Chứng minh câu nói Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống trong Vợ nhặt của Kim Lân – Văn hay lớp 12
Chứng minh câu nói Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống trong Vợ nhặt của Kim Lân – Bài làm 1 “Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và văn học Việt Nam sau năm 1945, truyện được in trong tập “Con chó xấu ...
Chứng minh câu nói Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống trong Vợ nhặt của Kim Lân – Bài làm 1
“Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và văn học Việt Nam sau năm 1945, truyện được in trong tập “Con chó xấu xí” năm 1962. Vốn xuất thân từ làng quê Việt Nam nên Kim Lân đã viết nên “Vợ nhặt” bằng cả tâm hồn tình cảm của một con người là con đẻ của đồng ruộng. Truyện được xây dựng với nhiều tình huống gây ấn tượng mạnh đối với người đọc.
Truyện đã phản ánh được những mặt cơ bản của hiện thực xã hội Việt Nam những ngày trước cách mạng 1945. Chỉ thông qua tình huống “nhặt được vợ của tràng”, truyện đã tái hiện được bức tranh về nạn đói thê thảm của người dân Việt Nam” từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ hai triều người bị đói”. Ở đây mở đầu truyện là cảnh “cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ vùng Nam Định, Thái Bình đội nón lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngồn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm chỏng queo bên đường. Không khí vẩn lên một mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người… Dưới gốc đa… những người đói dật dờ lặng lẽ đi như những bóng ma. tiếng quạ.. cứ gào lên từng hồi thê thiết”.
Tác phẩm còn phản ánh được một hiện thực cơ bản khác. Đó là tấm lòng người dân hướng về cách mạng và sự vận đọng của cuộc sống hướng về tương lai. Giuẵ những tiếng trống thúc thuế dồn sưu dồn dập là hình ảnh” những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê sộp. Đằng trước có là cờ đỏ to lắm” vụt lên trong ý nghĩ của Tràng. Nó báo hiệu một bình minh mới của cách mạng sẽ đến. Bóng đen tử thần bao trùm lên tất cả, đè nặng lên số phận mỗi người dân và mỗi xóm làng. Trong bối cảnh bi thảm ấy số phận con người quá rẻ mạt. Nếu trong truyện thơ “Tiễn dặn người yêu” cô gái Thái bị ép duyên, đã đau khổ than thở: “Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa” thì ở đây người đàn bà mà Tràng “nhặt được” chỉ bằng mấy bát bánh đúc, một bữa cơm no và hai hào dầu. Nạn đói đã đẩy con người đến chỗ xem miếng ăn là tất cả. Ngay cả đến cái chuyện tỏ tình thường vẫn mang màu sắc tình tứ, e lệ, duyên dáng thì giờ đây cũng chỉ trơ trọi là một câu chuyện tỏ tình thường vẫn mang màu sắc tình tứ, e lệ, duyên dáng, thì giờ đây cũng chỉ còn trơ trọi là một câu chuyện lăn xả vào miếng ăn. Vì đói khát cùng đường mà không còn giữ được sự e thẹn thông thường của người phụ nữ Việt Nam. Chỉ mấy bát bánh đúc và một lời nói” tầm phào” của gã đàn ông xa lạ mà người đàn bà kia đã “ton ton” chạy theo để trở thành “Vợ nhặt” của Tràng.
