25/05/2017, 10:58

Thuyết minh về di tích Văn miếu quốc tử giám

Thuyết minh về di tích Văn miếu quốc tử giám 4.8 (96%) 380 votes Từ hàng ngàn năm trước, vua Lý Thái Tổ đã dời đô từ Hoa Lư về Đại La và đặt tên thành là Thăng Long. Trải qua bao biến cố lịch sử và sự khắt khe của thời gian, Hà Nội vẫn lưu giữ trong lòng nó những " dấu xưa oai hùng" cùng ...

Thuyết minh về di tích Văn miếu quốc tử giám 4.8 (96%) 380 votes Từ hàng ngàn năm trước, vua Lý Thái Tổ đã dời đô từ Hoa Lư về Đại La và đặt tên thành là Thăng Long. Trải qua bao biến cố lịch sử và sự khắt khe của thời gian, Hà Nội vẫn lưu giữ trong lòng nó những " dấu xưa oai hùng" cùng với những danh lam thắng cảnh. Một trong những nơi đó là Văn Miếu ...

Từ hàng ngàn năm trước, vua Lý Thái Tổ đã dời đô từ Hoa Lư về Đại La và đặt tên thành là Thăng Long. Trải qua bao biến cố lịch sử và sự khắt khe của thời gian, Hà Nội vẫn lưu giữ trong lòng nó những " dấu xưa oai hùng" cùng với những danh lam thắng cảnh. Một trong những nơi đó là Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Nơi đâylà một di tích gắn liền với sự thành lập của kinh đô Thăng Long dưới triều Lý, đã có lịch sử gần nghìn năm, với quy mô khang trang bề thế nhất, tiêu biểu nhất cho Hà Nội và cũng là nơi được coi là biểu tượng cho văn hóa, lịch sử Việt Nam.

Theo Đại Việt sử ký, vào mùa thu năm Canh Tuất – 1070, Vua Lý Thánh Tông đã cho khởi công xây dựng Văn Miếu để thờ các bậc tiên thánh tiên hiền, các bậc nho gia có công với nước, trong đó có thờ Khổng Tử – người sáng lập ra nền nho giáo phương Đông và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Sáu năm sau – năm 1076, Vua Lý Nhân Tông quyết định khởi xây Quốc Tử Giám – một trường Nho học cao cấp nhất hồi bấy giờ nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước. Đây là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu sự chọn lựa đầu tiên của triều đình phong kiến Việt Nam về vấn đề giáo dục, đào tạo con người Việt Nam theo mô hình Nho học châu Á.

 Hiện trong di tích còn có 82 tấm bia đá, trên đó được khắc tên của 1306 vị đã từng đỗ tiến sĩ trong 82 kỳ thi từ giữa năm 1484 và 1780. Cũng trên các tấm bia này đã ghi lại người đỗ tiến sĩ cao tuổi nhất trong lịch sử là ông Bàn Tử Quang. Ông đỗ tiến sĩ khi 82 tuổi. Người trẻ nhất là Nguyễn Hiền, quê Nam Trực (Nam Định), đậu trạng nguyên năm Đinh Mùi niên hiệu Thiên ứng Chính bình thứ 16 ( tức năm 1247) dưới triều Trần Thái Tông khi đó mới 13 tuổi. Từ đó Văn Miếu cùng Quốc Tử Giám – được coi là trường đại học đầu tiên của Việt Nam đã tồn tại đến thế kỷ 19.

Tọa lạc trên khuôn viên hơn 54.000m2, khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám nằm giữa bốn dãy phố, cổng chính ở đường Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc giáp đường Nguyễn Thái Học, phía Đông giáp phố Tôn Đức Thắng, phía Tây là phố Văn Miếu. Bên ngoài có tường vây bốn phía, bên trong chia làm 5 khu vực. Khu vực 1 gồm có Văn hồ (hồ văn); Văn Miếu môn, tức cổng tam quan ngoài cùng, cổng có ba cửa, cửa giữa to cao và xây hai tầng, tầng trên có ba chữ Văn Miếu môn. Khu vực thứ hai, từ cổng chính đi thẳng vào cổng thứ hai là Đại Trung môn, bên trái là Thánh Dực môn, bên phải có Đạt Tài môn. Tiếp trong là Khuê Văn Các (được xây dựng vào nǎm 1805). Khu vực 3 là giếng Thiên Quang (Thiên Quang Tỉnh có nghĩa là giếng trời trong sáng).

Hồ Văn nằm ở đối diện cổng chính Quốc Tử Giám, đã được trùng tu nhiều năm nay. Đây là một hồ nước trong, quanh bờ cây cối râm mát, giữa hồ có gò Kim Châu. Cảnh trí rất yên bình, nên thơ giúp cho các sĩ tử giải tỏa bớt căng thẳng trước giờ thi.

