỏ’ trong câu thơ có điểm xuyết những cành lá đâm ngang như phác họa nên một bức tranh thu nhẹ nhàng, tinh tế đến lạ kỳ. Một không gian khiến cho người đọc ngỡ như mình đang lạc vào cảnh tiên thi vị. Dường như cảnh vật đang tạo cảm giác lâng lâng, nhẹ nhõm của người đang tràn ngập tình yêu. Câu thơ chợt bừng lên niềm reo vui thật khẽ nhưng thật sâu. Thơ Xuân Diệu cứ nhẹ nhàng nhưng đằm thắm như duyên con gái vậy.

Ở những vần thơ tiếp theo, nhân vật chính của tình yêu lần đầu ấy xuất hiện thật nhẹ:

Em bước điềm nhiên không vướng chân

Anh đi lững thững chẳng theo gần

Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu

Anh với em như một cặp vần

Anh chàng thi sĩ đi giữa một con đường mà như có cảm giác đang lạc vào một miền say mê, đắm đuối với tâm thế “lững thững” rất bình tâm, rất nhẹ nhàng và có chút gì đó lưỡng lự. Chàng trai ấy giữ một khoảng cách vừa đủ để cảm nhận được tình yêu đang tan chảy ra cùng mùa thu dịu ngọt, êm ái. Cả “anh” và “em” đều “vô tâm” nhưng dường như ai cũng muốn xích lại gần hơn, gần thêm chút nữa. Bởi ẩn sâu trong suy nghĩ thì câu chuyện tình nhẹ nhàng đó đã như một cặp vần. Những câu thơ nhẹ nhàng, nhịp điệu chậm rãi, khoan thai gieo vào lòng người niềm hân hoan, vui tươi.

Cảnh vật trong bài thơ duyên rất duyên, huyền diệu và tràn đầy vui tươi, làm nền cho tình cảm trở nên lâng lâng:

Ai hay tuy lặng bước thu êm

Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm

Trông thấy chiều hôm ngơ ngác vậy

Lòng anh thôi đã cưới lòng em

Mùa thu “êm” như khẽ khàng đi vào trái tim của những kẻ đang yêu, chẳng ai bày tỏ nỗi niềm nhưng lại khiến cho mọi thứ lâng lâng. Buổi chiều mưa thu “ngơ ngác” nhưng nhà thơ đã khẳng định chắc nịch “lòng anh thôi đã cưới lòng em”. Một Xuân Diệu thật duyên, là duyên ngầm, nhưng cũng thật mãnh liệt. Không phải anh cưới em mà là “lòng anh cưới lòng em”.

“Thơ duyên” của Xuân Diệu là bài thơ tràn đầy niềm tin yêu và tràn nhựa sống. Một bài thơ tình nhẹ nhàng, nhưng cũng không kém phần mãnh liệt.

Phân tích bài thơ Thơ duyên của Xuân Diệu – Bài làm 2

Xuân Diệu đã viết về mùa xuân với tất cả sự say đắm, nồng nàn:

… "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần…

… Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi"…

Thi sĩ cũng đã đến với mùa thu trong bâng khuâng, man mác. Viết về mùa thu, Xuân Diệu có một lối nói riêng đầy thi vị, tứ thơ mới mẻ, cảm nhận tinh tế nhẹ nhàng cái hồn thu của đất trời, quê hương xứ sở. "Thơ duyên" là một bài thơ thu độc đáo nhận diện cảnh thu, tình thu qua tâm hồn thơ mộng của một chàng trai đa tình và tài hoa lãng mạn.

"Thơ duyên" – một thi đề rất thơ. Cái "duyên" được thi sĩ nói đến là sự tương giao nhiệm mầu của vũ trụ, thiên nhiên và con người, trước hết là những chàng trai, cô gái "hồn xanh như ngọc bích".