Truyện “Vợ nhặt” còn cho ta thấy người dân lao động vốn có bản chất lành mạnh, luôn luôn hướng về ánh sáng với một niềm tin bất diệt. Dù hoàn cảnh có hiểm nghèo bi thảm tuyệt vọng đến đâu, dù có kề bên cái chết, vẫn khao khát hạnh phúc, tổ ấm gia đình, vẫn hướng về sự sống và hi vọng tương lai tươi sáng. Đúng như tác giả có lần phát biểu: ” Trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái ảm đạm mà vui mà hi vong”. ….”Những người đói họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống”. Vợ chồng Tràng vẫn lấy nhau giữa cảnh ngổn ngang xác người chết đói là vì vậy. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của hai người tuy bị bủa vây bởi cái đói, cái chết nhưng “sự sống chẳng bao giờ chán nản”, vẫn là bất diệt, vẫn sinh sôi nảy nở từ bãi tha ma sặc mùi tử khí. Hạnh phúc tình yêu vẫn như làn gió xuân thổi về làm xôn xao sự sống. Trong một lúc Tràng dường như quên hết những cảnh ê chề tăm tối trước mắt, những tháng ngày đầy đe dọa phía trước. Lúc này trong lòng hắn chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà. Một cái gì lạ lắm … nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng. Sáng dậy thấy nhà cửa đổi khác, hắn cảm thấy lâng lâng và cảm thấy từ đây phải có trách nhiệm hơn với người thân và chính cuộc đời mình. Ở bà cụ Tứ càng có những biểu hiện cảm động hơn. Niềm vui vì có con dâu, vì hạnh phúc của con và niềm tin ở cuộc sống đã làm cho người mẹ nhanh nhảu hơn “Cái khuôn mặt u ám. bủng beo của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên”.
Qua truyện “Vợ nhặt” Kim Lân còn cho ta thấy trong hoạn nạn, con người lao động càng yêu thương nhau hơn dù trong cảnh khó khăn, khốn cùng, họ vẫn giữ được phẩm chất đẹp đẽ “đói cho sách rách cho thơm”. Cuộc sống khắc nghiệt đọa đày con người bắt họ phải sống cuộc sống của loài vật, nhưng nó không thể dập tắt được phần ngừoi, rất người trong lòng bà mẹ khốn khổ kia. Ba mẹ con Tràng đã tìm thấy niềm vui trong sự nương tựa, cưu mang nhau mà sống. Tình vợ chồng, mẹ con sẽ là động lực giúp họ sức mạnh vượt qua cơn hoạn nạn khủng khiếp này.
Như vậy “những con người đã vượt qua mặc cảm đói nghèo, tủi hờn để khẳng định sự sống, chắc chắn sẽ đi theo tiếng gọi của Việt Minh đề giành sự sống cho mình trong cách mạng. Vì “Đảng ta…hồn người”. Chọn tình huống “Vợ nhặt” do nạn đói rùng rợn gây nên, Kim Lân không nhằm miêu tả sự mất giá, tha hóa của con người ngược lại đã khẳng định khát vọng sống còn có phẩm giá của họ.Tình yêu cuộc sống của những con người nằm bên bờ cái chết đã trở thành nguồn sáng, nguồn ấm áp sưởi ấm lòng người, thôi thúc họ đi tới cứu lấy đời mình.
Chứng minh câu nói Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống trong Vợ nhặt của Kim Lân – Bài làm 2
"Vợ nhặt" là tác phẩm ưu tú của nhà văn Kim Lân và cũng là một trong những thành tựu xuất sắc của nền vãn học cách mạng. Tác phẩm ra đời cách đây đã trên bốn mươi năm, viết về một giai đoạn đau thương trong lịch sử dân tộc: nạn đói năm 1945 – từ Quảng Trị đến Bắc Bộ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói; thế nhưng, tác phẩm không mang tính nhất thời và sẽ bất tử với thời gian bởi giá trị nhân văn cao cả, niềm tin không bao giờ tắt hướng về con người. Trong tác phẩm, niềm tin ấy được thể hiện ở chỗ: những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống.