Khu nội tự Văn Miếu – Quốc Tử Giám được ngăn cách với vườn Giám và không gian bên ngoài bằng tường gạch vồ, không trát bên ngoài và có bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam. Những lối đi trong Văn Miếu đều được trải sỏi hoặc lát đá sạch sẽ. Từ cổng chính Văn Miếu Môn, vào khu Nhập đạo, theo đường thẳng tới cổng Đại Trung môn. Ở hai khu vực này trồng cây bóng mát gần kín mặt bằng và có bốn hồ nhỏ đăng đối hai bên phải trái. Trong hồ được trồng hoa sen, hoa súng tạo cho cảnh quan càng thêm tươi đẹp. Quanh hồ được xây những bức tường hoa để ngăn cách lối đi với hồ.

Nối tiếp tới Khuê Văn Các là một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời tỏa tia sáng. Tầng dưới là bốn trụ gạch vuông, chạm trổ hoa văn. Tầng trên làm bằng gỗ sơn màu đỏ có thếp vàng trừ mái lợp và những phần trang trí góc mái.

Khu tiếp theo là bia Tiến sĩ và hồ nước vuông Thiên Quang Tỉnh (giếng soi ánh mặt trời). Sát bờ hồ là lối đi và những dãy bia đá trang nghiêm, cổ kính dựng thành hai khu Đông và Tây. Mỗi khu chứa hai dãy bia đá, tất cả gồm 82 tấm bia ghi tên họ quê quán của những người đã đỗ Tiến sĩ triều Lê. Bia được đặt trên lưng các cụ rùa vì theo quan niệm của ông cha ta, rùa chính là thần Kim Quy, là một vật biểu linh cho tinh thần, sức mạnh, sự yêu thương, đoàn kết của dân tộc.

Kế tiếp khu bia tiến sĩ và hồ Thiên Quang Tỉnh là Cửa Đại Thành. Bước qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng hàng nghàn mét vuông, lát gạch Bát Tràng. Đây là nơi xưa kia được dùng làm nơi tổ chức lớp học nghe giảng đạo. Ngày nay là nơi tập trung tổ chức các sự kiện văn hóa lớn của Hà Nội và quốc gia. Chính trước mặt là tòa Đại Bái Đường rộng rãi, to lớn trải suốt chiều rộng của sân. Phía sau và song song với Đại Bái Đường là tòa Thượng Điện gồm chín gian, tường xây ba phía, mái cong vẩy cá. Thượng điện khi xưa là nơi thờ tự và học hành. Ngày nay chỉ còn là nơi thờ Khổng Tử và các vị danh nhân. Ở gian chính của Thượng điện đặt ngai lớn, bên trong có bài vị và tượng đồng của Khổng Tử. Hai gian bên phải, trái đặt ngai thờ bốn vị Tăng Tử, Mạnh Tử, Nhan Tử và Tử Tư. Ngoài bài vị ra cả 4 vị đều có tượng gỗ sơn thiếp. Hai bên của sân là hai dãy Hữu Vu và Tả Vu, cũng là khu triển lãm, trưng bày, bán đồ lưu niệm cho khách tham quan.

Sau Thượng điện là khu Khải Thánh, nơi thờ cha mẹ Khổng Tử. Phần sau cùng là khu Tiền đường và Hậu đường: đây là công trình hoàn toàn mới, nằm trong dự án trùng tu khu Thái Học khởi công xây dựng ngày 13 – 7 – 1999. Tiền đường là nơi trưng bày truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, đồng thời cũng là nơi tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, văn hoá nghệ thuật dân tộc. Hậu đường là kiến trúc gỗ hai tầng. Tầng một là nơi tôn vinh Danh sư Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An và là nơi trưng bày về Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long và nền giáo dụ Nho học Việt Nam. Tầng hai là nơi tôn thờ các danh nhân đã có công xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám và đóng góp vào sự nghiệp giáo dục Nho học Việt Nam. Đó là vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lê Thánh Tông.

Bên ngoài Hậu đường, còn có nhà chuông, lưu giữ chuông Bích Ung được đúc từ năm 1768, và nhà trống có treo trống lớn màu đỏ. So với trường đại học Bologna ở Italia – ngôi trường đại học cổ nhất còn tồn tại ở châu Âu. Ra đời năm 1088 cho đến nay, trường vẫn giữ được những nét cổ kính với kiến trúc thời Trung cổ. Nổi bật với các dãy nhà màu cam. Mái vòm ở các hành lang được trang trí những họa tiết cầu kỳ. Quần thể Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng dựa trên việc kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Phật Giáo, Nho giáo và văn hóa dân gian Việt Nam.

