Phân tích đoạn trích Trao duyên của truyện kiều
Đánh giá bài viết Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân Bâng khuâng nhớ cụ thương thân nàng Kiều Những vần thơ của Tố Hữu đã gợi ta nhớ tới Nguyễn Du- đại thi hào dân tộc, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn cùng kiệt tác “Truyện Kiều”. Thi phẩm hàm chứa bao giá trị hiện thực và nhân đạo khi viết về ...
Đánh giá bài viết Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân Bâng khuâng nhớ cụ thương thân nàng Kiều Những vần thơ của Tố Hữu đã gợi ta nhớ tới Nguyễn Du- đại thi hào dân tộc, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn cùng kiệt tác “Truyện Kiều”. Thi phẩm hàm chứa bao giá trị hiện thực và nhân đạo khi viết về cuộc đời và số phận của người phụ nữ tài sắc vẹn ...
Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân
Bâng khuâng nhớ cụ thương thân nàng Kiều
Những vần thơ của Tố Hữu đã gợi ta nhớ tới Nguyễn Du- đại thi hào dân tộc, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn cùng kiệt tác “Truyện Kiều”. Thi phẩm hàm chứa bao giá trị hiện thực và nhân đạo khi viết về cuộc đời và số phận của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn trong xã hội phong kiến xưa. Trong tập đại thành, nghệ thuật đã đạt đến đỉnh cao không chỉ có ngôn từ điêu luyện, giàu hình ảnh cùng các biện pháp tu từ mà còn hấp dẫn người đọc bởi những khúc đoạn miêu tả tâm trạng Kiều. Mở đầu cho chuỗi bi kịch nội tâm trong cuộc đời Kiều là khi nàng phải tự tay trao duyên cho em gái được thể hiện trong đoạn trích “ Trao duyên”.
“Truyện Kiều” là một bức tranh hiện thực xã hội phong kiến suy tàn không cưỡng lại được của bánh xe lịch sử. Kéo theo đó là sự tha hóa của bản chất con người, đồng tiền trở thành thế lực vạn năng đẩy con người lương thiện vào bức đường cùng. Gia đình Vương viên ngoại cũng không tránh khỏi tai vạ. Gia đình Kiều bị vu oan, phận làm con nên Kiều đã phải bán mình. Trước ngày đi, Kiều đã sắp xếp xong mọi việc, chỉ còn nỗi vướng bận duy nhất là mối tình dang dở với chàng Kim. Vào một đêm nọ, Kiều đã quyết định gọi Vân, kể rõ sự tình và trao tơ hồng giữa mình và Kim Trọng cho em. Đoạn trích “Trao duyên” kể về sự việc này đồng thời thể hiện tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du khi đã nhìn ra và tôn vinh vẻ đẹp và phẩm chất của Kiều trong lúc này.
Vẫn biết trao duyên là khó khăn nhưng Kiều đắn đo trước sau, băn khoăn ngập ngừng mãi nhưng vẫn thốt ra câu khiến người đọc cũng mủi lòng:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Kiều “cậy” với tất cả sự tin tưởng, khẩn khoản, tha thiết mong em sẽ giúp chứ không đơn giản là nhờ. Vì vậy nên Kiều cũng mong em “chịu lời” chứ không phải “nhận lời” bình thường. “Chịu lời” dường như Kiều có ý nài ép em phải nhận vì không nhận không được. Việc hẳn rất khó khăn và hệ trọng Kiều mới nói như vậy. Sau đó là một chuỗi hành động trang trọng, nàng “lạy” rồi “thưa” với em mình. Đối với nàng, sự nhận lời của Thúy Vân sẽ là một hành động hi sinh đáng kính và đó sẽ là cái ơn mà nàng phải lạy tạ ân nhân. Cách xưng hô rồi hành động thiêng liêng như muốn Vân chuẩn bị tâm lý mà nàng chuẩn bị nói, đó là trao duyên. Nàng đang nhúng nhường, cầu xin người ta nhận lấy người mà nàng yêu nhất, hạnh phúc mà nàng muốn có nhất. Hành động đó không phải vì nàng mà vì người nàng yêu là chàng Kim. Trong cái cử chỉ tội nghiệp kia, ta thấy tất cả sự cao khiết của một tấm lòng, một phẩm cách con người luôn hi sinh vì người khác.