Như nhiều tác phẩm trước đó viết về nạn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước những số phận lương thiện và cùng khổ. Ông không dành nhiều trang viết mô tả kĩ hiện thực tàn khốc lúc bấy giờ – người chết đói như ngả rạ – mà chủ tâm thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái bề ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Cốt truyện "Vợ nhặt" thật đơn giản: Một anh chàng nghèo khổ – tên Tràng độc thân, chỉ với mấy câu "hò chơi cho đỡ nhọc", đã có được cô "vợ nhặt" – đang sống dở, chết dở vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa cái cảnh "tối sầm lại vì đói khát”. Đêm tân hôn của họ âm thầm trong bóng tối, giữa tiếng than khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió đưa lại. Bữa cơm cưới của đôi vợ chồng trẻ và người mẹ già chỉ có cháo loãng, muối hột, nhưng ăn uống rất ngon lành, trong hồi trống thúc thuế. Ba mẹ con vừa ăn cơm, vừa bàn chuyện Việt Minh phá kho thóc chia cho dân nghèo. "Trong óc Tràng, vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới".
Ngay từ đầu, câu truyện đã hiện lên đượm màu sắc tang thương tử khí: "Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người". Thực không còn gì ảm đạm hơn bức tranh quê ấy. Trong khi trước đó không lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về, “cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy lại xôn xao lên được một lúc" con bây giờ, cái đói đã đè nặng lên vai mỗi người; ngay cả bọn trẻ – những đứa bé hồn nhiên, vô tư nhất cũng mất đi sự tự nhiên, ngây thơ của mình, chúng ủ rũ, không buồn nhúc nhích…
"Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều, người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa". Tràng dẫn người đàn bà này về làm vợ, xây dựng gia đình, sinh con đẻ cái để tiếp nối sự sống. Giọng văn lúc này thật dồn nén và gây cảm xúc mạnh, mộc mạc mà lôi cuốn: "Mặt hắn có vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh". Đọc đến đây, ta không thể không nghĩ đến những trang bi kịch của Secxpia, Môlie hay Stăngđan. Tuy nhiên, bi kịch ở đây đã vượt lên sự thông thường vẫn có; nó cũng không phải là "hiện thân của sự ngu dốt" như Mác nói, mà trở nên sự cao cả "đẹp tươi lạ thường". Đó là biểu hiện cao nhất của sự chiến thắng, vượt lên trên thực tại chết chóc, đen tối để hướng tới sự sống, niềm tin, ánh sáng. Với chi tiết Tràng cùng vợ đi về nhà, chủ nghĩa nhân đạo trong văn học nước nhà cũng có thêm một tiêng nói mới, có sức mạnh.
Chuyện lấy vợ của Tràng, trước hết là một chuyện lạ mà thi vị. Điều ấy đã khiến người dân ở xóm ngụ cư hết sức tò mò, từ bọn trẻ con cho đến tất cả người làng; "Họ bàn tán… Họ hiểu đôi phần, khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên”. Từ trong sâu thẳm tâm hồn những người dân làng, le lói lên một chút niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện Tràng có vợ. Có thể nói, trong phút chốc, khi Tràng cùng với cô "Vợ nhặt" đi về làng, cái chết, sự ảm đạm thâm u nơi xóm ngụ cư được đẩy sang một bên. Xóm ngụ cư đang ở trên miệng vực cái chết, bỗng hé lên một thoáng sống.
Nhưng, niềm vui vừa đến, đã phải nhường chỗ chó sự âu lo. Dân làng lo thay cho Tràng: Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không. Tuy nhiên, đó không phái là nỗi lo tuyệt vọng, mà là lo cho cái sống. Sự chết chóc cứ ám ảnh, đe dọa sự sống, nhưng sự sống vẫn vượt lên cái chết. Khuôn mặt "rạng rỡ" của người dân làng, ánh mắt của họ thực ý nghĩa, nói với chúng ta bao điều.