Văn Miếu – Quốc Tử Giám là khu di tích lịch sử văn hóa đặc biệt quan trọng. Không chỉ có giá trị về các thông tin riêng lẻ, cả vườn bia Tiến sĩ trong khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long còn là biểu tượng lưu dấu quá trình hình thành và phát triển của tầng lớp trí thức Nho học Việt Nam, những người đã tiếp thu và phát huy xuất sắc tinh hoa của các nền văn minh phương Đông để sáng tạo ra cả kho tàng văn hiến Hán Nôm giàu đậm tinh thần yêu nước và bản sắc dân tộc. Trong cuốn sách Văn bia tiến sĩ Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long, PGS.TS. Ngô Đức Thọ, các giá trị lịch sử – văn hóa của các bia Tiến sĩ Quốc Tử Giám – Thăng Long đã được khảo cứu, tìm hiểu một cách cụ thể, rõ ràng, từ đó khẳng định được vị trí, vai trò to lớn của những tấm sử đá này. Chủ trương của Lê Thánh Tông về việc dựng bia tôn vinh các nhà trí thức Nho học bậc đại khoa là sáng kiến lớn, được triều đình nhà Lê (cả Lê sơ và Lê Trung hưng) thực hiện một cách trọng thể. Dù không đủ bia cho toàn bộ các khoa và cũng bị mất mát, thất lạc một số, cả vườn bia 82 tấm hiện còn đã trở thành một di tích văn hóa nổi tiếng của cả dân tộc, được các tầng lớp nhân dân ngưỡng mộ, trân trọng. Có thể nói, dù do nhiều người viết trong những năm tháng thuộc nhiều thế hệ khác nhau, nhưng tất cả đều tập trung vào chủ đề nêu cao vai trò của những người trí thức. Và dù mỗi người mỗi vẻ thì 39 tác giả văn bia đều nhấn mạnh ý nghĩa lưu danh đồng thời liên hệ chặt chẽ với vấn đề phẩm giá danh tiết để gửi gắm những lời khuyến khích cao đẹp: “Hãy làm mây lành sao tỏ nếu điềm tốt cho đời, làm ngọc sáng vàng ròng để làm của báu cho nước, làm giáo làm gươm để dẹp trừ tiếm loạn, làm bậc tiên giác như cây kỷ cây tử để vững chắc cột rường… Nếu không được như vậy thì hiền hay không hiền, trung hay tà, phải trái nên hư phân biệt rõ ràng, ngọc có vết không thể che đậy. Người đời sẽ chỉ vào tên mà bàn tán, công luận thật nghiêm buốt, há chẳng đáng sợ lắm sao” (Vũ Duệ, Văn bia Tiến sĩ khoa 1514)… Đó chính là ý nghĩa lưu danh đi đôi với sự khuyến khích cao đẹp, khuyên răn nghiêm nghị của cả hệ thống bia Tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

 Không chỉ mang ý nghĩa lưu danh khuyến khích hiền tài giúp nước, văn bia Văn Miếu – Quốc Tử Giám còn đóng vai trò là sử đá của nền giáo dục khoa cử Việt Nam. Trước hết, đó là bức tranh lớn về quy mô nền giáo dục. Không chỉ là văn bản mang tính chất lưu trữ thông tin, các bài văn ký bia Tiến sĩ ở Văn Miếu còn là những áng văn chữ Hán viết theo thể biền ngẫu, mỗi bài đều có những đóng góp đặc sắc cho di sản văn học nước nhà với tấm lòng chân thành của tác giả văn bia muốn truyền đến cho lớp lớp mai sau những lời khích lệ rất thiết tha và đây thực sự là những tác phẩm văn học truyền đời. Cùng với đó, các tấm bia ở Văn Miếu nói chung được khắc dựng rất công phu, có giá trị về điêu khắc và thư pháp cao, trở thành những tác phẩm nghệ thuật thực sự.

Từ những giá trị lịch sử, văn hóa đó mà các bia đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám suốt nhiều thế kỷ nay đã truyền được tinh thần của người xưa gửi gắm trên những phiến đá, từ đó khích lệ lớp hậu sinh vươn lên mà học tập, xứng đáng với người xưa, góp phần dựng xây đất nước. Đó cũng chính là một trong những nguyên nhân để UNESCO quyết định công nhận 82 bia đá các khoa thi triều Lê – Mạc tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám là Di sản Tư liệu thế giới.

Vượt không gian, thời gian, Văn Miếu – Quốc Tử Giám ít nhiều thay đổi, nhưng những nét đẹp của nó vấn khá trọn vẹn cho đến giờ. Hàng năm, cứ mỗi độ xuân về, hình ảnh cổ kính, nét xưa lại hiện về thông qua những ông đồ “bày mực tàu giấy đỏ, bên phố đông người qua". Và việc xin chữ đầu năm đã trở thành nét văn hóa riêng của người Hà Nội. Có thể nói,Văn Miếu – Quốc Tử Giám là biểu tượng của tri thức, văn hóa, khát vọng trong con đường học tập của các sĩ tử nói riêng và con người Việt nam nói chung, là nét son thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế và xứng đáng là khu di tích vǎn hoá hàng đầu và mãi là niềm tự hào của người dân Thủ đô khi nhắc đến truyền thống ngàn năm văn hiến của Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội.

0