21/02/2018, 09:29

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh – Văn hay lớp 12

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh – Bài làm 1 Sóng là biểu hiện trạng thái của trái tim yêu. Nếu như ở trên, "khát vọng tình yêu" được biểu hiện thông qua sự mở rộng chiều kích không gian (sông – bể) thì ở khổ thơ này, tình yêu được biểu hiên bằng sự mở ...

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh – Bài làm 1

Sóng là biểu hiện trạng thái của trái tim yêu. Nếu như ở trên, "khát vọng tình yêu" được biểu hiện thông qua sự mở rộng chiều kích không gian (sông – bể) thì ở khổ thơ này, tình yêu được biểu hiên bằng sự mở rộng chiều kích thời gian có xu hướng khẳng định (ngày xưa, ngày sau: vẫn thế). Hành trình của sóng từ sông ra biển, cũng giống như hành trình của trái tim tự bứt khỏi sự bình lặng của những qui ước thường ngày để hướng đến cuộc đời rộng lớn mà ở đó, mỗi cá nhân đều đứng trước nhiều chiều thổn thức:

Trước muôn trừng sóng bể 
Em nghĩ về anh, em 
Em nghĩ về biển lớn 
Từ khi nào sóng lên?

Hướng về người yêu và hướng về chính mình, đối diện sóng cũng là đối diện những thử thách cuộc đời. Hàng loạt câu hỏi không lời đáp, nhưng lại là cái đích trong khát vọng của chủ thể trữ tình:

Khi nào ta yêu nhau

"Khi nào" ấy là bao giờ? Câu hỏi cũng chính là lời hứa hẹn, niềm mong khát vậy thôi!

Mối quan hệ bắc cầu và nhân quả (sóng – gió) cũng như tình yêu là những điều chẳng dễ gì cắt nghĩa được ngọn ngành, chỉ biết rằng:

Con sóng dưới lòng sâu 
Con sóng trèn mặt nước 
Ôi con sóng nhở bờ 
Ngày đêm không ngủ được 
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức 

Hình tượng sóng được chuyển hóa từ đối tượng nhận thức sang phương tiện mở rộng chiều kích của khát vọng tình yêu. "Dưới lòng sâu" hay "trên mặt nước", lúc âm thầm kín đáo, lúc hối hả trào dâng, sóng và nỗi nhớ song hành và trở thành niềm thao thức. Sóng tượng hình cho khát vọng tình yêu, sóng còn là ẩn dụ của nỗi nhớ khắc khoải trong tình yêu. Nỗi nhớ ấy có thể được xuất phát bất cớ nơi nào, nhưug chỉ duy nhất huớng về một đích, cũng như một nét phẩm chất của tình yêu: là xu hướng khẳng định tính vinh hằng duy nhất của nó. Sóng vừa như đối tượng khách quan, lại vừa như sự phân thân mãnh liệt của chủ thể trữ tình. Chính vì thế, hình tượng sóng được xem như hình tương sóng đôi với hình tượng em trong quan hệ đối sánh. Mức độ của "nhớ" giữa sóng và "em" được phân biệt rất rõ: "không ngủ được" và "trong mơ còn thức" là khác nhau về chất. Sóng của thiên nhiên nhớ bờ nhớ bến cứ vỗ khôn nguôi, nên còn có thể xem như "sóng thức", còn nỗi nhớ của chủ thể trữ tình là tiếng gọi từ tiềm thức, thường trực đấy mà sao quá xa xôi. Hành tung của sóng vì thế được xem như những cách thức, phương tiện nhận thức về tình yêu của chủ thể trữ tình trước ranh giới giữa hữu hạn với vô biên, giữa hiện thực và ảo giác.

"Sóng" và "em" trong bài thơ của Xuân Quỳnh được thể hiện qua nhiều mối tương quan thẩm mĩ:

– Quan hệ giữa toàn thể và bộ phận (sông – bể);

– Quan hệ giữa các chiều kích (chiều kích không gian: xuôi – ngược, chiều kích thời gian: ngày – đêm, chiều kích mức độ: lòng sâu – mặt nước).
Nhưng Sóng và "em" chỉ là một, trong sự quấn quýt hòa tan và khao khát vô bờ. Sóng đối sánh với khát khao tình yêu và hạnh phúc của chủ thể trữ tình. Đó cũng là nội dung triết lí trong hai khổ thơ cuối của bài thơ: triết lí nhân sinh, khát vọng yêu và sống của thi sĩ Xuân Quỳnh.