Ở bước đường cùng, người ta sinh ra liều lĩnh – điều đó thực đúng lắm thay! Hành động nhân đùa làm thật của cô gái theo chân Tràng về nhà, xét đến cùng, là một hành động liều lĩnh. Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào các dịp chở thác lên tỉnh. Với Tràng, chị ta chẳng để lại trong anh một ấn tượng gì. Bởi thế, lần thứ hai gặp lại, Tràng phải mất một thời gian mới nhận ra và cũng như nhiều nhân vật khác trong các sáng tác của Nam Cao, cái dạ dày chị đã chiến thắng khối óc và con tim: được Tràng đãi, chị ăn liền một chập bốn bát bánh đúc. Cái đói đã đẩy lùi ý thức nhân cách, sĩ diện. Quên cả thẹn thùng, người đàn bà không tên ấy cắm đầu ăn "không chuyện trò gì". Khi Tràng ngỏ lời, không cần suy nghĩ, chị cũng đi theo một cách dễ dàng, "vô tư lự". Thế mới hay, cái đói ghê gớm biết chừng nào. Và hai cái "liều" gặp nhau đã tạo nên một gia đình thời tao loạn. Điều đáng chú ý là ở đây, khi cùng người "Vợ nhặt" về nhà, Tràng bỏ ra hai hào để mua một chai dầu, điều này có nghĩa là anh đã thắp lên một ngọn lửa trong cuộc sông tăm tối của mình, đem lại chút ánh sáng cho gia đình cũng như dân làng. Điều này chi phối toàn bộ văn phẩm. Cũng từ cuộc "hôn nhân" của Tràng, những người đời mới thực sự không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống.
Khi Tràng cùng vợ về nhà, cuộc sông trước mắt họ không kém phần thảm hại: căn nhà vắng teo, rúm ró; niêu bát, áo xống bừa bộn… Ôi, lấy vợ cưới chồng, yên bề gia thất!. Việc lớn một đời, hạnh phúc trăm năm! Vậy mà, họ bị bủa vây bởi sự nghèo đói chết chóc. Nhưng, sự sống là bất diệt, chẳng bao giờ chán nản. Trong cái chết, sự sống vẫn tồn tại, tìm chỗ sinh sôi nảy nở. Tất cả thật dữ dội, mà ý nghĩa thì lớn lao: sự sông luôn tồn tại, bất chấp cái chết…
Việc hai người xa lạ bỗng gắn bó với nhau trong cơn đói kém, chứng tỏ quyết tâm nghĩ đến cái sống của hai người, đem lại cho họ – trước hết là Tràng một niềm vui lớn lao. Trong truyện ngắn, hơn hai mươi lần nhà văn nhắc đến niềm vui và nụ cười thường trực của Tràng, khi đã có vợ. Tình yêu của hai người, có sức cải biến thật lớn.
“Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sông ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa… Trong lòng hắn, lúc này chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông ấy…”. Đúng vậy. Niềm vui lớn nhất đời anh đã thành sự thực; có vợ. Cái "mới mẻ", "lạ lẫm" ấy là tinh thần trách nhiệm của một người chủ gia đình sẽ phải lèo lái con thuyền nhà – gia đình qua thời điểm khó khăn, vươn lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt để xây dựng cuộc sống. Tràng bỏ sau lưng tất cả những tiếng hờ khóc, tiếng quạ kêu…
Chỉ sau một đêm "nên vợ, nên chồng", Tràng thấy mình có sự đổi khác: "Trong người êm ái lửng lơ như người ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ như không phải…". Chuyện được "vợ nhặt" của Tràng ngỡ như đùa nhưng lại là sự thật; bao nhiêu sự sống, sinh khí trở lại với Tràng, với gia đình sau khi anh có vợ. Và cũng từ buổi "sáng hôm sau đó", dường như tất cả sự thực chết chóc không còn tồn tại nữa, Tràng chỉ nghĩ đến sự gây dựng cuộc sống, hướng về sự sống mà tạo lập hạnh phúc: "Tràng thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm ché mưa, che nắng. Một nguồn vui sướng, phân chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thây hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau này",..
Có thể nói, đó là biếu hiện cao nhất của tinh thần hướng về sự sống, quên đi cái chết đang bủa vây.