Một buổi chiều thu tuyệt đẹp – "chiều mộng" – êm ái, nhẹ nhàng như ru, tạo vật như đang "hóa thơ trên nhánh duyên". Nhành cây mềm mại đung đưa duyên dáng theo làn gió thu nhẹ giữa sương khói tà dương. "Con gió xinh thì thào trong lá biếc" ("Vội vàng"), cả một trời thu "nơi nơi động tiếng huyền". Tiếng nhạc, tiếng đàn du dương, dịu ngọt như ru hồn người vào cõi mộng. Tiếng gió hoà điệu với tiếng chim ríu rít. Trên ngọn me "cặp chim" vừa chuyền cành vừa hót, biết bao âu yếm và yêu thương. Cây me cũng như cây sấu là hình ảnh thân thuộc của đường phố cổ Hà Nội. Ta như được sống lại phố cũ yêu thương của đất Tràng An hơn nửa thế kỉ trước. Đã từng biết "khúc nhạc thơm"; "khúc nhạc hường", giờ đây ta lại được thưởng thức "tiếng huyền" của buổi "chiều mộng":

"Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,

Cây me ríu rít cặp chim chuyền

Đồ trời xanh ngọc qua muôn lá

Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền".

Cảnh thu có gió reo, chim hót. Còn có trời thu xanh trong, đẹp như ngọc; tất cả màu xanh ấy của trời thu như "đổ" xuống, như tràn qua muôn lá, cỏ cây ánh ngời lên sắc ngọc với trời thu, sắc ngọc ấy ai có thể quên? Sau này, thi sĩ Hàn Mặc Tử cũng viết trong bài "Đây thôn Vĩ Dạ”: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"… Màu ngọc của lá cũng là sắc thu làm nên cái hồn thu.

Khổ một nói đến gió, cây và cặp chim chuyền – cảnh vật hòa hợp tương giao, gắn bó; cái "duyên” ấy được cảm nhận qua tâm hồn một thi sĩ hào hoa, đa tình. Khổ hai nói về con đường và trái tim "rung động nỗi thương yêu". "Nhỏ nhỏ"… “ xiêu xiêu"… "lả lả" – bây nhiêu nét vẽ tinh tế hiện lên trên một gam màu vàng nhạt của ngày thu tàn "nắng trở chiều". Hồn thu của bức tranh quê gợi một nỗi buồn đẹp. "Buổi ấy", trái tim "ta" xao xuyến, "rung động" một tình thu. Thi sĩ đi giữa đất trời, lắng nghe tiếng đập nhẹ của con tim, tâm hồn rộng mở giao hòa đi vạn vật, với con người, một thiếu nữ đang nhẹ bước trên đường:

"Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,

Lả lả cành hoang nắng trở chiều.

Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn

Lần đầu rung động nỗi thương yêu".

"Em" và "anh" cùng dạo bước trên đường. "Em" bước đi "điềm nhiên", trông tự nhiên, hồn nhiên, duyên dáng. Anh cũng đang say sưa ngắm cảnh đất trời, bước chân "lững đững" – thong thả, ung dung. Cuộc ngẫu gặp của đôi lứa thanh tân, tưởng "vô tâm" mà hình như đã có cái "duyên" trời sắp sẵn. Chẳng hò hẹn gì mà nhiều bâng khuâng!

"Em bước điềm nhiên không vướng chân

Anh đi lững đững chẳng theo gần".

Cặp câu song hành bình đối nhiều ý vị "Anh với em" đẹp như một cặp vần trong "bài thơ dịu". Cặp vần ấy ngân lên "rung động nỗi thương yêu". Một so sánh độc đáo nói lên cái "duyên" lứa đôi:

"Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu,

Anh với em như một cặp vần".

Cảnh vốn đẹp, giờ thêm người đẹp, sự giao hòa, giao cảm càng muôn phần tăng lên, sắc thu trong sáng, tình thu thanh khiết mơ màng. Bức tranh thu được dệt thêu bằng cái duyên của sự sống và một tình yêu rạo rực, xôn xao. Đúng như nhà văn Hoài Thanh đã nhận xét: "Xuân Diệu say đắm cảnh trời… khi vui, khi buồn đều nồng nàn, da diết…”