Trong nước mắt, Kiều đã giãi bày tâm sự, vừa kể vừa để thuyết phục em bằng cả lý và tình:
Giữa đường đứt gành tương tư
Keo loan chắp mối tờ thừa mặc em
Tình yêu vốn là một gánh tương tư. Mối tình giữa Kim Kiều đang say đắm, nồng nàn nhất thì cơn gia biến lại ập đến, gánh tương tư này Kiều đã không đủ sức theo mang theo. Nàng đành phải đau đớn trao đi mối tình đẹp. Nhưng nàng không thể trao cho bất kì ai mà nhất định phải là em mình vì nàng coi trọng mối tình này và muốn thể hiện tấm chân tình với chàng Kim. Trao duyên cho em, Kiều hiểu rõ hơn ai nỗi khó của Vân khi phải nhận việc này. Kiều dùng điển tích “keo loan” mong em có thể hiểu cho sự bất lực trong tình duyên của chính mình. Vì đã từng yêu thương, nên Kiều lại càng xót xa khi Vân phải nhận “mối tơ thừa” này và kết hôn với một người mình không yêu. Nhưng Kiều cũng không làm được gì, cũng đành “mặc em”. Trong hoàn cảnh bi thương của mình, Thúy Kiều đã không chỉ trao đi duyên mà còn trao cả nỗi đau cho em gái mình.
Bế tắc khi không thể đến với chàng Kim, nàng giải thích em về lần trao duyên này còn vì lời ước nguyền năm xưa giữa hai người:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày hẹn ước, khi đêm chén thề
Kiều kể cho em nghe về quá khứ ngọt ngào, sống động “ngày quạt ước-đêm chén thề” của đôi uyên ương đã từng hẹn ước với nhau, điệp ba lần từ “khi” như những kỉ niệm, tình cảm sâu đậm khó có thể phai mờ. Những kí ức vốn dĩ rất ngọt ngào, giờ đây nhớ lại trở thành một nỗi dắng cay khi cố gắng chạm đến hạnh phúc nhưng không được. Nó lớn dần khi Kiều nghĩ tới nguyên nhân của nỗi đau:
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình vẹn lẽ khôn bề vẹn hai
Từ “sự đâu” như lời oán trách số phận đã gây ra “sóng gió bất kì” làm cuộc đời nàng khốn khổ. Nhà có chuyện, phận làm con Kiều phải bán mình cứu cha. Đó là bổn phận nhưng Kiều có thực sự cam tâm khi làm vậy? Cả một con tim đang chảy máu, đau đớn, day dứt, quằn quại. Thật vô lý phải lựa chọn giữa chữ hiếu và chữ tình mà đúng ra nó phải cùng tồn tại song song với nhau như điều thiêng liêng nhất trong con người. Câu hỏi tu từ “Hiếu tình vẹn lẽ khôn bề vẹn hai” vang lên trăm ngàn nuối tiếc, đắng cay mà nàng cố kim nén xin em, chữ hiếu chị đã nhận, em hãy giúp chị làm tròn chữ tình. Trong bi kịch mất tình yêu của chính mình, Kiều vẫn lo lắng, xót thương cho người khác, nàng đau đớn vì cố hi sinh hết thân mình mà Vân vẫn chịu khổ. Bởi vậy mà người ta mới thương Kiều, nhớ đến Kiều với hình bóng người con gái giàu đức hi sinh, nhạy cảm với nỗi đau của người khác.
Cậy em bằng đủ các lý do thiêng liêng nhất, nhưng giờ phút hành động trao đi tín vật tình yêu, chính thức cắt đứt tơ tình lại khiến Kiều quyến luyến, mất mát vô cùng.
Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ, vật này của chung
"Chiếc vành- Tờ mây" là vật thề ước, là sự chứng thực cho mối tình đôi lứa Kim Trọng- Thúy Kiều. Có hai vật đó Kiều mới có thể đường hoàng bên chàng Kim đến “đầu bạc răng long”. Nhưng mất nó đồng nghĩa Kiều với Kim không còn là gì cũng như tình yêu sẽ đổ vỡ không thể hàn gắn. Bởi vậy nên mỗi kỉ vật trao đi như từng mảnh tình yêu cuối cùng rời khỏi tay Kiều. Giọng điệu nghe ra bình thường như vẫn có tiếng nấc nghẹn ngào sau từng câu câu chữ. Trao đi “duyên này…vật này” cho Vân nhưng lại kết bằng hai chữ “của chung”. Tình yêu với Kiều là sự sống, là hơi thở nên đâu nói bỏ là dứt được. Nguyễn Du cuối cùng vẫn để kiều trở lại là người con gái yếu đuối nằm trong dòng xoáy tâm lí thường tình, khi mất đi thứ gì càng quan trọng với mình thì càng ý thức mạnh mẽ về giá trị thực của nó. Cho nên “của chung” mới vang lên trong Kiều với bao nhiêu giằng xé, mâu thuẫn . Dường như lý trí nàng đã quyết định dứt bỏ nhưng trái tim thì không thể tuân theo. Giống như kỉ vật đã trao nhưng vẫn níu kéo tình yêu, kỉ niệm cho riêng mình.