Tình yêu không chỉ là khái niệm, nó còn là một trạng thái cảm xúc đặc biệt của con người, mà biểu hiện của nó là muôn hình muôn vẻ. Thi sĩ Xuân Diệu viết:

Yêu là chết ở trong lòng một ít

Cứ cho sự "chết" đó là "một ít", nhưng một ít là bao nhiêu, và chết được biểu hiện như thế nào – điều ấy thiết tưởng chỉ người đang yêu mới biết.

Nhưng cũng không hẳn thế, bởi nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết:

Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.

Cái "quê hương" ấy tồn tại và biểu hiện trong sự đồng hóa, tan chảy tuyệt đối của tình yêu, khiến cho mọi nhận thức về cuộc sống (của những người đang yêu) đều ở trong một "sinh quyển" diệu huyền và thánh thiện, giao hòa và gắn kết sâu xa. Có lẽ sóng trong quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh cũng trong qui luật ấy.

Sáng tác văn học thường gắn liền với nhu cầu lựa chọn phạm vi đề tài và chất liệu thể hiện. Trong bài thơ, Xuân Quỳnh đã sử dụng sóng như một biểu tượng nghệ thuật độc đáo. Sóng vừa là biên độ trào dâng của cảm xúc, sóng không dừng lại dù đã gặp bến bờ, sóng vừa là ẩn dụ niềm khao khát mãnh liệt phía những chân trời mới lạ của tình yêu… Chất liệu sóng vừa gợi hình vừa gợi cảm.

Có lẽ vì thế, với tượng hình của sóng, Xuân Quỳnh đã đem đến cho người đọc một nhận thức riềng về tình yêu và hạnh phúc, như là một khát vọng sống tột cùng và da diết khôn nguôi.

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh – Bài làm 2

Xuân Quỳnh là một trong những nhà  thơ viết về tình yêu hay nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Chị đã dể lại nhiều bài thơ tình đặc sắc: Thuyền và biển, Dẫu em biết ràng anh trở lại, Tự hát, Hoa cỏ may, Thơ tình cuối mùa thu.,. Trong đó bài thơ Sóng ngay từ khi ra đời đã được nhiều thế hệ thanh niên ưa thích. Sóng là hình tượng trung tâm của bài thơ đã góp phần diễn tả sức sống, niềm khát khao mãnh liệt của tâm hồn nhà thơ về tình yêu, về cuộc sống.

"Sóng” hiện lên như một hình tượng hai nghĩa: vừa là con sóng thật ngoài biển cả, vừa là hình ảnh tượng trưng cho nỗi khát khao hạnh phúc, khát vọng tình yêu của người phụ nữ trong bài:”Em”.

Nét đặc sắc đầu tiên của bài thơ là âm điệu, tự nó tạo thành một hình tượng sóng. Thể thơ năm chữ của bài thơ rất phù hợp với nhịp điệu tâm trạng của người con gái đang yêu. Bài thơ gồm mười khổ, chỉ có một khổ hai câu, các khổ còn lại: mỗi khổ bốn câu, Âm điệu của bài thơ chủ yếu được thể hiện bằng thanh bằng; các thanh trắc chiếm một tỉ lệ rất thấp. Chính đặc điểm này đã tạo nên sự nhịp nhàng cho âm điệu, nó vừa mô phỏng được nhịp điệu của sóng biển vừa mô phỏng nhịp điệu của tâm hồn. Mà xét đến cùng cái chính ở đây là nhịp của tâm hồn, nhịp của một tâm trạng tha thiết yêu thương. Nhịp điệu vào – ra, đều đều, vô tận của con sóng còn được tạo nên bằng những đối sánh liên tiếp phân thành hai cực: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, sông – bể, ngày xưa – ngày nay; lòng sâu – mặt nước, ngày – đêm, xuôi – ngược, phương Bắc – phương Nam, đại dương – bờ, dài – rộng, sóng nhỏ – biển lớn.

Sóng là biểu tượng của hình ảnh người con gái, đam mê và khao khát tình yêu, là biểu tượng của sự sống mãnh liệt, của một tình yêu muôn đời một tình yêu vĩnh cửu.

Tại sao nhà thơ dùng hình tượng sóng để bộc lộ lòng mình?