Khổ bốn nói về cảnh thu trên một không gian rộng và lạnh. Một áng mây chiều và một cánh cò thân thuộc của đồng quê. Không phải là mây xám. Cũng không phải "Mây trắng nghìn năm bay chơi vơi" ("Lầu Hoàng Hạc" – Thôi Hiệu). Mà là mây biếc, mây tuyệt đẹp. Hai chữ "về đâu" đầy gợi cảm. Hỏi mây hay hỏi nàng thiếu nữ? Cảnh vừa thực vừa mộng, nhiều man mác, bâng khuâng. Câu thơ "Con cò trên ruộng cánh phân vân" là một sáng tạo rất độc đáo của Xuân Diệu. Hình tượng thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong vị Đường thi và thơ mới. "Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới" (Hoài Thanh). Hình ảnh "cánh phân vân" đặc tả dáng cò đang lững lờ đôi cánh, không biết nên bay cao hay bay thấp, bay gần hay bay xa, bay lên hay đậu xuống…

Chiều thu tàn, bầu trời như trải rộng thêm ra. Cảm nhận ấy được diễn tả qua hai câu thơ tuyệt bút:

"Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,

Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần".

Lấy cái hữu hạn, cô đơn, bé nhỏ (cánh chim) để diễn tả cái vô hạn, mênh mông (bầu trời) là một nét vẽ tài hoa. "Chim nghe…” – sự chuyển đổi cảm giác đầy thi vị. Cánh chim nhỏ nhoi, bay miết, in dáng trên nền trời chiều bao la. Hoàng hôn buông xuống, sương thu chớm lạnh. Hoa khép cánh dần…

Thời gian nhẹ nhàng trôi "bước thu êm". Tâm hồn thi nhân dào dạt tình thương mến. Chan hòa cùng đất trời, tạo vật. Mọi tâm hồn sẽ tự tìm đến với nhau và "thắm lại" (Xuân Hương), cần chi băng nhân? Nhà thơ khe khẽ reo lên: "Lòng anh thôi đã cưới lòng em". Phải chăng ý câu thơ này: "Anh đã phải lòng em" như có người đã hiểu?

"Thơ duyên" đã tồn tại hơn nửa thế kỉ mà vẫn "duyên" vẫn đẹp. Bởi lẽ cảnh thu tuyệt đẹp, thơ mộng. Tình thu trong sáng, bâng khuâng. Từ chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến đến "Thơ duyên", hơn bao giờ hết, ta cảm nhận sâu sắc rằng, "Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới”. Chim đã có đôi, có cặp rồi, cho nên "Lòng anh thôi đã cưới lòng em" vậy. Duyên đôi lứa cũng là duvên bạn bầy. "Thơ duyên" là một bài thơ tình của Xuân Diệu. Trong tuyển tập "100 bài thơ tình", "Thơ duyên" mang vẻ đẹp một "hoa khôi" sáng giá.

Phân tích bài thơ Thơ duyên của Xuân Diệu – Bài làm 3

Được xem là ông Hoàng của dòng thơ trữ tình, Xuân Diệu đã để lại rất nhiều những tác phẩm thơ hay về tình yêu. Qua những áng thơ của Xuân Diệu ta không chỉ cảm nhận sự tha thiết, chan chứa của tình yêu đôi lứa mà còn thể hiện được chân dung nhân vật trữ tình đầy đắm say, nồng nhiệt với tình yêu, lúc nào cũng khát khao được yêu, khát khao ấy cháy bỏng, nồng nhiệt khiến cho những độc giả của Xuân Diệu đọc không chỉ là cảm nhận, mà đọc còn là sống dậy những phút giây tình yêu trong trái tim của tuổi trẻ, tình cảm ấy tha thiết mà cũng thiêng liêng biết bao. Một trong số những bài thơ tình trong rất nhiều tác phẩm thơ tình của Xuân Diệu, đó chính là bài “Thơ duyên”.

Trong các bài thơ của Xuân Diệu, ta dễ dàng nhận thấy được sự sống dạt dào không chỉ ở con người mà còn ở cả vạn vật, trong cái nhìn của nhà thơ thì vạn vật không hề tồn tại riêng lẻ, độc lập mà luôn có sự giao hòa, bén duyên, nảy tình với nhau. Cũng vì vậy mà đọc thơ Xuân Diệu thì độc giả như bước vào một thế giới đầy sắc màu, nhiều cung bậc của cảm xúc, được sống trong những giây phút đầy đắm say, tha thiết của tình yêu, của cảm xúc. Trong bài thơ “Thơ duyên”, nhà thơ Xuân Diệu đã rất khéo léo tạo ra cho các vật thể độc lập mối quan hệ đầy mật thiết, đó là sự giao hòa đầy đắm say, tự nhiên:

“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim huyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến- nơi nơi động tiếng huyền”

Trong con mắt của thi nhân có tâm hồn nhạy cảm, đặc biết là với hồn thơ luôn tha thiết, say đắm với sự sống, với tình yêu lứa đôi thì những khung cảnh xung quanh dù rất bình dị, đơn sơ nhưng cũng có thể trở thành chất liệu, trở thành đối tượng của cảm xúc thi ca. “Chiều mộng” là một hình ảnh khá lạ lùng, bởi nó gợi cho chúng ta nhiều cảm nhận khác nhau, đó có thể là buổi chiều đẹp đẽ, thi vị như trong giấc mộng, hoặc vẻ đẹp của chiều tà vốn mang vẻ thơ mộng, thi vị như vậy. Và trong cảm nhận của nhà thơ, chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên, tức khung cảnh của buổi chiều hòa quyện với lời thơ say đắm, tạo nên sự kết nối tơ duyên giữa hai hiện tượng vốn không hề có mối quan hệ nào, một hiện tượng thuộc về tự nhiên, và một hiện tượng tồn tại trong thế giới tinh thần của con người.

Trên hàng me xa kia là hình ảnh của cặp chim huyền, đó là sự quấn quýt, ái ân không rời “Cây me ríu rít cặp chim huyền”, âm thanh “ríu rít” gợi ra sự sôi nổi, nồng nhiệt của tình yêu đôi lứa, dù là những loài vậy nhưng cũng dễ đánh động đến phần nội tâm của con người, đó sự ngưỡng mộ trước vẻ đpẹ của tình yêu. Bầu trời cao xanh lại có sự giao hòa với những tán lá trên cành cây kia “Đổ trời xanh ngọc qua tán lá”, đặc biệt, chỉ một động từ “đổ” thôi thì người đọc cũng có thể hình dung ra nguồn năng lượng đủ đầy, dạt dào, đó là sắc xanh của bầu trời đổ xuống, hòa quyện làm một với sắc xanh của tán lá, tạo nên vẻ đẹp thật độc đáo. Và không gian tràn ngập tình yêu mà nhà thơ gợi ra là không gian của mùa thu “Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”, đó là không gian của tình yêu, không gian của sự giao hòa.

“Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu”

Từ khung cảnh giao hòa, bén duyên của vạn vật, cỏ cây thì nhà thơ Xuân Diệu đã hướng đến bộ lộ, dãi bày tình cảm, sự rung động đầu đời trong sáng mà không kém phần da diết của mình. Trước hết, nhà thơ mở ra khung cảnh, nơi sự rung cảm đầu tiên được trao gửi “Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu”, đó là nơi con đường nhỏ, nơi gió thổi nhẹ “gió xiêu xiêu”, đó là không gian đầy thi vị, kích thích được sự rung cảm của con người. “Lả la cành hoang nắng trở chiều” những cành lá dưới sự tác động của những cơn gió “xiêu xiêu” làm cành bay lả lả như cuốn theo cuộc vui của gió, ánh nắng đã lên cao và không gian cũng sang chiều, đây là thời điểm rất đẹp vì ánh nắng đã dịu nhẹ đi rất nhiều, không còn gay gắt như giữa trưa. Và điều đặc biệt là khung cảnh nên thơ ấy chứng kiến một sự rung động thầm kín, trong sáng, đó là rung động đầu đời, lần đầu biết yêu thương “Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn/ Lần đầu rung động nỗi thương yêu”.

“Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh lững đững chẳng theo gần
Vô tâm- nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần”

Nếu như ở khổ thơ trên, ta vui mừng, hân hoan trước sự rung động đầy lãng mạn của nhà thơ, chưa hề biết đến đối tượng, cũng như chân dung cụ thể của đối tượng được rung động ấy. Thì đến khổ thơ này, Xuân Diệu đã hé mở cho người đọc hình ảnh của người “em”, nhân vật trữ tình đã thu hút, đã làm cho nhà thơ rung động, làm cho nhà thơ đắm say “Em bước điềm nhiên không vướng chân”, hình ảnh của “em” hiện lên với những bước chân đầy vô tư, tâm hồn trong sáng, “điềm nhiên” không một chút vướng bận. Ngay sau bước chân vô tư, không vướng bận của nhân vật em là những bước chân dụt dè, e ngại của chính nhà thơ “Anh lững đứng chẳng theo gần”, từ láy “lững đững” gợi ra những bước chân không dứt khoát, không chủ động, gợi ra hình ảnh của một chàng trai si tình đang theo gót chân của người mình yêu, nhưng ngại ngùng, bối rối chẳng thể tỏ bày.

Tuy có ngại ngùng, bối rối đấy nhưng nhà thơ cũng đã rất tự tin khi khẳng định mình và nhân vật “em” là một cặp đôi không thể tách rời, như một “cặp vần”, mà cặp vần ấy nếu tách rời nhau thì sẽ vô nghĩa và lạc lõng. Câu thơ vừa cho thấy sự quyết tâm, chân thành của Xuân Diệu, vừa cho thấy sự hồn nhiên, đáng yêu của chàng trai lần đầu biết yêu. Từ tình yêu bất chợt, đắm say với nhân vật “em”, nhà thơ Xuân Diệu đã thể hiện sự bay bổng của cảm xúc thông qua việc khắc họa cảnh vật xung quanh mình, vừa là tả cảnh nhưng cũng ngụ tình, chứa ý, thể hiện được tình cảm, tâm trạng thực tiễn của nhà thơ:

“Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”

Những đám mây trên bầu trời kia không từ tốn, vận động khẽ khàng, nhịp nhàng như nhịp độ vốn có của nó mà bay “gấp gấp”, nhưng không thể nhận thấy được điểm đến là đâu. Từ đó thể hiện sự xốn xang của tình cảm cùng với đó là sự trăn trở, suy tư vì không biết tận cùng của tình cảm này là đâu. Tiếp theo sự bất định, suy tư đó là sự mô tả hình ảnh của cánh cò phân vân, không biết nên bay hay nên ở “Con cò trên ruộng cánh phân vân”. Tuy nhiên, sự bối rối trong tâm hồn đó chỉ tồn tại nhất thời, chốc lát, vì ngay sau đó nhà thơ đã bình tâm lại và có thêm niềm tin vào tương lai “Chim nghe trời rộng giang thêm cánh” đó là sự bay bổng, tương lai đầy tươi đẹp của đôi lứa, “Hoa lạnh chiều thưa xương xuống dần”, đó chính là sự gắn kết, ấp ủ của tình yêu.

“Ai hay tuy lặng thu bước êm
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em”.

Tình cảm đơn phương, sự rung động đầu lặng lẽ, khó dãi bày, bộc lộ, những bước chân theo gót người yêu tuy lặng thầm, cô gái không hay, bởi nhà thơ luôn ý thức trong từng bước chân”Ai hay tuy lặng chẳng thu bước êm”, tuy không có lời tỏ tình “Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm”, nhà thơ chỉ ôm ấp mối tình đơn phương ấy cho mình, khiến cho tâm hồn ngơ ngẩn, tâm trạng rối bời “Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy”. Nhưng sự dụt dè trong hành động không thể phủ nhận được sự chắc chắn, tự tin trong tâm hồn, tình cảm, vì sự rung động của nhà thơ đã trao trọn cho “em”, cô gái nhà thơ yêu “Lòng anh thôi đã cưới lòng em”.

“Thơ duyên” là bài thơ được nhà thơ Xuân Diệu sáng tác năm 16 tuổi, vì vậy mà những rung động đầu đời được nhà thơ tái hiện đầy chân thực,hiện lên trước mắt người đọc là hình ảnh một chàng trai đầy ngây thơ, lần đầu tiên biết rung động, lần đầu tiên biết yêu. Nhưng đúng với độ tuổi của mình, chàng trai ấy dụt dè, nhút nhát, không dám bày tỏ, dãi bày với người mình yêu. Nhưng trái với sự dụt dè của hành động là tình cảm sâu nặng đầy chân thành mà chàng trai dành cho cô gái.

0