Trước đây, khát vọng tình yêu vô bờ bến đã vẽ ra trong tưởng tượng của cô về tương lai ngập tràn màu hồng hạnh phúc. Nhưng cuộc đời bể dâu với những “sóng gió bất kì” đã khiến Kiều rơi vào bi kịch của sự tuyệt vọng do chính mình tạo ra khi nhìn vào phía trước vẫn hoàn hảo như vậy, chỉ thiếu bóng mình.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Kiều day dứt láy đi láy lại về tương lai nên duyên vợ chồng giữa Kim Trọng và Vân. Như vậy, nghĩa cho Kim Trọng đã trả, Vân đã có hạnh phúc cho mình, nàng cũng đã báo hiếu cho cha mẹ. Nhưng nàng vẫn không thanh thản vì hạnh phúc cuộc đời nàng là chàng Kim đã thuộc về người khác. Tương lai đã không có chỗ cho Kiều. Nàng cô độc, bơ vơ bên lề hạnh phúc. Nàng sẽ chẳng còn lại gì, thân “bạc mệnh” này chỉ mong chờ vào “chút của tin” cùng quá khứ xưa để được tưởng nhớ không bị lãng quên. Hiện tại vẫn còn đây “chút của tin”, nhưng đó chỉ còn là của “ngày xưa” , là vật gợi lại kí ức trong quá khứ của Kiều, còn mai sau sẽ là của Vân. Chữ “ngày xưa” xa xôi vang lên chua xót gọi về mối tình đẹp mới như ngày hôm qua giữa Kim Kiều. Lúc này, dường như nhớ về kỉ niệm tình yêu ấm áp “phím đàn với mảnh hương nguyền” kia lại càng khiến Kiều đau đớn hơn.
Dấn thân sâu vào nỗi tuyệt vọng, Kiều cảm thấy tương lai sống hay chết cũng không mấy khác biệt:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan
Lại thêm một lần nữa Kiều nói về cái chết của mình. Kiều lần đầu nhắc đến cái chết để cầu xin em nhận duyên như đang thực hiện di nguyện của chị mà đến sau này khi chết đi vẫn chỉ có một. Vân nhận lấy duyên của Kiều, nàng vẫn không hề thanh thản mà lại cảm thấy mình chết đi nhưng không thể siêu thoát được. Kiều đến cõi hư không mà vẫn chỉ là một mảnh hồn thác oan vất vương theo ngọn gió hiu hiu với tiếng tơ tình trên phím đàn, với mùi hương của mảnh trầm ngày xưa và vẫn còn mang nặng lời thề, lời nguyền nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai. Kiều đinh ninh mình sẽ là một hồn oan và tha thiết mong em sẽ đến rưới giọt nước cho người thác oan. Kiều chìm trong thế giới âm u của cõi chết hay sự ảm đạm trong chính tâm trạng mình. Xã hội xưa đã đày đọa con người ta đến đường cùng, cướp đi quyền yêu và hạnh phúc, khiến cho một cô gái “xuân xanh” như Kiều lại bế tắc nghĩ đến cái chết. Nàng vùng vẫy vọng tuyệt vọng, muốn biết tại sao mình lại phải hy sinh thân mình, trao duyên, chịu đựng giằng xé vì một lỗi lầm không phải của ai cả. Sự không cam lòng ấy lại chẳng thể chia sẻ với ai, không ai thấu hiểu nên càng bế tắc. Cả cuộc đời, Kiều vẫn luôn sống trong sự trăn trở với những câu hỏi xem mình làm vậy có đúng hay không. Và ngòi bút nhân đạo Nguyễn Du đã nhìn thấy sự khốn khổ đó của con người trong xã hội cũ và để sự tự ý thức về cuộc đời, số phận, phẩm chất lần đầu tiên được bộc lộ rõ ràng, quyết liệt như thế. Nhà thơ đã lên tiếng che chở cho nhu cầu hạnh phúc cơ bản, vốn có của con người.
Nếu những câu thơ đầu là lời Kiều thuyết phục em nhận duyên và sự đau đớn cho quyết định nghiệt ngã của mình thì 8ct cuối là tiếng khóc nghẹn ngào không kìm nén nổi cùng lời tạ từ Kiều gửi Kim Trọng.
Nỗi đau mất tình yêu quá lớn đã khiến Kiều quên rằng trước mặt mình là Thúy Vân, lúc này đối diện nàng chính là Kim Trọng. Bao nhiêu nhớ thương ấp ủ, lời tâm sự chua xót về số phận và tình yêu của mình nay bộc phát, trào dâng mạnh mẽ. Kiều khóc thương thân mình và dằn vặt khi nghĩ về sự đổ vỡ của tình yêu.
Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Mối tình tan vỡ không còn hi vọng. Trâm đã gãy, gương đã tan, còn có điều gì để nối lại. Mà có nối lại thì vẫn sẽ còn mãi vết nối ấy cũng như tình cảm sẽ chẳng còn như xưa. Kiều ý thức rõ ràng bi kịch của mình là không gì cứu vãn nổi bởi mất mát vô hạn nàng gây ra đối với tình yêu của mình và Kim Trọng. Đáng lẽ ra nàng không nên nắm giữ tình yêu để khi không giữ nổi lại phụ lòng người khác. Đối với chàng Kim mà nói, tình cảm “kể làm sao xiết” chàng dành cho Kiều càng lớn bao nhiêu thì nỗi đau chàng chịu sẽ lớn bấy nhiêu. Kiều nhận thấy điều này nên càng đau khổ hơn gấp nghìn lần. Nỗi đau biến thành hành động “lạy” tạ lỗi cũng là từ biệt. Trong lòng vẫn còn ngổn ngang tâm sự, vẫn còn trăm nghìn điều Kiều muốn nói với chàng nhưng tình duyên để dang dở lại cho em, lời thề nguyền hẹn ước cũng không thể giữ, nay tín vật cũng đã trao, nàng còn gì để nói ngoài hành động “trăm nghìn gửi lạy tình quân”. Nàng cũng chỉ còn biết xót xa cho chính “tơ duyên ngắn ngủi” của mình. Bế tắc đỉnh điểm, nàng đã tự hỏi “Phận sao phận bạc như vôi”. Từ “phận” được lặp lại hai lần nhấn mạnh cho sự nhỏ bé của những con người bấy giờ. Thành ngữ “phận bạc như vôi” cho thấy sự bất hạnh, bạc bẽo trong cuộc đời Kiều. Cả câu mang theo sự uất ức không hiểu nổi tại sao mình phải trao duyên rồi chịu bất hạnh lúc này. Nhưng câu sau lại là sự đắng cay mà chấp nhận tuân theo số phận “Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Bởi nàng biết rằng, dù có hàng trăm hàng nghìn câu hỏi nữa, hay bất kì sự chống đối nào lại số phận thì chỉ khiến cho mọi thứ khó khăn hơn giống như tình yêu của nàng mà thôi. Xã hội xưa đã đẩy con người vào sự ân hận và bất lực vì đã yêu chân thành mãnh liệt. Tình yêu, những điều chính đáng lại trở thành căn nguyên của bi kịch tinh thần Kiều. Nhưng trong nỗi đau đó, ta cảm nhận được một người con gái giàu đức hi sinh, ý thức được về tình yêu và cuộc sống mình.
Giãi bày tâm sự, đau khổ, lo lắng, băn khoăn và cuối cùng là tiếng khóc xé lòng vang lên, Kiều chấp nhận buông tay, coi mình là kẻ phụ tình:
Ơi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Với nhịp thơ 3/3, Thúy Kiều đã gọi kim Trọng là ' kim lang' vởi trong sâu thẳm lòng Kiều Kim Trọng là phu quân. Điều đó thể hiện tình yêu Kiều với Kim Trọng rất sâu nặng. Nhưng do hoàn cảnh, Kiều đành phải phụ Kim Trọng, đành phải vứt bỏ mối tình đẹp của mình. Tiếng kêu xé lòng vang lên vọng cả trời đất.
Vận dụng linh hoạt từ ngữ, hình ảnh, điển tích điển cố nghệ thuật đặc sắc, mỗi câu thơ dường như đều thấm nỗi đau khi Kiều phải trao đi duyên tình sâu nặng đời mình. Diễn tả thành công nỗi đau của Kiều, khiến nó chạm đến trái tim bạn đọc, Nguyễn Du đã gửi gắm trái tim nhân hậu, niềm cảm thương xót đau cho kiếp đời bất hạnh qua từng trang viết. Đó cũng là lời cảnh tỉnh, tố cáo xã hội đồng tiền đã cướp đi quyền sống của con người. Có thể nói, người ta thích đọc “ Truyện Kiều” vì soi bóng nước mắt nàng Kiều, họ thấy bản thân mình. Và Nguyễn Du “nếu không có con mắt trông thấu vào sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có bút lực ấy”.
Đoạn trích “ Trao duyên” mở đầu cho cung đàn bạc mệnh của Kiều, mở đầu cho cuộc đời thứ hai với những sóng gió, trớ trêu, đau đớn, nhớ nhưng mà xã hội đương thời đẩy vào cuộc đời nàng, một thiếu nữ tài hoa, xinh đẹp. Đọc đoạn trích ta xót thương cho số phận bi ai của nàng để từ đó, ta hiểu được trách nhiệm của mình là phải chung tay xây dựng một xã hội thật bình đẳng, tươi đẹp hơn:
Trải qua một cuộc bể dâu
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình
Nỗi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi! Lệ chảy quanh thân Kiều