Vợ Tràng là một nhân vật khá độc đáo. Chị không có tên, không tuổi, không đặc điểm nhận dạng và, quê quán. Tưởng rằng, khi chị theo Tràng đi về nhà, với sự chao chát, chỏng lỏng văn học Việt Nam lại có thêm một nhân vật "không bình thường”. Nhưng không, ngòi bút Kim Lân chưa bao giờ để nhân vật của mình tha hóa, biến chất đến độ ấy. Khi về đến nhà Tràng, con người thật của chị mới hiện lên đầy đủ. Chị cứ "ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng". Vì sao vậy? Cái thế ngồi rụt rè, chông chênh ấy cũng là cái thế của lòng chị, trăm mối ngổn ngang. Liệu chỗ ngồi ấy có phải là chỗ của chị không? Nhà này có phải chốn để chị dung thân?
Và cũng như Tràng, sau một đêm làm vợ, chị đã thay đổi hẳn: "Trông chị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực…". Cái đói một khi được xua đi, thì sự tốt đẹp đúng như bản chất hiền trở lại với chị. Ấy cũng là lúc chị nghĩ đên sự sống, lo cho gia đình mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang… Có bàn tay săn sóc của chị, căn nhà trở nên gọn gàng, sáng sủa. Sự sống trở về với người với cảnh…
Bà cụ Tứ càng để lại cho người đọc những thiện cảm tốt đẹp. Thấy con lấy vợ trong hoàn cảnh khó khăn, bà không khỏi bùi ngùi, thương xót: "Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái, mở mày mở mặt sau này. Còn mình thì…". Nhưng, bà thực sự vui mừng khi con trai đã yên bề giá thất: "Bà lão nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên…". Rồi trong bữa cơm, cả ba mẹ con đều quên đi hiện thực đau lòng để hướng đến một tương lai tươi đẹp hơn:
"Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại, chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…".
"Nghĩ đến cái sống, không nghĩ đến cái chết là ở chỗ đấy. Bà cố gắng xua đi thực tại hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho các con. Tuy nhiên, món chè cám đã nhắc họ về với thực tại. Chao ôi, chè cám! Phải đói đến một mức nào đó, người ta ăn cám mới cảm thấy ngon! Cuộc sống khắc nghiệt, đày đọa, bắt họ phải sống cuộc sống loài vật, nhưng nào có dập tắt được phần NGƯỜI đáng quí trong mỗi con người. Cái phần NGƯỜI ấy, sẽ giúp họ vượt qua giai đoạn khó khăn này.
Sẽ là thiếu sót lớn nếu bỏ qua hình ảnh những người nông dân trên đê Sộp cùng nhau đi phá kho thóc, khi nói đến những kẻ hấp hối trong vòng tử địa vẫn hướng tới cuộc sống. Đó là hình ảnh không hề ngẫu nhiên chút nào, được nhà văn chuẩn bị từ trước. Nó là dấu hiệu của "bước đường cùng", không còn cách giành sự sống nào khác, phải vùng dậy đấu tranh, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tràng thấy "ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu" bởi anh chưa bắt được mạch nguồn cách mạng. Trước mắt người đọc lúc này, sự sống trở thành mục đích chung của mỗi người; họ đấu tranh, đoạn tuyệt dứt khoát với cái chết. Và chắc chắn, mẹ con Tràng sẽ tiếp nối dòng người kia, giành sự sống cho mình.
"Vợ nhặt" là thành công xuất sắc của nền văn học cách mạng. Với truyện ngắn này, Kim Lân bày tỏ thiện cảm sâu sắc với những người nghèo khổ, nhưng giàu lòng nhân ái. Ông luôn khẳng định cái đói khát, chết chóc không thể giết chết niềm tin vào cuộc sống, Năm tháng qua đi, còn mãi với thời gian là chất nhân văn cao cả của một nghệ sĩ nhân đạo.