Đó là do sự trùng hợp đến lạ lùng giữa những trạng thái tâm hồn với những đặc tính của sóng; sự tương đồng giữa nhịp điệu của tự nhiên, của đời sống với nhịp điệu của tình cảm, của thế giới khát khao con người. Cũng không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà thơ đã dùng hình tượng biển, sóng để nổi lên sự mãnh liệt, nỗi khát khao, sự dâng đầy, niềm sôi sục, mê đắm của sự sống, của tình yêu (Xuân Diệu – Biển, Xuân Quỳnh – Thuyền và biển). Con sóng "dữ dội và dịu êm", "ồn ào và lặng lẽ" cũng là tâm tình của người phụ nữ đang yêu. Đó là trạng thái đối nghịch nhưng lại là sự thật của những bí ẩn tâm hồn. Vẻ ngoài bình lặng chứa đựng những sức mạnh ẩn tàng, những khát khao mạnh mẽ. Vẻ ngoài sôi sục, dữ dội che phủ một trái tim đằm thắm, nhân hậu, yêu mến và chở che. Chính cái bí ẩn kì lạ đó, nó khơi dậy những khát vọng lớn lao: Sóng tìm ra tận bể, vượt những giới hạn chật chội, con sóng mới thực sự tìm thấy mình, tức nhận thức được sức mạnh, nỗi khát khao, niềm sôi sục của mình, cũng như người con gái, khi đối diện với tình yêu mới hiểu nổi mình, hiểu được giá trị mình nhận thức được mình, cảm nhận hết được sức mạnh cùng khát vọng tình yêu của mình.

Và cũng chẳng khác gì với sóng, khát vọng tình yêu của loài người mãi mãi tồn tại, mãi mãi là chuyện của muôn đời: "Ôi con sóng ngày xưa, Và ngày sau vẫn thế, Nỗi khát vọng tình yêu, Bồi hồi trong ngực trẻ".

Sóng và sức mạnh của sóng là nỗi bí ẩn muôn đời, cũng như quy luật của tình yêu, một quy luật không thể nào cắt nghĩa, quy luật của muôn đời: Tình yêu là gì? Bắt đầu từ đâu? Vì sao yêu nhau: "Sóng bắt đầu từ gió, Gió bắt đầu từ đâu. Em cũng không biết nữa, Khi nào ta yêu nhau".

Sóng tượng trưng cho nỗi nhớ. Sóng nhớ bờ. Một nỗi nhớ chiếm kín cả không gian, choán đầy tâm hồn: "Lòng em nhớ đến anh. Cả trong mơ còn thức". Sóng còn là tượng trưng của lòng chung thủy: "Con nào chẳng tới bờ, Dù muôn vời cách trở". Cũng như lòng em: "Nơi nào em cũng nghĩ, Hướng về anh – một phương".

Con sóng, hình tượng trung tâm của bài thơ đã thể hiện nỗi khát khao, niềm đam mê tình yêu, cái vĩnh hằng, vô biên, nỗi bí ẩn, sự mãnh liệt và lòng chung thủy đối với tình yêu cùng niềm mong muốn sông chân thật, hết mình trọn vẹn vì tình yêu: Làm sao được tan ra, Thành trăm con sóng nhỏ, Giữa biển lớn tình yêu, Để ngàn năm còn vỗ".

Sóng trong bài thơ không chỉ là sóng theo nghĩa đen, mà còn là sự vận động của tâm hồn con người. Người con gái trong bài thơ cũng như con sóng vậy. Họ khao khát tình yêu, một tình yêu mạnh mẽ, rộng lớn, đằm thắm, thiết tha, một tình yêu tự nhiên, rất bình thường, rất đời vậy. Tình yêu ấy cũng thật rõ ràng và giản dị: con sóng khát khao tới bờ, như em mong có anh, Và chính tình yêu mãnh liệt và giản dị ấy lại là dấu hiệu của một tình yêu vĩnh hằng, muôn thuở của những trái tim đầy mong muốn yêu thương.

Xuân Quỳnh là nhà thơ của tình yêu. Hồn thơ của Xuân Quỳnh luôn tự bộc lộ khát vọng, những say đắm rạo rực, những suy tư day đứt, trăn trở của lòng mình trong tình yêu. Có thể thấy rõ đặc điểm cửa Xuân Quỳnh qua bài thơ Sóng. Người đọc yêu và thuộc thơ chị có lẽ vì họ tìm thấy nhiều nỗi niềm tha thiết, nhiều ước vọng trong sáng, nhiều niềm vui và khổ đau của tình yêu trong thơ chị. Mà điều đó chỉ có ở những nhà thơ biết và dám giữ lấy cái riêng của mình, và bằng cách đó tạo nên sự cách tân, sự phong phú cho thơ, nhất là thơ tình yêu.

0